Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ năm 1986 đến năm 2016

9,265
306
124
83
Điều đó cho thy khi kinh tế phát trin không ch thay đổi cơ cấu lao động trong các
ngành ngh mà còn góp phn nâng cao chất lượng nguồn lao động, thúc đẩy cho giáo
dc địa phương phát triển.
3.1.3. Nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân
Nâng cao đời sống nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của phát
triển kinh tế, đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Thủy Nguyên. Bám sát mục tiêu
đó, trong những năm qua, huyện Thủy Nguyên tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp-thủ công nghiệp-dịch vụ, sản xuất nông nghiệp
hàng hóa giá trị cao. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu quả bền
vững, “hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung đối với các sản
phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện”. Việc dồn điền đổi thửa, quy hoạch thành vùng
sản xuất tập trung được khuyến khích. Nhiều hộ đã chuyển đổi từ sản xuất cây trồng
kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, chú trọng đưa những cây
giá trị kinh tế và cây đặc sản vào sản xuất. Nhờ đẩy mạnh phát triển chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ nông nghiệp, cơ sở hạ tầng được xây dựng, cải tạo
khang trang đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân ở các vùng nông thôn.
Khi kinh tế tăng trưởng sẽ tăng nguồn thu nhập cho người lao động, điều đó
làm cho tiêu dùng và tiết kiệm của người lao động cũng tăng lên,góp phần tăng nhu
cầu tiêu dùng các thiết bị cuộc sống hiện đại của lao động. Ngoài ra tăng trưởng kinh
tế còn sở tăng nguồn phúc lợi hội cho nhân dân, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo
trong nhân dân. Ngay năm 1990, 100% số xã có điện phục vụ sản xuất và thắp sáng,
hơn 80% số hộ dân trong huyện điện sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt. Các công
trình lớn như chợ Núi Đèo, Nhà Văn hóa Trung tâm, Đài Liệt sỹ, đường vườn hoa,
Bệnh viện huyện, Trạm xá, Đài truyền thanh huyện, trường học... được xây mới
nâng cấp. Nhiều tuyến đường liên xã, liên thôn, đường ra đồng được tu sửa, làm mới,
bảo đảm giao thông nông thôn. Đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt cả vật chất lẫn tinh
thần, số gia đình sắm sửa đồ dùng tiện nghi, đắt tiền ngày càng nhiều, các mặt hàng
thiết yếu, mặt hàng tiện ích phục vụ cho cuộc sống, giải phóng sức lao động của nhân
dân ngày cảng được nhân dân mua sắm như máy giặt, tủ lạnh, điều hòa…Chứng tỏ
cuộc sống no đủ, nhân dân bắt đầu biết hưởng thụ, phục vụ cho tái tạo sức lao động.
83 Điều đó cho thấy khi kinh tế phát triển không chỉ thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành nghề mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động, thúc đẩy cho giáo dục ở địa phương phát triển. 3.1.3. Nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân Nâng cao đời sống nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của phát triển kinh tế, đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế huyện Thủy Nguyên. Bám sát mục tiêu đó, trong những năm qua, huyện Thủy Nguyên tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp-thủ công nghiệp-dịch vụ, sản xuất nông nghiệp hàng hóa giá trị cao. Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp theo hướng hiệu quả và bền vững, “hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của huyện”. Việc dồn điền đổi thửa, quy hoạch thành vùng sản xuất tập trung được khuyến khích. Nhiều hộ đã chuyển đổi từ sản xuất cây trồng kém hiệu quả sang trồng cây ăn quả có giá trị kinh tế cao, chú trọng đưa những cây có giá trị kinh tế và cây đặc sản vào sản xuất. Nhờ đẩy mạnh phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nội bộ nông nghiệp, cơ sở hạ tầng được xây dựng, cải tạo khang trang đã góp phần nâng cao đời sống nhân dân ở các vùng nông thôn. Khi kinh tế tăng trưởng sẽ tăng nguồn thu nhập cho người lao động, điều đó làm cho tiêu dùng và tiết kiệm của người lao động cũng tăng lên,góp phần tăng nhu cầu tiêu dùng các thiết bị cuộc sống hiện đại của lao động. Ngoài ra tăng trưởng kinh tế còn là cơ sở tăng nguồn phúc lợi xã hội cho nhân dân, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo trong nhân dân. Ngay năm 1990, 100% số xã có điện phục vụ sản xuất và thắp sáng, hơn 80% số hộ dân trong huyện có điện sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt. Các công trình lớn như chợ Núi Đèo, Nhà Văn hóa Trung tâm, Đài Liệt sỹ, đường vườn hoa, Bệnh viện huyện, Trạm xá, Đài truyền thanh huyện, trường học... được xây mới và nâng cấp. Nhiều tuyến đường liên xã, liên thôn, đường ra đồng được tu sửa, làm mới, bảo đảm giao thông nông thôn. Đời sống nhân dân cải thiện rõ rệt cả vật chất lẫn tinh thần, số gia đình sắm sửa đồ dùng tiện nghi, đắt tiền ngày càng nhiều, các mặt hàng thiết yếu, mặt hàng tiện ích phục vụ cho cuộc sống, giải phóng sức lao động của nhân dân ngày cảng được nhân dân mua sắm như máy giặt, tủ lạnh, điều hòa…Chứng tỏ cuộc sống no đủ, nhân dân bắt đầu biết hưởng thụ, phục vụ cho tái tạo sức lao động.
84
thể nói, bức tranh kinh tế Thuỷ Nguyên trong giai đoạn gần đây đã
những gam màu sáng, hoạt động kinh tế sôi động hơn đã mang lại hơi thở mới trong
cuộc sống của người dân nơi đây. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân
Thuỷ Nguyên được cải thiện rõ rệt nhờ các biện pháp chăm lo đầu tư cơ sở hạ tầng,
phát triển văn hoá giáo dục. Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng
được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Đến nay, huyện đã hoàn thành
chương trình đưa bác sỹ về sở, sửa chữa các trạm y tế xã, đầu tư hệ thống trang
thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh. Đặc biệt, công tác giáo dục
đầu tư giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đến năm 2000 các thị trấn
đều có trường học cao tầng, nhiều xã có từ hai trường trở lên. Toàn huyện có 9 trường
THPT, trong đó có 6 trường quốc lập 1 trường dân lập, 1 trường bán công, 1 trung
tâm giáo dục thường xuyên, 1 trung tâm dạy nghề 37 xã thị trấn trường cấp 1
(Tiểu học) và cấp 2(THCS). Thủy Nguyên là huyện đi đầu Thành phố trong phổ cấp
cấp tiểu học, THCS và THPT. Chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên
bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy các lớp học tình
thương, giúp đỡ trẻ em hoàn cảnh đặc biệt hòa nhập cộng đồng. Công tác chăm
sóc người có công, gia đình liệt sỹ, thương binh thường xuyên được quan tâm. Các
hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng phát triển mạnh mẽ. Công tác xã hội hoá thể
thao được đẩy mạnh từ cấp huyện đến cơ sở, góp phần rèn luyện sức khoẻ nhân dân.
