Luận văn Thạc sĩ Lịch sử: Kinh tế ở huyện Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng từ năm 1986 đến năm 2016

9,259
306
124
63
chính quyn huyn còn khuyến khích và qun lý các thành phn kinh tế tư nhân, hộ
th phát trin doanh nghip va nh trong phát trin ngành ngh công ngh
thông tin, sn xut vt liu xây dng, sa ch a cơ khí nhỏ. Đây là hình thức phát trin
năng động, nhạy bén trong cơ chế th trưng. Là bin pháp có th đưa lại hiu qu ln
hơn mà không cần vốn đầu tư nhiều. Nó không nhng gii quyết vic làm cho dân cư
nông thôn còn th tranh th được ng ngh hiện đại, thích hợp để to ra
nhng sn phm có giá tr cao.
Bảng 2.8. Giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp huyện
giai đoạn 2000 - 2016
Ch tiêu %
Năm
Huyn qun lý
Công nghip
y dng
2000
202.2
66.2
136
2005
640.1
260.3
379.7
2010
768.1
824.3
943.8
2016
6117.1
2857.1
3260
(Ngun: [13], [14])
Nhìn vào bng s liu trên ta thy, giá tr sn xut công nghip th công
nghip ca huyn Thủy Nguyên là tương đối ln. Thy Nguyên không chnhng
sở công nghip, tiu th công nghip do huyn trc tiếp qun còn ch
đứng chân ca nhiu doanh nghip quc doanh, liên doanh với nước ngoài. V t
trng ca ngành công nghip, tiu th công nghip có s chuyn biến mnh m trong
cơ cấu kinh tế ca huyện theo hướng tăng dần qua các năm, cùng với s tăng lên của
t trng ngành dch v đã dẫn đến vic gim dn t trng ca ngành nông nghip.
2.2.4. Kinh tế thương mại và dịch vụ
Thương mại mt ngành kinh tế độc lp hoạt động ca mua, bán
hàng hóa và dch v. Dch vtoàn b các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó
ca con ngưi mà sn phm ca nó tn tại dưới hình thái phi vt th.
Kinh tế hàng hóa càng phát trin thì dch v càng phát trin. Khi kinh tế càng
phát trin thì vai trò ca dch v ngày càng quan trng. Dch v là mt b phn cu
thành ca nn kinh tế quc dân. Nn kinh tế quc dân là mt khi thng nht vi hai
63 chính quyền huyện còn khuyến khích và quản lý các thành phần kinh tế tư nhân, hộ cá thể phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong phát triển ngành nghề công nghệ thông tin, sản xuất vật liệu xây dựng, sửa ch ữa cơ khí nhỏ. Đây là hình thức phát triển năng động, nhạy bén trong cơ chế thị trường. Là biện pháp có thể đưa lại hiệu quả lớn hơn mà không cần vốn đầu tư nhiều. Nó không những giải quyết việc làm cho dân cư nông thôn mà còn có thể tranh thủ được công nghệ hiện đại, thích hợp để tạo ra những sản phẩm có giá trị cao. Bảng 2.8. Giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp huyện giai đoạn 2000 - 2016 Chỉ tiêu % Năm Huyện quản lý Công nghiệp Xây dựng 2000 202.2 66.2 136 2005 640.1 260.3 379.7 2010 768.1 824.3 943.8 2016 6117.1 2857.1 3260 (Nguồn: [13], [14]) Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, giá trị sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp của huyện Thủy Nguyên là tương đối lớn. Thủy Nguyên không chỉ có những cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp do huyện trực tiếp quản lý mà còn là chỗ đứng chân của nhiều doanh nghiệp quốc doanh, liên doanh với nước ngoài. Về tỷ trọng của ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có sự chuyển biến mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế của huyện theo hướng tăng dần qua các năm, cùng với sự tăng lên của tỷ trọng ngành dịch vụ đã dẫn đến việc giảm dần tỷ trọng của ngành nông nghiệp. 2.2.4. Kinh tế thương mại và dịch vụ Thương mại là một ngành kinh tế độc lập mà hoạt động của nó là mua, bán hàng hóa và dịch vụ. Dịch vụ là toàn bộ các hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người mà sản phẩm của nó tồn tại dưới hình thái phi vật thể. Kinh tế hàng hóa càng phát triển thì dịch vụ càng phát triển. Khi kinh tế càng phát triển thì vai trò của dịch vụ ngày càng quan trọng. Dịch vụ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Nền kinh tế quốc dân là một khối thống nhất với hai
64
b phn hp nht ch yếu là các ngành sn xut vt cht và các ngành dch v. Dch
v được xem là cu ni gia sn xut vi sn xut, gia sn xut và tiêu dùng.
Trong quá khứ, vùng đất Thủy Nguyên đã là một trong nhng trung tâm buôn
bán sm ut ca min Bc Vit Nam. Qua các nghiên cu, có th khẳng định, Thy
Nguyên nằm trên con đường giao thương giữa K ch Vân Đồn với các thương nhân
vùng Đông Á Đông Nam Á. Sử sách Trung Quốc ghi: “Các tng Yên Khoái,
Vn Ninh huyn Nghiêu Phong (Cát Hi), dòng thuyền đi lại thông vi min M
Giang (sông Giá) tnh Hải Dương và Khâm Châu (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc)
[19] . Mt h thng các ch được hình thành t khá sm, tri khắp địa bàn huyn
gm: Ch M Giang (ch Giá), ch Lâm, ch Tng, ch Phc, ch Trnh, ch Si,
ch Thanh Lãng,… Ch quê Thy Nguyên phản ánh sinh động những nét văn hóa
đặc trưng nhất ca mi mt vùng quê, mỗi làng xã; trong đó một s vẫn còn lưu giữ
phương thức giao thương theo kiểu ch phiên, đặc bit có sc hp dẫn đối vi khách
du lch, nhất là đối tượng khách du lch quc tế, tiêu biểu như: chợ phiên M Giang -
ch Giá (xã Kênh Giang) hp phiên các ngày mùng 01, 06, 11, 16, 21, 26 hàng tháng,
phiên ch cầu may đầu năm xã An Lư vào sáng mùng 01 Tết Nguyên đán [30].
Ngưi dân Thy Nguyên vn có câu ca dao “Nhất đông chợ Giá”, Ch Giá (xã
Kênh Giang, Thy Nguyên) nằm bên con sông Giá nên thơ trước đây trung tâm
buôn bán ln nht ca huyn Thy Nguyên các vùng lân cn. Các nhà khoa hc
cho biết ch hình thành t cui triều Lý. Cách đây gần 20 năm, khi huyện có nhu cu
xây ch mi, các nhà khoa học đã vận động địa phương giữ li mt góc kiến trúc ch
c. Góc ch c tn tại thêm được mt thời gian nhưng về sau cũng không giữ được.
Có l bởi môi trường thương mại đã thay đổi theo hướng hin đi, kéo theo là s thay
đổi thói quen mua sm của người dân.Tuy nhiên hin nay ch Giá vn còn hp theo
phiên hàng tháng vào các ngày mùng 01, 06, 11, 16, 21, 26. Đây ch phiên duy
nht còn huyện đến nay, cùng vi kiến trúc ch là đền Ch Giá, to nên mt cm di
tích lch s văn hóa của địa phương xã Kênh Giang- Thy Nguyên.