Các môn bơi lặn, bóng đá thiếu niên nhi đồng, điền kinh trong sân đều đạt thành tích
cao. Các khu vui chơi giải trí, các trung tâm mua sắm ra đời, đã và đang hoạt động
tích cực vào những ngày cuối tuần, góp phần nâng cao chất lượng đời sống tinh thần
cho nhân dân toàn huyện.
Bảng 3.2. Thống kê tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người
m
1995
2000
2010
2016
Tốc độ tăng
trưởng kinh tế
hàng năm
8%
14%
16,7%
17,6%
Thu nhập bình
quân đầu
người hàng
năm
31 triu
đồng
70 triu
đồng
120 triu
đồng
210 triu
đồng
(Nguồn: [15])
84 Có thể nói, bức tranh kinh tế Thuỷ Nguyên trong giai đoạn gần đây đã có những gam màu sáng, hoạt động kinh tế sôi động hơn đã mang lại hơi thở mới trong cuộc sống của người dân nơi đây. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Thuỷ Nguyên được cải thiện rõ rệt nhờ các biện pháp chăm lo đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá giáo dục. Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Đến nay, huyện đã hoàn thành chương trình đưa bác sỹ về cơ sở, sửa chữa các trạm y tế xã, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh. Đặc biệt, công tác giáo dục đầu tư giáo dục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đến năm 2000 các xã thị trấn đều có trường học cao tầng, nhiều xã có từ hai trường trở lên. Toàn huyện có 9 trường THPT, trong đó có 6 trường quốc lập 1 trường dân lập, 1 trường bán công, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên, 1 trung tâm dạy nghề và 37 xã thị trấn có trường cấp 1 (Tiểu học) và cấp 2(THCS). Thủy Nguyên là huyện đi đầu Thành phố trong phổ cấp cấp tiểu học, THCS và THPT. Chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy ở các lớp học tình thương, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hòa nhập cộng đồng. Công tác chăm sóc người có công, gia đình liệt sỹ, thương binh thường xuyên được quan tâm. Các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng phát triển mạnh mẽ. Công tác xã hội hoá thể thao được đẩy mạnh từ cấp huyện đến cơ sở, góp phần rèn luyện sức khoẻ nhân dân. Các môn bơi lặn, bóng đá thiếu niên nhi đồng, điền kinh trong sân đều đạt thành tích cao. Các khu vui chơi giải trí, các trung tâm mua sắm ra đời, đã và đang hoạt động tích cực vào những ngày cuối tuần, góp phần nâng cao chất lượng đời sống tinh thần cho nhân dân toàn huyện. Bảng 3.2. Thống kê tốc độ tăng trưởng kinh tế và thu nhập bình quân đầu người Năm 1995 2000 2010 2016 Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm 8% 14% 16,7% 17,6% Thu nhập bình quân đầu người hàng năm 31 triệu đồng 70 triệu đồng 120 triệu đồng 210 triệu đồng (Nguồn: [15])
85
Như vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm tăng dần đều. Khoảng cách 20
năm (từ 1995 đến 2016) tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng hơn hai lần. Cùng với tăng
trưởng kinh tế thì thu nhập bình quân của người dân cũng tăng theo, tăng dần đều,
trong vòng 20 năm thu nhập người dân tăng gấp 3 lần. Như vậy tỉ lệ thu nhập bình
quân đầu người trên có tốc độ nhanh hơn tăng trưởng kinh tế. Điều đó chứng tỏ kinh
tế phát triển, đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện đúng đắn, hiệu quả.
Bảng 3.3. Số liệu trung bình sử dụng đồ dùng tiện ích của nhân dân huyện
(ĐV:chiếc/ vạn dân)
Sản phẩm
Năm
Tủ lạnh
Mày giặt
Điều hòa
1995
100
50
10
2000
500
300
100
2010
1500
1000
800
2016
2700
2500
3000
(Nguồn: [15])
Khi kinh tế phát trin, ngun thu nhp của người dân được ổn định nâng
cao, tích lũy, người dân có xu hướng tận hưởng cuc sng, trang b các thiết b
hiện đại,phc v sinh hot. S ng các thiết b hiện đại được s dng trong các h
gia đình ngày càng tăng theo thi gian, nhiu h gia đình còn có sử dng nhiu thiết
b cùng lúc.
Bảng 3.4: Thu nhập bình quân theo tháng của các hộ sản xuất theo lĩnh vực kinh
tế huyện Thủy Nguyên giai đoạn 2000 - 2016
(Đv: triệu đồng)
Ngành
Năm
Nông nghip
Nuôi trng,
đánh bt
thy, hi sn
H công nghip,
tiu th công
nghip
H thương
nghip và
dch v
2000
2.4
3.2
3.5
3.3
2005
2.9
4.3
4.6
4.2
2010
4.2
12
8.6
8.7
2016
5,1
15
10.5
11
(Ngun: [24], [16], [11])
85 Như vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm tăng dần đều. Khoảng cách 20 năm (từ 1995 đến 2016) tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng hơn hai lần. Cùng với tăng trưởng kinh tế thì thu nhập bình quân của người dân cũng tăng theo, tăng dần đều, trong vòng 20 năm thu nhập người dân tăng gấp 3 lần. Như vậy tỉ lệ thu nhập bình quân đầu người trên có tốc độ nhanh hơn tăng trưởng kinh tế. Điều đó chứng tỏ kinh tế phát triển, đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế của huyện đúng đắn, hiệu quả. Bảng 3.3. Số liệu trung bình sử dụng đồ dùng tiện ích của nhân dân huyện (ĐV:chiếc/ vạn dân) Sản phẩm Năm Tủ lạnh Mày giặt Điều hòa 1995 100 50 10 2000 500 300 100 2010 1500 1000 800 2016 2700 2500 3000 (Nguồn: [15]) Khi kinh tế phát triển, nguồn thu nhập của người dân được ổn định và nâng cao, có tích lũy, người dân có xu hướng tận hưởng cuộc sống, trang bị các thiết bị hiện đại,phục vụ sinh hoạt. Số lượng các thiết bị hiện đại được sử dụng trong các hộ gia đình ngày càng tăng theo thời gian, nhiều hộ gia đình còn có sử dụng nhiều thiết bị cùng lúc. Bảng 3.4: Thu nhập bình quân theo tháng của các hộ sản xuất theo lĩnh vực kinh tế huyện Thủy Nguyên giai đoạn 2000 - 2016 (Đv: triệu đồng) Ngành Năm Nông nghiệp Nuôi trồng, đánh bắt thủy, hải sản Hộ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Hộ thương nghiệp và dịch vụ 2000 2.4 3.2 3.5 3.3 2005 2.9 4.3 4.6 4.2 2010 4.2 12 8.6 8.7 2016 5,1 15 10.5 11 (Nguồn: [24], [16], [11])
86
3.1.4. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa
Đô thị hóa là quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các
mặt dân số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống. Những năm cuối thế kỷ XX, dưới
tác động của phát triển kinh tế và đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nông thôn Thủy
Nguyên nhiều đổi mới tốc độ đô thị hóa các xã, thị trấn diễn ra khá nhanh.