Ch Tng nm xã Lưu Kiếm, Thủy Nguyên, Hải Phòng nơi cách xa trung
tâm thành phố Hải Phòng 14km về phía Bắc của Thành phố. Nơi đây trước đây
một vùng thuần nông với hơn 90% dân cư sản xuất và thâm canh lúa nước. Hiện nay
64 bộ phận hợp nhất chủ yếu là các ngành sản xuất vật chất và các ngành dịch vụ. Dịch vụ được xem là cầu nối giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất và tiêu dùng. Trong quá khứ, vùng đất Thủy Nguyên đã là một trong những trung tâm buôn bán sầm uất của miền Bắc Việt Nam. Qua các nghiên cứu, có thể khẳng định, Thủy Nguyên nằm trên con đường giao thương giữa Kẻ chợ Vân Đồn với các thương nhân vùng Đông Á và Đông Nam Á. Sử sách Trung Quốc có ghi: “Các tổng Yên Khoái, Vạn Ninh huyện Nghiêu Phong (Cát Hải), dòng thuyền đi lại thông với miền Mỹ Giang (sông Giá) tỉnh Hải Dương và Khâm Châu (tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc)” [19] . Một hệ thống các chợ được hình thành từ khá sớm, trải khắp địa bàn huyện gồm: Chợ Mỹ Giang (chợ Giá), chợ Lâm, chợ Tổng, chợ Phục, chợ Trịnh, chợ Si, chợ Thanh Lãng,… Chợ quê Thủy Nguyên phản ánh sinh động những nét văn hóa đặc trưng nhất của mỗi một vùng quê, mỗi làng xã; trong đó một số vẫn còn lưu giữ phương thức giao thương theo kiểu chợ phiên, đặc biệt có sức hấp dẫn đối với khách du lịch, nhất là đối tượng khách du lịch quốc tế, tiêu biểu như: chợ phiên Mỹ Giang - chợ Giá (xã Kênh Giang) họp phiên các ngày mùng 01, 06, 11, 16, 21, 26 hàng tháng, phiên chợ cầu may đầu năm xã An Lư vào sáng mùng 01 Tết Nguyên đán [30]. Người dân Thủy Nguyên vẫn có câu ca dao “Nhất đông chợ Giá”, Chợ Giá (xã Kênh Giang, Thủy Nguyên) nằm bên con sông Giá nên thơ trước đây là trung tâm buôn bán lớn nhất của huyện Thủy Nguyên và các vùng lân cận. Các nhà khoa học cho biết chợ hình thành từ cuối triều Lý. Cách đây gần 20 năm, khi huyện có nhu cầu xây chợ mới, các nhà khoa học đã vận động địa phương giữ lại một góc kiến trúc chợ cổ. Góc chợ cổ tồn tại thêm được một thời gian nhưng về sau cũng không giữ được. Có lẽ bởi môi trường thương mại đã thay đổi theo hướng hiện đại, kéo theo là sự thay đổi thói quen mua sắm của người dân.Tuy nhiên hiện nay chợ Giá vẫn còn họp theo phiên hàng tháng vào các ngày mùng 01, 06, 11, 16, 21, 26. Đây là chợ phiên duy nhất còn ở huyện đến nay, cùng với kiến trúc chợ là đền Chợ Giá, tạo nên một cụm di tích lịch sử văn hóa của địa phương xã Kênh Giang- Thủy Nguyên. Chợ Tổng nằm ở xã Lưu Kiếm, Thủy Nguyên, Hải Phòng nơi cách xa trung tâm thành phố Hải Phòng 14km về phía Bắc của Thành phố. Nơi đây trước đây là một vùng thuần nông với hơn 90% dân cư sản xuất và thâm canh lúa nước. Hiện nay
65
Chợ Tổng - Lưu Kiếm đã nhiều đổi thay nhanh chóng cả về dân trí lẫn đời sống
con người. khu vc ngã ba ca sông Nam Triu vi sông Cm (Lp L) trong lch
s đã tồn ti ph Châu là điểm buôn bán sm ut trên bến dưới thuyn. Thuyn ca
thương nhân nước ngoài, nht là thuyn của người Hoa, thường ghé vào đây trao đổi
hàng hóa. Chưa hiểu do gì ph Châu b trit hạ, đến nay du tích không còn.
Thuyn t các vùng đến Thủy Nguyên trao đổi sn vt thuyn của người
Thủy Nguyên cũng theo sông lên miền ngược rt nhiu.Còn các chợ khác thì đã
chuyển mình theo xu thế mới trở thành các chợ buôn bán đa dạng mặt hàng, hoặc
trung tâm mua bán của cụm các xã.
Với ưu thế đó, từ cui thế k 20, đầu thế k 21, thành ph đã chọn Thy
Nguyên là vùng đất thun li v giao thông thy b đến vi các tnh lân cn và tỏa đi
các tnh trên min Bắc, vùng đất có ngun nguyên vt liu dồi dào để xây dng mt
vùng kinh tế động lc, một hướng phát triển đô thị ca thành ph. Do vy, trong mt
thp k, tốc độ đô thị hóa din ra nhanh, kinh tế phát triển đột phá, cơ cấu chuyn
mnh sang công nghiệp, thương mại - dch v, nông nghip, thy sn. Hoạt động
thương mại không ch buôn bán nh trong phm vi huyn, mà còn m rng hot
động giao lưu với bên ngoài. Cùng vi vic m rng các khu, cm công nghip, đẩy
mnh thu hút đầu tư, thi gian qua, huyn Thy Nguyên luôn chú trng phát trin
thương - mi dch v theo hướng hin đại hóa, đa dng hóa các loi hình t chc
thương mi, phương thc giao dchdch v h tr. T đó, góp phn chuyn dch
cu kinh tế, gii quyết vic làm, nâng cao đời sng cho người dân. Vi nhng
thành tựu đó, huyện Thy Nguyên luôn tốp đầu ca thành ph Hi Phòng.