Phong trào “ngói hóa”, nhà cao tầng được người dân quan tâm, số nhà tranh vách
đất không còn, nhà xây dựng kiên cố tăng nhanh, những ngôi nhà không chỉ kiên cố
còn đẹp, hiện đại, theo những kiến trúc phương tây như biệt thự, mái thái, nhà
vườn. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, huy động cả
hệ thống chính trị nhân dân chung sức xây dựng nông thôn mới. Đến hết năm
2015, huyện có 9 xã về đích nông thôn mới; phấn đấu đến năm 2018 đạt huyện nông
thôn mới. Như vậy việc đầu tư, chú ý phát triển kinh tế góp phần thay đổi bộ mặt
nông thôn huyện Thủy Nguyên, thúc đẩy cho các hoạt động khác của huyện đạt thành
tựu cao.
Hệ thống lưới điện phủ kín đến toàn huyện, tới cả những vùng sâu vùng xa.
Bên cạnh đó, công tác quản lý phương tiện, giải toả hành lang an toàn giao thông
được tăng cường, thường xuyên thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường sá.
Đến nay, huyện Thuỷ Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp
ở các xã, thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần
đóng góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bênh cạnh đó, ngành Bưu điện Thuỷ
Nguyên cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc. Công tác quản trật tự xây dựng,
chỉnh trang đô thị được tăng cường, tạo sự kết nối giữa các đô thị vệ tinh của huyện với
thành phố. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới gắn với
tiến trình đô thị hóa đang ngày càng phát triển tại các khu vực các xã và thị trấn. Các địa
phương đã và đang tích cực nghiên cứu ứng dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, nhất
là ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, xây dựng các chuỗi liên kết từ sản
xuất đến tiêu thụ, xây dựng các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao đáp ứng nhu
cầu người tiêu dùng, quy hoạch và sử dụng đất đai hiệu quả.
Nhờ vậy, kinh tế nông thôn nói chung, năng suất, chất lượng sản xuất nông
nghiệp của huyện ngày càng nâng cao hiệu quả đóng góp quan trọng cho sự phát triển
86 3.1.4. Thúc đẩy quá trình đô thị hóa Đô thị hóa là quá trình phát triển rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân số, mật độ dân số, chất lượng cuộc sống. Những năm cuối thế kỷ XX, dưới tác động của phát triển kinh tế và đề án chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nông thôn Thủy Nguyên có nhiều đổi mới tốc độ đô thị hóa ở các xã, thị trấn diễn ra khá nhanh. Phong trào “ngói hóa”, nhà ở cao tầng được người dân quan tâm, số nhà tranh vách đất không còn, nhà xây dựng kiên cố tăng nhanh, những ngôi nhà không chỉ kiên cố mà còn đẹp, hiện đại, theo những kiến trúc phương tây như biệt thự, mái thái, nhà vườn. Chương trình xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, huy động cả hệ thống chính trị và nhân dân chung sức xây dựng nông thôn mới. Đến hết năm 2015, huyện có 9 xã về đích nông thôn mới; phấn đấu đến năm 2018 đạt huyện nông thôn mới. Như vậy việc đầu tư, chú ý phát triển kinh tế góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn huyện Thủy Nguyên, thúc đẩy cho các hoạt động khác của huyện đạt thành tựu cao. Hệ thống lưới điện phủ kín đến toàn huyện, tới cả những vùng sâu vùng xa. Bên cạnh đó, công tác quản lý phương tiện, giải toả hành lang an toàn giao thông được tăng cường, thường xuyên thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường sá. Đến nay, huyện Thuỷ Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp ở các xã, thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần đóng góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bênh cạnh đó, ngành Bưu điện Thuỷ Nguyên cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc. Công tác quản lý trật tự xây dựng, chỉnh trang đô thị được tăng cường, tạo sự kết nối giữa các đô thị vệ tinh của huyện với thành phố. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới gắn với tiến trình đô thị hóa đang ngày càng phát triển tại các khu vực các xã và thị trấn. Các địa phương đã và đang tích cực nghiên cứu ứng dụng chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới, nhất là ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, xây dựng các chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ, xây dựng các sản phẩm nông nghiệp có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng, quy hoạch và sử dụng đất đai hiệu quả. Nhờ vậy, kinh tế nông thôn nói chung, năng suất, chất lượng sản xuất nông nghiệp của huyện ngày càng nâng cao hiệu quả đóng góp quan trọng cho sự phát triển
87
kinh tế, hội của thành phố Hải Phòng. Thuỷ Nguyên - khởi nguồn của dựng xây,
của những tín hiệu mới đang ngày một khởi sắc. Mảnh đất này, chẳng bao lâu nữa, sẽ
trở thành một trung tâm đô thị hành chính của Thành phố Cảng. Trong thời gian tới,
khi quy hoạch của thành phố được triển khai, Thuỷ Nguyên sẽ hứa hẹn nhiều điều bất
ngờ, đột phá trong tốc độ phát triển kinh tế và văn hoá - xã hội. Đưa Thủy Nguyên trở
thành lá cờ đầu trong phong trào thi đua phát triển của các quận huyện ở Hải Phòng
Bảng 3.5. Thống kê thu ngân sách của huyện trong những năm gần đây
Năm
Ngun tng thu
(T)
Kế hoch
huyn đt (%)
Kế hoch thành
ph đạt (%)
2001
42,702
125
130
2005
59,2
103,9
150,4
2010
85,63
116,6
200,8
2012-2016
48,8
82
91
(Ngun: [26])
3.2. Tác động tiêu cực
3.2.1. Suy giảm nguồn tài nguyên khoáng sản
Hiện không ít mỏ đá trên địa bàn huyện Thủy Nguyên nằm giữa khu dân cư,
có tính chất an ninh quốc phòng, song vẫn bị “liệt” vào danh sách các núi phải “xẻ
thịt”. Được quyền khai thác, vì lợi nhuận doanh nghiệp cứ “nhắm mắt làm liều” trong
khi chính quyền địa phương thì “khổ sở” khi liên tục phải giải quyết các kiến nghị
của nhân dân. Hai năm trở lại đây, hoạt động khai thác khoáng sản ở huyện Thủy
Nguyên dần đi vào nền nếp. Với sự “mạnh tay”, quyết liệt của các cấp chính quyền
địa phương, tình trạng khai thác trái phép nguồn tài nguyên đa vôi lộn xộn, tràn lan
từng gây bức xúc trong dư luận đến nay cơ bản đã chấm dứt. Tuy nhiên, hiện sự phức
tạp lại nảy sinh từ phía các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân được cấp phép khai thác…
nguyên nhân chính do chế quản lý hoạt động này còn nhiều bấtcập. Nạn
khai thác trái phép nguồn đá vôi ở Thủy Nguyên không đảm bảo an toàn, người dân
luôn nơm nớp nỗi lo sợ có mỏ đá vôi khu vực bắn mìn lấy đá chỉ cách hơn
200m hang quân sự chứa khí tài từ thời kháng chiến chống Mỹ. Nếu bom, mìn,
thủy lôi… chứa trong hang phát nổ thì hậu quả thật khó lường. Thế nhưng, các công
87 kinh tế, xã hội của thành phố Hải Phòng. Thuỷ Nguyên - khởi nguồn của dựng xây, của những tín hiệu mới đang ngày một khởi sắc. Mảnh đất này, chẳng bao lâu nữa, sẽ trở thành một trung tâm đô thị hành chính của Thành phố Cảng. Trong thời gian tới, khi quy hoạch của thành phố được triển khai, Thuỷ Nguyên sẽ hứa hẹn nhiều điều bất ngờ, đột phá trong tốc độ phát triển kinh tế và văn hoá - xã hội. Đưa Thủy Nguyên trở thành lá cờ đầu trong phong trào thi đua phát triển của các quận huyện ở Hải Phòng Bảng 3.5. Thống kê thu ngân sách của huyện trong những năm gần đây Năm Nguồn tổng thu (Tỷ) Kế hoạch huyện đạt (%) Kế hoạch thành phố đạt (%) 2001 42,702 125 130 2005 59,2 103,9 150,4 2010 85,63 116,6 200,8 2012-2016 48,8 82 91 (Nguồn: [26]) 3.2. Tác động tiêu cực 3.2.1. Suy giảm nguồn tài nguyên khoáng sản Hiện không ít mỏ đá trên địa bàn huyện Thủy Nguyên nằm giữa khu dân cư, có tính chất an ninh quốc phòng, song vẫn bị “liệt” vào danh sách các núi phải “xẻ thịt”. Được quyền khai thác, vì lợi nhuận doanh nghiệp cứ “nhắm mắt làm liều” trong khi chính quyền địa phương thì “khổ sở” khi liên tục phải giải quyết các kiến nghị của nhân dân. Hai năm trở lại đây, hoạt động khai thác khoáng sản ở huyện Thủy Nguyên dần đi vào nền nếp. Với sự “mạnh tay”, quyết liệt của các cấp chính quyền địa phương, tình trạng khai thác trái phép nguồn tài nguyên đa vôi lộn xộn, tràn lan từng gây bức xúc trong dư luận đến nay cơ bản đã chấm dứt. Tuy nhiên, hiện sự phức tạp lại nảy sinh từ phía các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân được cấp phép khai thác… mà nguyên nhân chính là do cơ chế quản lý hoạt động này còn nhiều bấtcập. Nạn khai thác trái phép nguồn đá vôi ở Thủy Nguyên không đảm bảo an toàn, người dân luôn nơm nớp nỗi lo sợ vì có mỏ đá vôi mà khu vực bắn mìn lấy đá chỉ cách hơn 200m là hang quân sự chứa khí tài từ thời kháng chiến chống Mỹ. Nếu bom, mìn, thủy lôi… chứa trong hang phát nổ thì hậu quả thật khó lường. Thế nhưng, các công
88
nhân ở đây vẫn tư nổ mìn bắn đá trong khi “tử thần” rình rập. Khai thác đá làm
ảnh hưởng tới nhà cửa, ruộng lúa, hoa màu… của các hộ dân xung quanh.
Đó chưa kể lượng khói bụi ô nhiễm, tiếng ồn gây bức xúc cho cả thôn.
Huyện Thủy Nguyên có 6 dự án xi măng, trong đó 5 nhà máy đang hoạt động gồm: xi
măng Hải Phòng, xi măng Chinfon - Hải Phòng, xi măng Phúc Sơn, xi măng Tân Phú
Xuân, xi măng Xuân Thủy 1 nhà máy đang được xây dựng trên địa bàn Gia
Đức. hiện nguồn tài nguyên đá vôi ở Thủy Nguyên có trữ lượng khoảng 380 triệu m3.
Nếu hoạt động trong vòng 50 năm, với công suất như hiện nay thì 6 dự án này phải
“ngốn” 500 triệu m3. “Do vậy, muốn có đủ nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà
máy xi măng này, trong tương lai thì chỉ còn cách là san bằng tất cả các quả núi trên
địa bàn huyện.” khiến những ngọn núi nơi đây đang từng bước bị "xóa sổ" trong
tương lai Thủy Nguyên sẽ không còn núi đá. Ngoài tài nguyên đá vôi, còn có mỏ sắt
ở Dương Quan, cao lanh ở Doãn Lại, tuy nhiên nguồn tài nguyên này trữ lượng thấp,
kỹ thuật khai thác lạc hậu nên suy giảm nguồn tài nguyên này chậm hơn đá vôi.
Việc cấp phép khai thác mỏ theo thời gian hiện nay cũng nảy sinh bất cập
khác. Nhiều đơn vị tổ chức khai thác mỏ với "tốc độ" nhanh, thường vượt trước thời
hạn được cấp phép đã hết đá, sẽ gây thất thu cho ngân sách. Việc xử lý các đơn vị vi
phạm còn nảy sinh nhiều khó khăn vướng mắc. Ðối với các doanh nghiệp được Bộ
TN-MT và thành phố cấp phép, huyện chỉ có thể ra thông báo yêu cầu các đơn vị này
chấp hành quy định về thuê đất trước khi thực hiện khai thác mỏ, thực hiện quy trình
khai thác an toàn, tuân thủ quy định về vành đai khai thác mỏ... còn việc xử vi
phạm lại phải trông chờ vào các quan chức năng khác, không thuộc thẩm quyền
của địa phương. Vì thế, việc khai thác đá bừa bãi tại Thủy Nguyên đang khiến nguồn
tài nguyên này cạn kiệt, ảnh hưởng lớn địa chất cũng như đời sống người dân.Như
vậy sẽ không chỉ suy giảm nguồn tài nguyên, mà tác động đến môi trường sống của
con người. Các khu vực khai thác khoáng sản, nằm rải rác nhiều khu vực của
huyện, không tập trung nên dẫn đến việc ô nhiễm môi trường đối với người dân và
sản xuất nông nghiệp xảy ra trên diện rộng.