Những năm qua, để khai thác hiệu quả tiềm năng, đẩy mạnh phát triển
thương mại dịch vụ, huyện đã xây dựng đề án phát triển thương mại dịch vụ. Đồng
thời, tập trung làm tốt công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, làng nghề gắn
với quy hoạch các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, đẩy mạnh quá trìnhhội hóa
trong đầu xây dựng sở vật chất chợ, trung tâm thương mại; tích cực hỗ trợ các
doanh nghiệp; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo hành lang pháp lý, kêu gọi
các doanh nghiệp, tổ chức, nhân đầu vào lĩnh vực thương mại dịch vụ. Để
thương mại dịch vụ phát triển tương xứng với tiềm năng bắt nhịp với tốc độ tăng
65 Chợ Tổng - Lưu Kiếm đã có nhiều đổi thay nhanh chóng cả về dân trí lẫn đời sống con người. Ở khu vực ngã ba cửa sông Nam Triệu với sông Cấm (Lập Lễ) trong lịch sử đã tồn tại phố Châu là điểm buôn bán sầm uất trên bến dưới thuyền. Thuyền của thương nhân nước ngoài, nhất là thuyền của người Hoa, thường ghé vào đây trao đổi hàng hóa. Chưa hiểu lý do gì mà phố Châu bị triệt hạ, đến nay dấu tích không còn. Thuyền bè từ các vùng đến Thủy Nguyên trao đổi sản vật và thuyền bè của người Thủy Nguyên cũng theo sông lên miền ngược rất nhiều.Còn các chợ khác thì đã chuyển mình theo xu thế mới trở thành các chợ buôn bán đa dạng mặt hàng, hoặc là trung tâm mua bán của cụm các xã. Với ưu thế đó, từ cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, thành phố đã chọn Thủy Nguyên là vùng đất thuận lợi về giao thông thủy bộ đến với các tỉnh lân cận và tỏa đi các tỉnh trên miền Bắc, vùng đất có nguồn nguyên vật liệu dồi dào để xây dựng một vùng kinh tế động lực, một hướng phát triển đô thị của thành phố. Do vậy, trong một thập kỷ, tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, kinh tế phát triển đột phá, cơ cấu chuyển mạnh sang công nghiệp, thương mại - dịch vụ, nông nghiệp, thủy sản. Hoạt động thương mại không chỉ là buôn bán nhỏ trong phạm vi huyện, mà còn mở rộng hoạt động giao lưu với bên ngoài. Cùng với việc mở rộng các khu, cụm công nghiệp, đẩy mạnh thu hút đầu tư, thời gian qua, huyện Thủy Nguyên luôn chú trọng phát triển thương - mại dịch vụ theo hướng hiện đại hóa, đa dạng hóa các loại hình tổ chức thương mại, phương thức giao dịch và dịch vụ hỗ trợ. Từ đó, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống cho người dân. Với những thành tựu đó, huyện Thủy Nguyên luôn ở tốp đầu của thành phố Hải Phòng. Những năm qua, để khai thác có hiệu quả tiềm năng, đẩy mạnh phát triển thương mại dịch vụ, huyện đã xây dựng đề án phát triển thương mại dịch vụ. Đồng thời, tập trung làm tốt công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp, làng nghề gắn với quy hoạch các chợ, siêu thị, trung tâm thương mại, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất chợ, trung tâm thương mại; tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo hành lang pháp lý, kêu gọi các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực thương mại dịch vụ. Để thương mại dịch vụ phát triển tương xứng với tiềm năng và bắt nhịp với tốc độ tăng
66
trưởng của ngành công nghiệp, thời gian tới, huyện tiếp tục triển khai đề án phát triển
thương mại dịch vụ. Tập trung hoàn thiện hệ thống các chợ theo quy hoạch; khai thác
hiệu quả các chợ mới xây dựng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều
kiện thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn để các hộ đầu mở rộng sản xuất,
kinh doanh; chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ cao cấp, chất ợng cao tại 3 thị
trấncác khu công nghiệp của huyện. Phát huy thế mạnh của các làng nghề truyền
thống, phát triển các dịch vụ du lịch như: Nhà hàng, khách sạn, bán hàng lưu niệm,
hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gốm. Đặc biệt, huyện tập trung phát triển các hoạt động
dịch vụ gắn với xu thế phát triển các khu đô thị, khu, cụm công nghiệp như: Dịch vụ
vận tải, kho bãi, nhà hàng, khách sạn, nhà cho công nhân
Thủy Nguyên đã có nhiều cố gắng vươn lên trong việc phục vụ đời sống nhân
dân trong huyện, làm động lực thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp phát triển. Đời
sống nhân dân ngày càng được cải thiện do vậy hàng hoá bán lẻ trên địa bàn tăng khá
mạnh. Hiện nay trên địa bàn huyện có 56 chợ (kể cả chợ cóc) trong đó có 4 chợ kiên
cố, một số trung tâm thương mại đã đang được hình thành phát triển ở các khu vực
trung tâm của huyện. Lượng hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng, có cả những
sản phẩm ngoại nhập lưu thông trên thị trường,công tác kiểm tra, kiểm soát đã được
tăng cường hoạt động, góp phần đảm bảo trật tự, ổn định giá cả, chất lượng hàng hoá,
hạn chế các hoạt động gian lận thương mại. Cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia
thị trường đã có sự biến đổi mạnh. Số đơn vị kinh doanh thương mại ngoài quốc
doanh tăng nhanh. Hoạt động thương mại của Thuỷ Nguyên hiện nay vẫn do tư nhân
nắm vai trò chủ yếu.
Hàng hoá chủ yếu tập trung phục vụ tiêu dùng, trong đó có các mặt hàng thường
xuyên như: lương thực, thực phẩm, vải, muối, dầu hoả và các đồ dùng gia đình khác,…
Các mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng hoá bán lẻ, các mặt hàng cao
cấp như điện tử, điện lạnh đã tăng nhanh trong những năm gần đây. Số lao động làm
việc trong lĩnh vực này lên đến hơn 6.000 người. Phát triển đa dạng các loi hình kết
cu h tầng thương mại, kết hp hài hoà giữa thương mại truyn thng với thương
mi hiện đại, thương mại điện tử. Đối vi loại hình bán buôn: đầu Trung tâm
thương mại bán buôn Ch Núi Đèo, Siêu th G. Mart, siêu th G7; Ch gia súc, gia cm
66 trưởng của ngành công nghiệp, thời gian tới, huyện tiếp tục triển khai đề án phát triển thương mại dịch vụ. Tập trung hoàn thiện hệ thống các chợ theo quy hoạch; khai thác có hiệu quả các chợ mới xây dựng. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận các nguồn vốn để các hộ đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh; chú trọng phát triển các loại hình dịch vụ cao cấp, chất lượng cao tại 3 thị trấn và các khu công nghiệp của huyện. Phát huy thế mạnh của các làng nghề truyền thống, phát triển các dịch vụ du lịch như: Nhà hàng, khách sạn, bán hàng lưu niệm, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ gốm. Đặc biệt, huyện tập trung phát triển các hoạt động dịch vụ gắn với xu thế phát triển các khu đô thị, khu, cụm công nghiệp như: Dịch vụ vận tải, kho bãi, nhà hàng, khách sạn, nhà ở cho công nhân Thủy Nguyên đã có nhiều cố gắng vươn lên trong việc phục vụ đời sống nhân dân trong huyện, làm động lực thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp phát triển. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện do vậy hàng hoá bán lẻ trên địa bàn tăng khá mạnh. Hiện nay trên địa bàn huyện có 56 chợ (kể cả chợ cóc) trong đó có 4 chợ kiên cố, một số trung tâm thương mại đã và đang được hình thành phát triển ở các khu vực trung tâm của huyện. Lượng hàng hoá ngày càng phong phú, đa dạng, có cả những sản phẩm ngoại nhập lưu thông trên thị trường,công tác kiểm tra, kiểm soát đã được tăng cường hoạt động, góp phần đảm bảo trật tự, ổn định giá cả, chất lượng hàng hoá, hạn chế các hoạt động gian lận thương mại. Cơ cấu các thành phần kinh tế tham gia thị trường đã có sự biến đổi mạnh. Số đơn vị kinh doanh thương mại ngoài quốc doanh tăng nhanh. Hoạt động thương mại của Thuỷ Nguyên hiện nay vẫn do tư nhân nắm vai trò chủ yếu. Hàng hoá chủ yếu tập trung phục vụ tiêu dùng, trong đó có các mặt hàng thường xuyên như: lương thực, thực phẩm, vải, muối, dầu hoả và các đồ dùng gia đình khác,… Các mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu hàng hoá bán lẻ, các mặt hàng cao cấp như điện tử, điện lạnh đã tăng nhanh trong những năm gần đây. Số lao động làm việc trong lĩnh vực này lên đến hơn 6.000 người. Phát triển đa dạng các loại hình kết cấu hạ tầng thương mại, kết hợp hài hoà giữa thương mại truyền thống với thương mại hiện đại, thương mại điện tử. Đối với loại hình bán buôn: đầu tư Trung tâm thương mại bán buôn Chợ Núi Đèo, Siêu thị G. Mart, siêu thị G7; Chợ gia súc, gia cầm
67
(Ch Tng); và m rng ch đầu mi nông sn (Cau - Cao Nhân, rau - Phc L, Thy
Đưng ). Ngoài ra còn nhiu loi hình ch địa phương như chợ Minh Đức, An Lư, chợ
Chùa, ch Mĩ Đồng…vừa là nơi mua bán hàng hóa từ nhân dân, đồng thời cũng là cửa
hàng làm chức năng mua bán nông sản, công ngh phm, vt liu, nguyên liu…
Đối vi dch v thương mại - xut nhp khu: Xây dng triển khai thí điểm
từng bước thc hin vic chuyn giao mt s ch loi 3 cho hp tác xã qun lý, kinh
doanh khai thác. Ci thiện hơn nữa môi trường kinh doanh: gii quyết vn, mt
bằng, lao động, xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng thông tin. Tăng cưng công
tác quản lý nhà nước đối vi các hin diện thương mại nước ngoài ti Thy Nguyên,
đặc bit tập trung vào các phương thức bán hàng mới như: bán hàng đa cấp, các dch
v thương mại hiện đạị. Tiếp tc phát trin nhóm hàng nông sn thc phẩm, đảm bo
cho tiêu dùng nội địa và xut khu sang Trung Quc. Dc theo tuyến đường v trung
tâm huyn, các loại hình thương mại, dch v ngày càng phát triển. Các hàng quán ăn
ung, shop qun áo, kinh doanh ng điện tử, điện thoi, trang trí ni tht, nhà ngh
mọc lên đông đúc, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, trao đổi hàng hóa của người dân địa
phương. Ngay từ năm 1989 chủ trương của huyn là sp xếp ci to tiểu thương, quản
lý th trưng, chống đầu cơ, buôn lậu, móc ngoc tuồn hàng Nhà Nước ra ngoài. Như
vậy thương mại- dịch vụ tổng hợp phát triển với tốc độ nhanh. Thương nghiệp quốc
doanh được sắp xếp lại cho phù hợp với cơ chế thị trường để kinh doanh có hiệu quả,
chủ động tham gia điều tiết các quan hệ cung - cầu, góp phần ổn định giá cả, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Thu Nguyên nm gia hai trung tâm kinh tế ln ca vùng duyên hi Bc B
là Hi Phòng và Qung Ninh, có nhiu thế mạnh đ phát trin kinh tế thương mại, du
lch, dch v, vn ti… S dĩ có tình trạng như vậy vì Thy Nguyên là huyn va có
núi, va bin thun tin cho vic phát trin công nghip sn xuất xi măng, khai
thác đá và công nghiệp đóng, sửa cha tàu biển. Trên địa bàn huyn có những đơn vị
thu hút hàng ngàn lao động như Công ty Trách nhim hu hạn Xi măng Hải Phòng,
Công ty xi măng Chinfon, Tổng Công ty Công nghip tàu thy Nam Triu, Tng
Công ty Công nghip tàu thy Phà Rng, Công ty Trách nhim hu hn Giày Aurora
Vit Nam... Trong những năm 2013-2014, lao động trong ngành công nghip ca
67 (Chợ Tổng); và mở rộng chợ đầu mối nông sản (Cau - Cao Nhân, rau - Phục Lễ, Thủy Đường ). Ngoài ra còn nhiều loại hình chợ địa phương như chợ Minh Đức, An Lư, chợ Chùa, chợ Mĩ Đồng…vừa là nơi mua bán hàng hóa từ nhân dân, đồng thời cũng là cửa hàng làm chức năng mua bán nông sản, công nghệ phẩm, vật liệu, nguyên liệu… Đối với dịch vụ thương mại - xuất nhập khẩu: Xây dựng triển khai thí điểm và từng bước thực hiện việc chuyển giao một số chợ loại 3 cho hợp tác xã quản lý, kinh doanh và khai thác. Cải thiện hơn nữa môi trường kinh doanh: giải quyết vốn, mặt bằng, lao động, xúc tiến thương mại, nâng cao chất lượng thông tin. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hiện diện thương mại nước ngoài tại Thủy Nguyên, đặc biệt tập trung vào các phương thức bán hàng mới như: bán hàng đa cấp, các dịch vụ thương mại hiện đạị. Tiếp tục phát triển nhóm hàng nông sản thực phẩm, đảm bảo cho tiêu dùng nội địa và xuất khẩu sang Trung Quốc. Dọc theo tuyến đường về trung tâm huyện, các loại hình thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển. Các hàng quán ăn uống, shop quần áo, kinh doanh hàng điện tử, điện thoại, trang trí nội thất, nhà nghỉ mọc lên đông đúc, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, trao đổi hàng hóa của người dân địa phương. Ngay từ năm 1989 chủ trương của huyện là sắp xếp cải tạo tiểu thương, quản lý thị trường, chống đầu cơ, buôn lậu, móc ngoặc tuồn hàng Nhà Nước ra ngoài. Như vậy thương mại- dịch vụ tổng hợp phát triển với tốc độ nhanh. Thương nghiệp quốc doanh được sắp xếp lại cho phù hợp với cơ chế thị trường để kinh doanh có hiệu quả, chủ động tham gia điều tiết các quan hệ cung - cầu, góp phần ổn định giá cả, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thuỷ Nguyên nằm giữa hai trung tâm kinh tế lớn của vùng duyên hải Bắc Bộ là Hải Phòng và Quảng Ninh, có nhiều thế mạnh để phát triển kinh tế thương mại, du lịch, dịch vụ, vận tải… Sở dĩ có tình trạng như vậy vì Thủy Nguyên là huyện vừa có núi, vừa có biển thuận tiện cho việc phát triển công nghiệp sản xuất xi măng, khai thác đá và công nghiệp đóng, sửa chữa tàu biển. Trên địa bàn huyện có những đơn vị thu hút hàng ngàn lao động như Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xi măng Hải Phòng, Công ty xi măng Chinfon, Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Nam Triệu, Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Phà Rừng, Công ty Trách nhiệm hữu hạn Giày Aurora Việt Nam... Trong những năm 2013-2014, lao động trong ngành công nghiệp của
68
huyn gim ảnh hưởng ca tập đoàn Vinashin tới các đơn vị thành viên, chưa thể
khc phục ngay được.