3.2.2. Suy giảm diện tích đất nông nghiệp
Trong 5 năm qua, cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch nhanh theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kéo theo nhu cầu đất cho các các mục đích phi ng
88 nhân ở đây vẫn vô tư nổ mìn bắn đá trong khi “tử thần” rình rập. Khai thác đá làm ảnh hưởng tới nhà cửa, ruộng lúa, hoa màu… của các hộ dân xung quanh. Đó là chưa kể lượng khói bụi ô nhiễm, tiếng ồn gây bức xúc cho cả thôn. Huyện Thủy Nguyên có 6 dự án xi măng, trong đó 5 nhà máy đang hoạt động gồm: xi măng Hải Phòng, xi măng Chinfon - Hải Phòng, xi măng Phúc Sơn, xi măng Tân Phú Xuân, xi măng Xuân Thủy và 1 nhà máy đang được xây dựng trên địa bàn xã Gia Đức. hiện nguồn tài nguyên đá vôi ở Thủy Nguyên có trữ lượng khoảng 380 triệu m3. Nếu hoạt động trong vòng 50 năm, với công suất như hiện nay thì 6 dự án này phải “ngốn” 500 triệu m3. “Do vậy, muốn có đủ nguồn nguyên liệu cung cấp cho các nhà máy xi măng này, trong tương lai thì chỉ còn cách là san bằng tất cả các quả núi trên địa bàn huyện.” khiến những ngọn núi nơi đây đang từng bước bị "xóa sổ" và trong tương lai Thủy Nguyên sẽ không còn núi đá. Ngoài tài nguyên đá vôi, còn có mỏ sắt ở Dương Quan, cao lanh ở Doãn Lại, tuy nhiên nguồn tài nguyên này trữ lượng thấp, kỹ thuật khai thác lạc hậu nên suy giảm nguồn tài nguyên này chậm hơn đá vôi. Việc cấp phép khai thác mỏ theo thời gian hiện nay cũng nảy sinh bất cập khác. Nhiều đơn vị tổ chức khai thác mỏ với "tốc độ" nhanh, thường vượt trước thời hạn được cấp phép đã hết đá, sẽ gây thất thu cho ngân sách. Việc xử lý các đơn vị vi phạm còn nảy sinh nhiều khó khăn vướng mắc. Ðối với các doanh nghiệp được Bộ TN-MT và thành phố cấp phép, huyện chỉ có thể ra thông báo yêu cầu các đơn vị này chấp hành quy định về thuê đất trước khi thực hiện khai thác mỏ, thực hiện quy trình khai thác an toàn, tuân thủ quy định về vành đai khai thác mỏ... còn việc xử lý vi phạm lại phải trông chờ vào các cơ quan chức năng khác, không thuộc thẩm quyền của địa phương. Vì thế, việc khai thác đá bừa bãi tại Thủy Nguyên đang khiến nguồn tài nguyên này cạn kiệt, ảnh hưởng lớn địa chất cũng như đời sống người dân.Như vậy sẽ không chỉ suy giảm nguồn tài nguyên, mà tác động đến môi trường sống của con người. Các khu vực khai thác khoáng sản, nằm rải rác ở nhiều khu vực của huyện, không tập trung nên dẫn đến việc ô nhiễm môi trường đối với người dân và sản xuất nông nghiệp xảy ra trên diện rộng. 3.2.2. Suy giảm diện tích đất nông nghiệp Trong 5 năm qua, cơ cấu kinh tế của huyện chuyển dịch nhanh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, kéo theo nhu cầu đất cho các các mục đích phi nông
89
nghiệp của huyện tăng liên tục. Đất nông nghiệp, đất chưa sử dụng giảm dần nhằm
giải quyết cho nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thúc đẩy sản xuất công nghiệp
và các mục đích khác làm tăng trưởng kinh tế phù hợp với tiềm năng đất đai. Qu đất
dành cho phát trin công nghip, dch v, xây dng kết cu h tng, phát triển đô thị
được m rộng. Tính đến nay, c huyn khong 5 cm, khu công nghiệp được
thành lp vi tng din tích t nhiên 7800ha. Hin ti qu đất nông nghip ca huyn
11.761,15 ha, chiếm 48,44% tng din tích t nhiên. Đất phi nông nghip ca
huyn là 11.580,13 ha, chiếm 47,69% din tích t nhiên. Diện tích đất chưa sử dng
là 938,62 ha, chiếm 3,87% diện tích đất t nhiên. Qua phân tích tình hình biến động
s dụng đất cho thy giai đoạn 2005 - 2010 đất nông nghip gim 603,47 ha, đất phi
nông nghiệp tăng 813,83 ha. Nhìn chung đáp ứng được nhu cu phát trin kinh tế - xã
hi của địa phương phù hợp vi xu thế biến động đất đai trong thời k đổi mi
phát trin.Tuy nhiên, việc sử dụng đất còn chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao như : xác
định nhu cầu sử dụng đất cho các dự án chưa tiết kiệm, hiệu suất đầu tư thấp, c mi
ha nông nghip b chuyển đổi s 20 lao động b mt vic làm. Phn ln các lao
động này sng ch yếu bng ngh nông, nay buc chuyển đổi sang các lĩnh vực khác
như công nghiệp, dch vụ… do không trình độ nên khó th đáp ứng nhu cu
công vic mi. thc tế xy ra s thiếu hụt đội ngũ lao động tr trình độ
chuyên môn k thut, công nhân lành ngh cung cp cho th trường lao động trong
khi tha lao đng giản đơn, trình độ thấp chưa qua đào tạo ngh.
Đất ở đô thị nông thôn tăng lên phù hợp với quá trình gia tăng dân số tự
nhiên.Trong quá trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng thực hiện xây dựng các khu
đô thị, các khu, cụm công nghiệp, các công trình hạ tầng, công cộng trên địa bàn
huyện đã xảy ra những tham những, tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách đất
đai, y ra nhiều kiến nghị, khiếu nại liên quan đến quyền lợi của cộng đồng, người
dân; một số di tích lịch sử, di tích văn hóa, di tích làng nghề.... mất đi, phải di chuyển,
thu hẹp. Huyn Thy Nguyên là huyn giáp ranh vi ni thành nên phải đối mt vi
những khó khăn tồn ti trong vic qun lý, s dụng đất đai, đặc bit là tình trng ln
chiếm đất công, y dựng trái phép trên đất nông nghiệp, đất để hoang hóa s
dng không hiu qu.
89 nghiệp của huyện tăng liên tục. Đất nông nghiệp, đất chưa sử dụng giảm dần nhằm giải quyết cho nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá thúc đẩy sản xuất công nghiệp và các mục đích khác làm tăng trưởng kinh tế phù hợp với tiềm năng đất đai. Quỹ đất dành cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển đô thị được mở rộng. Tính đến nay, cả huyện có khoảng 5 cụm, khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích tự nhiên 7800ha. Hiện tại quỹ đất nông nghiệp của huyện là 11.761,15 ha, chiếm 48,44% tổng diện tích tự nhiên. Đất phi nông nghiệp của huyện là 11.580,13 ha, chiếm 47,69% diện tích tự nhiên. Diện tích đất chưa sử dụng là 938,62 ha, chiếm 3,87% diện tích đất tự nhiên. Qua phân tích tình hình biến động sử dụng đất cho thấy giai đoạn 2005 - 2010 đất nông nghiệp giảm 603,47 ha, đất phi nông nghiệp tăng 813,83 ha. Nhìn chung đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương phù hợp với xu thế biến động đất đai trong thời kỳ đổi mới và phát triển.Tuy nhiên, việc sử dụng đất còn chưa hợp lý, hiệu quả chưa cao như : xác định nhu cầu sử dụng đất cho các dự án chưa tiết kiệm, hiệu suất đầu tư thấp, cứ mỗi ha nông nghiệp bị chuyển đổi sẽ có 20 lao động bị mất việc làm. Phần lớn các lao động này sống chủ yếu bằng nghề nông, nay buộc chuyển đổi sang các lĩnh vực khác như công nghiệp, dịch vụ… do không có trình độ nên khó có thể đáp ứng nhu cầu công việc mới. Và thực tế là xảy ra sự thiếu hụt đội ngũ lao động trẻ có trình độ chuyên môn kỹ thuật, công nhân lành nghề cung cấp cho thị trường lao động trong khi thừa lao động giản đơn, trình độ thấp chưa qua đào tạo nghề. Đất ở đô thị và nông thôn tăng lên phù hợp với quá trình gia tăng dân số tự nhiên.Trong quá trình thu hồi đất, giải phóng mặt bằng thực hiện xây dựng các khu đô thị, các khu, cụm công nghiệp, các công trình hạ tầng, công cộng trên địa bàn huyện đã xảy ra những tham những, tiêu cực trong quá trình thực hiện chính sách đất đai, gây ra nhiều kiến nghị, khiếu nại liên quan đến quyền lợi của cộng đồng, người dân; một số di tích lịch sử, di tích văn hóa, di tích làng nghề.... mất đi, phải di chuyển, thu hẹp. Huyện Thủy Nguyên là huyện giáp ranh với nội thành nên phải đối mặt với những khó khăn tồn tại trong việc quản lý, sử dụng đất đai, đặc biệt là tình trạng lấn chiếm đất công, xây dựng trái phép trên đất nông nghiệp, đất để hoang hóa và sử dụng không hiệu quả.
90
Thủy Nguyên ngoài diện tích đất trồng trọt bị suy giảm, diện tích đất để
nuôi trồng thủy hải sản cùng bị thu hẹp, ngoài ra còn đất trồng rừng, đặt ra yêu cầu
nhân dân cần bảo vệ rừng, trồng rừng phủ xanh diện tích đất trồng đồi núi trọc giảm
nguy cơ xói mòn, rửa trôi đối với đất đai, phòng chống giảm nhẹ thiên tai và biến đổi
khí hậu. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xác định giá đất, hỗ trợ tái định
cư còn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập. Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị
thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng.
3.2.3. Gây ô nhiễm môi trường
Bên cnh mt tích cc, phát trin kinh tế cũng những tác động mng tính
tiêu cực, như việc phát trin làng ngh. Phát trin làng ngh mt mc tiêu quan
trng nhm gii quyết việc làm cho lao động nông thôn. Song nhiều nơi, làng nghề
càng phát trin thì tình trng ô nhiễm môi trường càng tr nên bc xúc. Bên cnh s
phát trin ca các làng ngh làm cho b mặt nông thôn đổi mới, nhưng hiện tượng ô
nhiễm môi trường nhiều nơi đã đến mức báo động. Nhiều địa phương, sau một thi
gian làng ngh phát trin mạnh, thì nay đang đối mt vi vấn đề bc xúc v môi
trường do lượng phát thi t quá trình sn xut trong các làng ngh chưa được kim
soát và xmt cách khoa hc và triệt để. Thc trng ô nhim trong các làng ngh
nhiều nơi rất nghiêm trng ti mc có ý kiến cho rng, làng ngh càng phát trin thì
nguy cơ ô nhiễm và suy thoái môi trường càng cao.