Cơ cấu ngành kinh tế thể hiện xu hướng phát triển về số lượng ở khu vực dịch
vụ và thu hút lao động ở khu vực sản xuất công nghiệp Theo kết quả Tổng điều tra,
tính đến 1 - 7 - 2012, số lượng các đơn vị hoạt động trong các ngành dịch vụ chiếm
81,5%, lao động chiếm 34,21%. Ngành dịch vụ có tỷ trọng cao nhất về số lượng đơn
vị và lao động, gồm: Hoạt động kinh doanh thương mại 58,65% về cơ sở và 51,51%
về số lao động. Những năm cuối thế kỷ XX, sự nhanh nhạy của cấp ủy đã đưa Thủy
Nguyên vươn lên xóa đói giảm nghèo, khong còn hộ đói, giảm hộ nghèo,có tới 40%
hộ khá giàu trở lên. Thành tựu này tạo đà cho Thủy Nguyên vươn lên trong những
năm đầu thế kỷ XXI, huyện Thủy Nguyên hiện có 4.450 cơ sở thương mại và dịch vụ.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ 8 tháng của năm 2016 là 3.875 tỷ đồng, đạt 71,1%
kế hoạch, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2015[13], [14]. Đây là tín hiệu vui cho thấy
sự chuyển biến rõ nét về cơ cấu kinh tế của huyện Thủy Nguyên theo hướng thương
mại, dịch vụ. Để có được kết quả đó, thời gian qua, huyện Thủy Nguyên đã khuyến
khích, tạo sự thông thoáng cho các doanh nghiệp, tiểu thương mua bán. Cùng với đó
là đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, đảm bảo an ninh trật tự, tạo môi trường kinh doanh
thuận lợi [14].
Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cng, có 37 di tích lịch
sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật được xếp hàng quốc gia và 70 di tích chưa xếp hạng,
tài nguyên cảnh quan của huyện Thuỷ Nguyên chứa đựng tiềm năng du lịch to
lớn. Tài nguyên du lịch ở huyện Thuỷ Nguyên rất phong phú và đa dạng, có thể khai
thác trên các mặt: Du lịch sinh thái; du lịch văn hoá, ẩm thực; du lịch thể thao, lễ hội...
Trong huyện Thuỷ Nguyên có nhiều loại hình du lịch hoạt động như: du lịch tham
quan thắng cảnh khu vực “Hạ Long cạn” Tràng Kênh, Việt Khê; du lịch tham quan
các hang động như hang Vua, hang Lương, hang Đốc Tít; điểm du lịch tâm linh - lịch
sử mới phát triển là khu quần thể du tích, danh thắng Tràng Kênh Bạch Đằng Giang,
các ngôi chùa như chùa Mỹ Cụ. Chùa Hàm Long...những ngôi đền thờ các anh hùng
dân tộc như đền Trần Quốc Bảo...Du lịch tham dự các lễ hội tại các điểm di tích cấp
68 huyện giảm vì ảnh hưởng của tập đoàn Vinashin tới các đơn vị thành viên, chưa thể khắc phục ngay được. Cơ cấu ngành kinh tế thể hiện xu hướng phát triển về số lượng ở khu vực dịch vụ và thu hút lao động ở khu vực sản xuất công nghiệp Theo kết quả Tổng điều tra, tính đến 1 - 7 - 2012, số lượng các đơn vị hoạt động trong các ngành dịch vụ chiếm 81,5%, lao động chiếm 34,21%. Ngành dịch vụ có tỷ trọng cao nhất về số lượng đơn vị và lao động, gồm: Hoạt động kinh doanh thương mại 58,65% về cơ sở và 51,51% về số lao động. Những năm cuối thế kỷ XX, sự nhanh nhạy của cấp ủy đã đưa Thủy Nguyên vươn lên xóa đói giảm nghèo, khong còn hộ đói, giảm hộ nghèo,có tới 40% hộ khá giàu trở lên. Thành tựu này tạo đà cho Thủy Nguyên vươn lên trong những năm đầu thế kỷ XXI, huyện Thủy Nguyên hiện có 4.450 cơ sở thương mại và dịch vụ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ 8 tháng của năm 2016 là 3.875 tỷ đồng, đạt 71,1% kế hoạch, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2015[13], [14]. Đây là tín hiệu vui cho thấy sự chuyển biến rõ nét về cơ cấu kinh tế của huyện Thủy Nguyên theo hướng thương mại, dịch vụ. Để có được kết quả đó, thời gian qua, huyện Thủy Nguyên đã khuyến khích, tạo sự thông thoáng cho các doanh nghiệp, tiểu thương mua bán. Cùng với đó là đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng, đảm bảo an ninh trật tự, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi [14]. Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, có 37 di tích lịch sử, văn hoá, kiến trúc nghệ thuật được xếp hàng quốc gia và 70 di tích chưa xếp hạng, tài nguyên cảnh quan của huyện Thuỷ Nguyên chứa đựng tiềm năng du lịch to lớn. Tài nguyên du lịch ở huyện Thuỷ Nguyên rất phong phú và đa dạng, có thể khai thác trên các mặt: Du lịch sinh thái; du lịch văn hoá, ẩm thực; du lịch thể thao, lễ hội... Trong huyện Thuỷ Nguyên có nhiều loại hình du lịch hoạt động như: du lịch tham quan thắng cảnh khu vực “Hạ Long cạn” Tràng Kênh, Việt Khê; du lịch tham quan các hang động như hang Vua, hang Lương, hang Đốc Tít; điểm du lịch tâm linh - lịch sử mới phát triển là khu quần thể du tích, danh thắng Tràng Kênh Bạch Đằng Giang, các ngôi chùa như chùa Mỹ Cụ. Chùa Hàm Long...những ngôi đền thờ các anh hùng dân tộc như đền Trần Quốc Bảo...Du lịch tham dự các lễ hội tại các điểm di tích cấp
69
quốc gia, các lễ hội văn hóa như hát đúm ở Phả lễ, Lập lễ, Phục Lễ... hoặc tham quan
các trang trại, vườn, làng nghề, nghiên cứu các mộ cổ, di vật ngày xưa.
Hầu hết các hoạt động này diễn ra quanh năm thu hút được một lượng lớn
khách nội thành Hải Phòng và các tỉnh lân cận. Du lch đã mang li cho Thy Nguyên
hi to ln trong quá trình chuyn đổi t mt nn kinh tế ch yếu da vào nông
nghip chuyn sang mt nn kinh tế da vào dch v. Hoạt động du lch phát trin,
to ngun ngân sách cho các địa phương từ các khon trích np ngân sách của các
s du lch trc thuc qun lý trc tiếp của địa phương và từ các khon thuế phi np
ca các doanh nghip du lịch kinh doanh trên địa bàn. Do nhu cầu đi lại, ăn uống,
ngh ngơi vui chơi, thông tin liên lc, vn chuyn nên mạng lưới giao thông, cu
cống, điện nước đưc hoàn thin phc v nhu cu du lịch ngày càng tăng.
Trên địa bàn huyn Thủy Nguyên được nhà nước đầu tư xây dựng mt khu th
thao “Trung tâm huấn luyện đua thuyền cp quốc gia” bện cạnh dòng sông Giá thơ
mng, d án Resort sông Giá. Vi các công trình th thao phc v cho trung tâm,
cnh quan ca Resort tr thành nơi thu hút khách tham quan du lịch, đến thăm quan
ngm cảnh sông, nước thơ mộng của địa phương, đồng thời nơi đây cũng phát trin
thêm các dch v đi kèm trong những đợt t chc các cuc thi cp quc gia, thành
phố..như dịch v ng, nghỉ, ăn ướng, khách sạn…
Là một huyện có nguồn tài nguyên du lịch rất lớn nhưng trong các năm qua khả
năng khai thác các tiềm năng này để phát triển kinh tế - xã hội còn khá khiêm tốn. Nếu
tiềm năng ấy được đầu tư khai thác sẽ là tiền đề cho việc phát triển của ngành du lịch
địa phương. Trong bối cảnh tình hình kinh tế - hội tiếp tục gặp nhiều khó khăn
song với sự nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân, nhìn
chung kinh tế - xã hội của huyện vẫn tiếp tục ổn định và đạt được nhiều kết quả đáng
ghi nhận. Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế có tốc độ phát triển mạnh trên
cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử
là một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững trong tương lai của huyện. Thực
hiện tốt các giải pháp toàn diện lâu dài cho phát triển du lịch, tin rằng Thủy
Nguyên sẽ trở thành một trong những trung tâm du lịch khu vực phía Bắc của thành
phố Hải Phòng và của đất nước.