Mt s nghiên cứu đã đưa ra mấy s liu tiêu biu rng, các làng tái chế kim
loại, các khí độc hi t các đúc nhôm, chì không qua xử đã làm ô nhiễm môi
trưng không khí. Chng hn, làng đúc đồng Mĩ Đồng (Thy Nguyên), có nồng độ
chì trong không khí vượt quá 2.600 ln tiêu chun cho phép. Làng ngh làm bún, làm
miến dong, tinh bt sn... c 1 tn cn khoảng 100 đến 150 m
3
nước, khi thi ra ln
tinh bột, làm cho nước nhanh b hôi thi. Đối với môi trường đất thì các làng ngh
s dng hóa cht, kim loi nng, các cht thi rn và lng dn dn ngm sâu xung
lòng đất. Đó là chưa k nhiu làng ngh gây ra tiếng n và bi quá mc cho phép. Do
môi trường b ô nhiễm và lao động không có dng c bo him, sinh hot hàng ngày
chung với môi trường sn xut nên tình hình sc khe ca ngưi dân làng ngh b nh
hưởng, nhiu bnh tt và tai nạn lao động đã xảy ra. So vi làng thun nông, các bnh
90 Ở Thủy Nguyên ngoài diện tích đất trồng trọt bị suy giảm, diện tích đất để nuôi trồng thủy hải sản cùng bị thu hẹp, ngoài ra còn đất trồng rừng, đặt ra yêu cầu nhân dân cần bảo vệ rừng, trồng rừng phủ xanh diện tích đất trồng đồi núi trọc giảm nguy cơ xói mòn, rửa trôi đối với đất đai, phòng chống giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, xác định giá đất, hỗ trợ tái định cư còn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập. Lợi ích của Nhà nước và người dân có đất bị thu hồi chưa được bảo đảm tương xứng. 3.2.3. Gây ô nhiễm môi trường Bên cạnh mặt tích cực, phát triển kinh tế cũng có những tác động mạng tính tiêu cực, như việc phát triển làng nghề. Phát triển làng nghề là một mục tiêu quan trọng nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Song ở nhiều nơi, làng nghề càng phát triển thì tình trạng ô nhiễm môi trường càng trở nên bức xúc. Bên cạnh sự phát triển của các làng nghề làm cho bộ mặt nông thôn đổi mới, nhưng hiện tượng ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi đã đến mức báo động. Nhiều địa phương, sau một thời gian làng nghề phát triển mạnh, thì nay đang đối mặt với vấn đề bức xúc về môi trường do lượng phát thải từ quá trình sản xuất trong các làng nghề chưa được kiểm soát và xử lý một cách khoa học và triệt để. Thực trạng ô nhiễm trong các làng nghề nhiều nơi rất nghiêm trọng tới mức có ý kiến cho rằng, làng nghề càng phát triển thì nguy cơ ô nhiễm và suy thoái môi trường càng cao. Một số nghiên cứu đã đưa ra mấy số liệu tiêu biểu rằng, ở các làng tái chế kim loại, các khí độc hại từ các lò đúc nhôm, chì không qua xử lý đã làm ô nhiễm môi trường không khí. Chẳng hạn, ở làng đúc đồng Mĩ Đồng (Thủy Nguyên), có nồng độ chì trong không khí vượt quá 2.600 lần tiêu chuẩn cho phép. Làng nghề làm bún, làm miến dong, tinh bột sắn... cứ 1 tấn cần khoảng 100 đến 150 m 3 nước, khi thải ra lẫn tinh bột, làm cho nước nhanh bị hôi thối. Đối với môi trường đất thì các làng nghề có sử dụng hóa chất, kim loại nặng, các chất thải rắn và lỏng dần dần ngấm sâu xuống lòng đất. Đó là chưa kể nhiều làng nghề gây ra tiếng ồn và bụi quá mức cho phép. Do môi trường bị ô nhiễm và lao động không có dụng cụ bảo hiểm, sinh hoạt hàng ngày chung với môi trường sản xuất nên tình hình sức khỏe của người dân làng nghề bị ảnh hưởng, nhiều bệnh tật và tai nạn lao động đã xảy ra. So với làng thuần nông, các bệnh
91
v hô hấp, đau mắt, đường rut, bnh ngoài da... của người dân nhng làng có ngh
phát triển thường cao hơn, đó là chưa kể các bnh nguy hiểm như ung thư, nhiễm độc
kim loi nng. Phát trin làng ngh theo hướng tập trung, chuyên môn hóa đ x
cht thi mt cách hiu qu là hướng đi đúng đắn nhm gii quyết vấn đề này, bo
đảm cho mt s phát trin bn vng các làng ngh nước ta hin nay.
S chuyển đổi hình kinh tế thành công trong thi gian vừa qua đã đưa
Thy Nguyên t mt huyn nn kinh tế phát trin chm, sang nn kinh tế phát
triển nhanh, đa dạng. Điều này diễn ra đng thi với quá trình đô th hóa và m rng
địa giới hành chính đô thị, dn ti dân stp trung các đô thị, trung tâm công nghip
tăng. Tốc độ đô thị hóa nông thôn tăng nhanh, nhu cầu năng lượng và phát thải lượng
khí thi cacbon (có ngun gc t giao thông, công nghip, các hoạt động xây dng và
công trình) tăng, đã gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên
thiên nhiên, gây mt cân bng sinh thái. Ti nhiều vùng đô thị hóa nông thôn nhanh,
những vành đai xanh bảo v môi trường không được quy hoch và bo v, gim cây
xanh, tăng các tòa nhà kiên cố…thiếu quy hoch phân khu, quy hoch h thng h
tng k thut BVMT. Trong những năm gần đây, cùng với s gia tăng dân số và nhu
cu cuc sống, lượng nước thi sinh hot tiếp tục tăng cao... Thành phn các cht gây
ô nhim chính trong nước thi sinh hoạt TSS, BOD5 , COD, Nitơ Phốt pho.
Ngoài ra còn có các thành phần vô cơ, vi sinh vt và vi trùng gây bệnh. Lượng nước
thi sinh hoạt phát sinh dao động trong phm vi rt ln, tùy thuc vào mc sng và
thói quen sinh hot của người dân.
Nhưng ngoài một s khu công nghiệp đã chú trọng đầucác hệ thng x
cht thi và tuân th tốt các quy định pháp lut v bo v môi trường, công tác qun
môi trường kim soát ô nhim nhiều nơi còn nhiều hn chế. Nhiều nơi hiệu
qu x không cao, chưa đạt quy định ca các quy chun k thut Vit Nam
(QCVN). Đây sẽ là ngun gây ảnh hưởng đến sc khe, s đa dạng của môi trường
tn tht v kinh tế. Cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm, to sc ép lớn đến môi
trưng hi trong nhng nam gn đây. Đồng thời với việc phát triển công
nghiệp, hạ tầng kỹ thuật là sự tăng mức độ ô nhiễm môi trường thiên nhiên (tăng khai
thác khoáng sản, xây dựng nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp, diện tích rừng phòng
hộ giảm,...).