69 quốc gia, các lễ hội văn hóa như hát đúm ở Phả lễ, Lập lễ, Phục Lễ... hoặc tham quan các trang trại, vườn, làng nghề, nghiên cứu các mộ cổ, di vật ngày xưa. Hầu hết các hoạt động này diễn ra quanh năm thu hút được một lượng lớn khách nội thành Hải Phòng và các tỉnh lân cận. Du lịch đã mang lại cho Thủy Nguyên cơ hội to lớn trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp chuyển sang một nền kinh tế dựa vào dịch vụ. Hoạt động du lịch phát triển, tạo nguồn ngân sách cho các địa phương từ các khoản trích nộp ngân sách của các cơ sở du lịch trực thuộc quản lý trực tiếp của địa phương và từ các khoản thuế phải nộp của các doanh nghiệp du lịch kinh doanh trên địa bàn. Do nhu cầu đi lại, ăn uống, nghỉ ngơi vui chơi, thông tin liên lạc, vận chuyển nên mạng lưới giao thông, cầu cống, điện nước được hoàn thiện phục vụ nhu cầu du lịch ngày càng tăng. Trên địa bàn huyện Thủy Nguyên được nhà nước đầu tư xây dựng một khu thể thao “Trung tâm huấn luyện đua thuyền cấp quốc gia” bện cạnh dòng sông Giá thơ mộng, dự án Resort sông Giá. Với các công trình thể thao phục vụ cho trung tâm, cảnh quan của Resort trở thành nơi thu hút khách tham quan du lịch, đến thăm quan ngắm cảnh sông, nước thơ mộng của địa phương, đồng thời nơi đây cũng phát triển thêm các dịch vụ đi kèm trong những đợt tổ chức các cuộc thi cấp quốc gia, thành phố..như dịch vụ ngủ, nghỉ, ăn ướng, khách sạn… Là một huyện có nguồn tài nguyên du lịch rất lớn nhưng trong các năm qua khả năng khai thác các tiềm năng này để phát triển kinh tế - xã hội còn khá khiêm tốn. Nếu tiềm năng ấy được đầu tư khai thác sẽ là tiền đề cho việc phát triển của ngành du lịch địa phương. Trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội tiếp tục gặp nhiều khó khăn song với sự nỗ lực, quyết tâm cao của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân, nhìn chung kinh tế - xã hội của huyện vẫn tiếp tục ổn định và đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận. Phát triển du lịch trở thành một ngành kinh tế có tốc độ phát triển mạnh trên cơ sở khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, sinh thái, truyền thống văn hoá lịch sử là một mục tiêu của chiến lược phát triển bền vững trong tương lai của huyện. Thực hiện tốt các giải pháp toàn diện và lâu dài cho phát triển du lịch, tin rằng Thủy Nguyên sẽ trở thành một trong những trung tâm du lịch khu vực phía Bắc của thành phố Hải Phòng và của đất nước.
70
Định hướng phát triển mạnh du lịch gắn liền với công nghiệp - dịch vụ trong
tương lai gần của Thủy Nguyên sẽ có tác dụng thúc đẩy nhiều ngành cùng phát triển
như: việc khôi phục và phát triển các nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ
thương mại. Cùng với đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực cả về trình độ nghiệp vụ
và phong cách giao tiếp đối với những người tham gia trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt
hướng dẫn viên, lễ tân, tiếp thị; nâng cao chất lượng thực hiện quy chế chống ô
nhiễm môi trường, bảo vệ cảnh quan sinh thái và các di sản thiên nhiên… đang được
huyện tích cực triển khai trong thời gian tới. các địa phương có làng nghề truyn
thng, h tn dng thế mnh của mình để phát trin kinh tế bng vic gii thiu bán
các sn phm th công. Không ch bán cho các du khách đến thăm quan mà đây còn
là cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thc xut khu.
Thị trường ngày càng được mở rộng đến các điểm dân cư đã đặt ra yêu cầu mở
rộng dịch vụ vận tải. Đây là hình thức vn chuyn thông dụng và được s dng nhiu
nht trong các loi hình vn ti. Vn tải đường b luôn ch động v thời gian và đa
dng trong vn chuyn các loại hình hàng hóa. Phương tiện vn ti bằng đường b
cũng nhiu la chọn như: ô tô, xe khách, xe tải, xe bồn, xe container, rơ mooc…
Mi loại phương tiện chuyn ch phù hp cho tng chức năng vn ti hàng hóa khác
nhau. Thuỷ Nguyên có hơn 1.750 phương tiện vận tải, trong đó có trên 1.300 phương
tiện vận tải đường bộ và hơn 400 phương tiện vận tải đường thuỷ.