91 về hô hấp, đau mắt, đường ruột, bệnh ngoài da... của người dân ở những làng có nghề phát triển thường cao hơn, đó là chưa kể các bệnh nguy hiểm như ung thư, nhiễm độc kim loại nặng. Phát triển làng nghề theo hướng tập trung, chuyên môn hóa để xử lý chất thải một cách hiệu quả là hướng đi đúng đắn nhằm giải quyết vấn đề này, bảo đảm cho một sự phát triển bền vững các làng nghề ở nước ta hiện nay. Sự chuyển đổi mô hình kinh tế thành công trong thời gian vừa qua đã đưa Thủy Nguyên từ một huyện có nền kinh tế phát triển chậm, sang nền kinh tế phát triển nhanh, đa dạng. Điều này diễn ra đồng thời với quá trình đô thị hóa và mở rộng địa giới hành chính đô thị, dẫn tới dân sốtập trung ở các đô thị, trung tâm công nghiệp tăng. Tốc độ đô thị hóa nông thôn tăng nhanh, nhu cầu năng lượng và phát thải lượng khí thải cacbon (có nguồn gốc từ giao thông, công nghiệp, các hoạt động xây dựng và công trình) tăng, đã gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, gây mất cân bằng sinh thái. Tại nhiều vùng đô thị hóa nông thôn nhanh, những vành đai xanh bảo vệ môi trường không được quy hoạch và bảo vệ, giảm cây xanh, tăng các tòa nhà kiên cố…thiếu quy hoạch phân khu, quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật BVMT. Trong những năm gần đây, cùng với sự gia tăng dân số và nhu cầu cuộc sống, lượng nước thải sinh hoạt tiếp tục tăng cao... Thành phần các chất gây ô nhiễm chính trong nước thải sinh hoạt là TSS, BOD5 , COD, Nitơ và Phốt pho. Ngoài ra còn có các thành phần vô cơ, vi sinh vật và vi trùng gây bệnh. Lượng nước thải sinh hoạt phát sinh dao động trong phạm vi rất lớn, tùy thuộc vào mức sống và thói quen sinh hoạt của người dân. Nhưng ngoài một số khu công nghiệp đã chú trọng đầu tư các hệ thống xử lý chất thải và tuân thủ tốt các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, công tác quản lý môi trường và kiểm soát ô nhiễm ở nhiều nơi còn nhiều hạn chế. Nhiều nơi hiệu quả xử lý không cao, chưa đạt quy định của các quy chuẩn kỹ thuật Việt Nam (QCVN). Đây sẽ là nguồn gây ảnh hưởng đến sức khỏe, sự đa dạng của môi trường và tổn thất về kinh tế. Cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm, tạo sức ép lớn đến môi trường và xã hội trong những nam gần đây. Đồng thời với việc phát triển công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật là sự tăng mức độ ô nhiễm môi trường thiên nhiên (tăng khai thác khoáng sản, xây dựng nhiều nhà máy sản xuất công nghiệp, diện tích rừng phòng hộ giảm,...).
92
Trong các hoạt động của các loại hình dịch vụ thì tình trạng ô nhiễm môi
trường từ hoạt động của các nhà hàng ăn uống là tương đối lớn. Nếu như không có hệ
thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà hàng thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn
nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận (sông, hồ, biển), làm lan truyền nhiều loại dịch
bệnh như giun sán, đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh mắt hoặc làm ô nhiễm các thuỷ
vực gây hại cho cảnh quan và nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra còn hoạt động dịch vụ du
lịch trên địa bàn huyện cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường như : Vứt rác
thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Ðây là nguyên nhân gây mất cảnh
quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy sinh xung đột xã hội.
Tuy được coi là ngành "công nghiệp không khói", nhưng du lịch có thể y ô nhiễm
khí thông qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền, đặc biệt là ở các trọng
điểm và trục giao thông chính, gây hại cho cây cối, động vật hoang dại các công
trình xây dựng bằng đá vôi và bê tông.
Đối với sự phát triển nông nghiệp đặc biệt là trồng trọt chăn nuôi cũng thải
ra môi trường nhiều khí độc hại từ sản xuất. Trong trồng trọt nông dâ sử dụng thuốc
trừ sâu, thuốc kích thích… các loại hóa chất trong nông nghiệp làm ô nhiễm môi
trường đất, môi trường nước tưới tiêu của địa phương, thậm chí còn ô nhiễm cả
nguồn thức ăn từ trồng trọt. Còn chăn nuôi, việc nuôi các con vật gia súc, gia cầm,
đặc biệt là nuôi lợn sử dụng thức ăn công nghiệp, làm cho nguồn thức ăn từ động vật
của con người không còn sạch chất thải của các loài vật nuôi này khi ra môi
trường khó phân hóa, ảnh hưởng đến môi trường không khí.
Tất cả các tác động tiêu cực từ các ngành nghề trên địa bàn huyện Thủy
nguyên đều tác động đến con người, gây hại cho con người. Đó là những tác động
mang tính tiêu cc ca nn kinh tế nói chung, ca các ngành kinh tế nói riêng đến
cuc sng ca nhân dân huyn Thủy Nguyên. Tác động nht ô nhim môi
trưng, ảnh hưởng đến chất lượng cuc sống như bệnh tât, hình thành các làng ung
thư trên địa bàn huyn Thy Nguyên.
3.2.4. Xuất hiện các tệ nạn xã hội
Khi kinh tế phát triển các vấn đề xã hội nảy sinh, các tệ nạn xã hội có cơ hội
bùng phát. Người nông dân các huyện ngoại thành trước đây là nông dân thuần túy
92 Trong các hoạt động của các loại hình dịch vụ thì tình trạng ô nhiễm môi trường từ hoạt động của các nhà hàng ăn uống là tương đối lớn. Nếu như không có hệ thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà hàng thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận (sông, hồ, biển), làm lan truyền nhiều loại dịch bệnh như giun sán, đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh mắt hoặc làm ô nhiễm các thuỷ vực gây hại cho cảnh quan và nuôi trồng thủy sản. Ngoài ra còn hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn huyện cũng có những tác động tiêu cực đến môi trường như : Vứt rác thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Ðây là nguyên nhân gây mất cảnh quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy sinh xung đột xã hội. Tuy được coi là ngành "công nghiệp không khói", nhưng du lịch có thể gây ô nhiễm khí thông qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền, đặc biệt là ở các trọng điểm và trục giao thông chính, gây hại cho cây cối, động vật hoang dại và các công trình xây dựng bằng đá vôi và bê tông. Đối với sự phát triển nông nghiệp đặc biệt là trồng trọt và chăn nuôi cũng thải ra môi trường nhiều khí độc hại từ sản xuất. Trong trồng trọt nông dâ sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc kích thích… các loại hóa chất trong nông nghiệp làm ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước tưới tiêu của địa phương, thậm chí còn ô nhiễm cả nguồn thức ăn từ trồng trọt. Còn chăn nuôi, việc nuôi các con vật gia súc, gia cầm, đặc biệt là nuôi lợn sử dụng thức ăn công nghiệp, làm cho nguồn thức ăn từ động vật của con người không còn sạch và chất thải của các loài vật nuôi này khi ra môi trường khó phân hóa, ảnh hưởng đến môi trường không khí. Tất cả các tác động tiêu cực từ các ngành nghề trên địa bàn huyện Thủy nguyên đều tác động đến con người, gây hại cho con người. Đó là những tác động mang tính tiêu cực của nền kinh tế nói chung, của các ngành kinh tế nói riêng đến cuộc sống của nhân dân huyện Thủy Nguyên. Tác động rõ nhất là ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như bệnh tât, hình thành các làng ung thư trên địa bàn huyện Thủy Nguyên. 3.2.4. Xuất hiện các tệ nạn xã hội Khi kinh tế phát triển các vấn đề xã hội nảy sinh, các tệ nạn xã hội có cơ hội bùng phát. Người nông dân các huyện ngoại thành trước đây là nông dân thuần túy