Các sở kinh doanh phương tiện vận tải hầu hết do nhân quản lý, hoạt
động tại địa bàn huyện, hàng hoá từ bên ngoài vào huyện đều do các phương tiện vận
tải lớn khác chở đến. Hàng năm số lượng lao động thu hút vào các hoạt động vận tải
là khá lớn, trung bình mỗi năm có khoảng 2.500 lao động hoạt động trong ngành vận
tải. Khối lượng hành khách luân chuyển trên địa bàn chủ yếu luân chuyển bằng
đường bộ. Nhìn chung ngành vận tải của huyện đã đáp ứng được yêu cầu vận tải ngày
càng tăng trong huyện cả về hàng hoá lẫn nhu cầu đi lại của hành khách. Nhờ triển
khai các giải pháp phù hợp, những năm gần đây, hoạt động thương mại dịch vụ vận
tải trên địa bàn huyện phát triển mạnh, đáp ng được nhu cầu phục vụ sản xuất, sinh
hoạt. Kết cấu hạ tầng thương mại dịch vụ được đầu tư, nâng cấp. Chất lượng dịch vụ
được cải thiện, các loại hình dịch vụ phát triển nhanh và ngày càng phong phú, đa
dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy các hoạt động dịch vụ của
70 Định hướng phát triển mạnh du lịch gắn liền với công nghiệp - dịch vụ trong tương lai gần của Thủy Nguyên sẽ có tác dụng thúc đẩy nhiều ngành cùng phát triển như: việc khôi phục và phát triển các nghề truyền thống, thủ công mỹ nghệ, dịch vụ thương mại. Cùng với đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực cả về trình độ nghiệp vụ và phong cách giao tiếp đối với những người tham gia trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt là hướng dẫn viên, lễ tân, tiếp thị; nâng cao chất lượng thực hiện quy chế chống ô nhiễm môi trường, bảo vệ cảnh quan sinh thái và các di sản thiên nhiên… đang được huyện tích cực triển khai trong thời gian tới. Ở các địa phương có làng nghề truyền thống, họ tận dụng thế mạnh của mình để phát triển kinh tế bằng việc giới thiệu bán các sản phẩm thủ công. Không chỉ bán cho các du khách đến thăm quan mà đây còn là cơ hội tăng thu nhập địa phương bằng hình thức xuất khẩu. Thị trường ngày càng được mở rộng đến các điểm dân cư đã đặt ra yêu cầu mở rộng dịch vụ vận tải. Đây là hình thức vận chuyển thông dụng và được sử dụng nhiều nhất trong các loại hình vận tải. Vận tải đường bộ luôn chủ động về thời gian và đa dạng trong vận chuyển các loại hình hàng hóa. Phương tiện vận tải bằng đường bộ cũng có nhiều lựa chọn như: ô tô, xe khách, xe tải, xe bồn, xe container, rơ mooc… Mỗi loại phương tiện chuyển chở phù hợp cho từng chức năng vận tải hàng hóa khác nhau. Thuỷ Nguyên có hơn 1.750 phương tiện vận tải, trong đó có trên 1.300 phương tiện vận tải đường bộ và hơn 400 phương tiện vận tải đường thuỷ. Các cơ sở kinh doanh phương tiện vận tải hầu hết do tư nhân quản lý, hoạt động tại địa bàn huyện, hàng hoá từ bên ngoài vào huyện đều do các phương tiện vận tải lớn khác chở đến. Hàng năm số lượng lao động thu hút vào các hoạt động vận tải là khá lớn, trung bình mỗi năm có khoảng 2.500 lao động hoạt động trong ngành vận tải. Khối lượng hành khách luân chuyển trên địa bàn chủ yếu luân chuyển bằng đường bộ. Nhìn chung ngành vận tải của huyện đã đáp ứng được yêu cầu vận tải ngày càng tăng trong huyện cả về hàng hoá lẫn nhu cầu đi lại của hành khách. Nhờ triển khai các giải pháp phù hợp, những năm gần đây, hoạt động thương mại dịch vụ vận tải trên địa bàn huyện phát triển mạnh, đáp ứng được nhu cầu phục vụ sản xuất, sinh hoạt. Kết cấu hạ tầng thương mại dịch vụ được đầu tư, nâng cấp. Chất lượng dịch vụ được cải thiện, các loại hình dịch vụ phát triển nhanh và ngày càng phong phú, đa dạng với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Vì vậy các hoạt động dịch vụ của
71
huyện, đặc biệt là khối dịch vụ vận tải và thương mại phát triển nhanh. Năm 2007, giá
trị GDP của ngành dịch vụ vận tải trên địa bàn đã đạt 498 tỷ đồng, đạt 100,5 kế
hoạch, tăng 23,6%, hot đng vn ti chiếm 8,7% và 15,37%.
một huyện nền nông nghiệp lâu đời nên dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông
nghiệp ở đây khá phát triển, hàng năm dịch vụ cung cấp hàng nghìn tấn đạm, lân, kali và
hàng chục tấn thuốc bảo vệ thực vật phục vụ sản xuất. Dịch vụ giống cây trồng và vật
nuôi trên địa bàn địa bàn huyện cũng phát triển mạnh với hàng trăm lao động tham gia
trong cung cấp dịch vụ nông nghiệp, đây cũng là hình thức dịch vụ thương mại. Thấy rõ
lợi ích của việc mua sắm máy để làm dịch vụ nông nghiệp, nhiều hộ nông dân trong
huyện đã đầu mua máy gặt đập liên hợp công suất lớn giá trị trên 400 triệu
đồng, mỗi giờ thể gặt được khoảng 8 đến 10 sào lúa, vừa phục vụ cho gia đình,
vừa làm dịch vụ thuê cho những hộ nông dân khác. Tại các xã trong huyện các dịch
vụ nông nghiệp phát triển mạnh, không chỉ có dịch vụ máy cày, máy làm đất, máy gặt
mà còn nhiều dịch vụ khác, như dịch vụ phun thuốc trừ sâu, làm cỏ, vận chuyển
giống và phân bón ra đồng, đưa sản phẩm sau thu hoạch về nhà... Các dịch vụ này
phát triển đang minh chứng cho sự phong phú, đa dạng và bước tiến mới trong sản
xuất nông nghiệp, minh chứng cho những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật khi đã
sản xuất được những máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, như máy gặt, máy
phun thuốc sâu, máy diệt cỏ, máy bóc tách vỏ hạt...
Tài chính ngân hàng là loại hình dịch vụ đặc biệt, không chỉ huy động nguồn vốn
trong dân, còn đáp ứng các yêu cầu tiết kim, thanh toán, cho vay tiêu dùng, th n
dng, th ghi n, cho vay b sung vn sn xut kinh doanh, cho vay tr góp… Mạng
ới các ngân hàng trên địa bàn huyn Thy Nguyên rng khắp, nhưng các ngân hàng
có tr s giao dịch, văn phòng đại din tp trung phn ln trung tâm huyn- th trn
Núi Đèo như ngân hàng Sacombank, Agribank, Vietcombank, ACB, VIB bank,
Vietinbank…. Tuy nhiên các ngân hàng sử dụng hình thức phân b tương đối hp
có mt hu hết các xã tiêu biu là qu tiết kim hoc máy ATM, đáp ứng nhu cu
giao dch vay, gi hoc rút tin ca nhân dân. Thủy Nguyên đa dng hóa các loi
hình t chc tín dụng như Ngân hàng Thương mại: Ngân hàng nước ngoài, liên
doanh, thương mại nhà nước, thương mại c phn; T chc tín dng phi ngân hàng,
phát triển phương thức giao dch hiện đại, ngân hàng t động, ngân hàng điện t.
71 huyện, đặc biệt là khối dịch vụ vận tải và thương mại phát triển nhanh. Năm 2007, giá trị GDP của ngành dịch vụ vận tải trên địa bàn đã đạt 498 tỷ đồng, đạt 100,5 kế hoạch, tăng 23,6%, hoạt động vận tải chiếm 8,7% và 15,37%. Là một huyện có nền nông nghiệp lâu đời nên dịch vụ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp ở đây khá phát triển, hàng năm dịch vụ cung cấp hàng nghìn tấn đạm, lân, kali và hàng chục tấn thuốc bảo vệ thực vật phục vụ sản xuất. Dịch vụ giống cây trồng và vật nuôi trên địa bàn địa bàn huyện cũng phát triển mạnh với hàng trăm lao động tham gia trong cung cấp dịch vụ nông nghiệp, đây cũng là hình thức dịch vụ thương mại. Thấy rõ lợi ích của việc mua sắm máy để làm dịch vụ nông nghiệp, nhiều hộ nông dân trong huyện đã đầu tư mua máy gặt đập liên hợp công suất lớn có giá trị trên 400 triệu đồng, mỗi giờ có thể gặt được khoảng 8 đến 10 sào lúa, vừa phục vụ cho gia đình, vừa làm dịch vụ thuê cho những hộ nông dân khác. Tại các xã trong huyện các dịch vụ nông nghiệp phát triển mạnh, không chỉ có dịch vụ máy cày, máy làm đất, máy gặt mà còn có nhiều dịch vụ khác, như dịch vụ phun thuốc trừ sâu, làm cỏ, vận chuyển giống và phân bón ra đồng, đưa sản phẩm sau thu hoạch về nhà... Các dịch vụ này phát triển đang minh chứng cho sự phong phú, đa dạng và bước tiến mới trong sản xuất nông nghiệp, minh chứng cho những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật khi đã sản xuất được những máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, như máy gặt, máy phun thuốc sâu, máy diệt cỏ, máy bóc tách vỏ hạt... Tài chính ngân hàng là loại hình dịch vụ đặc biệt, không chỉ huy động nguồn vốn trong dân, còn đáp ứng các yêu cầu tiết kiệm, thanh toán, cho vay tiêu dùng, thẻ tín dụng, thẻ ghi nợ, cho vay bổ sung vốn sản xuất kinh doanh, cho vay trả góp… Mạng lưới các ngân hàng trên địa bàn huyện Thủy Nguyên rộng khắp, nhưng các ngân hàng có trụ sở giao dịch, văn phòng đại diện tập trung phần lớn ở trung tâm huyện- thị trấn Núi Đèo như ngân hàng Sacombank, Agribank, Vietcombank, ACB, VIB bank, Vietinbank…. Tuy nhiên các ngân hàng sử dụng hình thức phân bố tương đối hợp lý có mặt ở hầu hết các xã tiêu biểu là quỹ tiết kiệm hoặc máy ATM, đáp ứng nhu cầu giao dịch vay, gửi hoặc rút tiền của nhân dân. Ở Thủy Nguyên đa dạng hóa các loại hình tổ chức tín dụng như Ngân hàng Thương mại: Ngân hàng nước ngoài, liên doanh, thương mại nhà nước, thương mại cổ phần; Tổ chức tín dụng phi ngân hàng, phát triển phương thức giao dịch hiện đại, ngân hàng tự động, ngân hàng điện tử.
72
Dch v thanh toán: Đẩy mnh thanh toán qua ngân hàng, thanh toán không dùng tin
mặt, thanh toán điện t, thanh toán quc tế. Trong dch v huy động vn các ngân
hàng s dụng đa dạng hóa phương thức, hình thức huy động. Cnh tranh da vào cht
ng, tính tin li, hiu quả, uy tín. Thay đổi cấu nguồn huy động theo hướng
tăng nguồn trung, dài hn. Dch v tín dụng và đầu tư cho nền kinh tế: Đa dạng hóa
nâng cao chất lượng các dch v tín dng; M rng tín dng trung, dài hạn, đẩy
mạnh phương thức cho vay đồng tài tr; trin khai các dch v mi, nghip v phái
sinh tín dng và lãi sut. Vi loi hình dch v này đem đến nhng thun li cho nhân
dân như người nghèo được vay vốn làm ăn, người giàu có th tiết kim tin an toàn
không lo mt trm…
Tiếp đó là hoạt động dch v khách sạn, ăn uống, đây là loại hình thương mại
b tr cho các dch v khác như du lịch. Đưc các cp chính quyn khuyến khích
phát trin. Phát trin du lịch ăn uống là cn thiết đáp ứng nhu cầu ăn ung của cư dân
địa phương và khách du lịch.Vic phát trin dch v ăn uống đã, đang và sẽloi hình
sn phm du lch có sc hp dn vi nhiều đối tượng khách. Do địa bàn Thy Nguyên
rng ln, nhiều cơ quan xí nghiệp nên dch v ăn uống mc khắp nơi, nhng trung tâm,
cm công nghip thì khối lượng nhà hàng khách sn và dch v ăn uống rt cao.
Th trấn Núi Đèo có nhiều nhà hàng ăn uống như nhà hàng Phương Tám, Tuấn
Bảo, Vườn 666, Quang Minh… nơi đây không chỉdch v ăn uống còn phc v
các cuc hp, tng kết lớn, khu vui chơi liên hoàn. th trấn Minh Đức có nhà hàng
dê Hng K, Quc Vin, X Lng, Lầu cua đồng Hng Thy…nhà hàng không ch
phc v thức ăn bình dân mà còn có những món ăn đặc sản, đáp ứng nhu cầu thưởng
thc ca khách hàng. Không ch phc v khách địa phương, khách từ các cơ quan
nghiệp trên địa bàn huyn mà còn phc v cho khách tham quan du lch các danh lam
thng cnh ca huyn. Dch v ăn uống ca huyn chiếm 21,47% 18,42% [18].
Loi hình dch v này không ch mang ngun li cho các ch nhà hàng mà còn có ý
nghĩa quảng bá sn phẩm đặc sản địa phương (dê, cua đồng).
Phát trin mạng đại lý, cung cp dch v bưu chính kết hp với đại lý thu cước
vin thông, thu h ớc (điện, nước) bán các loi bo him. Nâng cấp đim truy
nhp Internet tại 100% điểm bưu điện văn hoá xã để dân s dng các dch v công
qua mng; Trang b thêm điểm truy cp Internet công cng cho các xã miền núi, địa
72 Dịch vụ thanh toán: Đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng, thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán điện tử, thanh toán quốc tế. Trong dịch vụ huy động vốn các ngân hàng sử dụng đa dạng hóa phương thức, hình thức huy động. Cạnh tranh dựa vào chất lượng, tính tiện lợi, hiệu quả, uy tín. Thay đổi cơ cấu nguồn huy động theo hướng tăng nguồn trung, dài hạn. Dịch vụ tín dụng và đầu tư cho nền kinh tế: Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ tín dụng; Mở rộng tín dụng trung, dài hạn, đẩy mạnh phương thức cho vay đồng tài trợ; triển khai các dịch vụ mới, nghiệp vụ phái sinh tín dụng và lãi suất. Với loại hình dịch vụ này đem đến những thuận lợi cho nhân dân như người nghèo được vay vốn làm ăn, người giàu có thể tiết kiệm tiền an toàn không lo mất trộm… Tiếp đó là hoạt động dịch vụ khách sạn, ăn uống, đây là loại hình thương mại bổ trợ cho các dịch vụ khác như du lịch. Được các cấp chính quyền khuyến khích phát triển. Phát triển du lịch ăn uống là cần thiết đáp ứng nhu cầu ăn uống của cư dân địa phương và khách du lịch.Việc phát triển dịch vụ ăn uống đã, đang và sẽ là loại hình sản phẩm du lịch có sức hấp dẫn với nhiều đối tượng khách. Do địa bàn Thủy Nguyên rộng lớn, nhiều cơ quan xí nghiệp nên dịch vụ ăn uống mọc khắp nơi, những trung tâm, cụm công nghiệp thì khối lượng nhà hàng khách sạn và dịch vụ ăn uống rất cao. Thị trấn Núi Đèo có nhiều nhà hàng ăn uống như nhà hàng Phương Tám, Tuấn Bảo, Vườn 666, Quang Minh… nơi đây không chỉ có dịch vụ ăn uống còn phục vụ các cuộc họp, tổng kết lớn, khu vui chơi liên hoàn. Ở thị trấn Minh Đức có nhà hàng dê Hồng Kỳ, Quốc Viễn, Xứ Lạng, Lầu cua đồng Hồng Thủy…nhà hàng không chỉ phục vụ thức ăn bình dân mà còn có những món ăn đặc sản, đáp ứng nhu cầu thưởng thức của khách hàng. Không chỉ phục vụ khách địa phương, khách từ các cơ quan xí nghiệp trên địa bàn huyện mà còn phục vụ cho khách tham quan du lịch các danh lam thắng cảnh của huyện. Dịch vụ ăn uống của huyện chiếm 21,47% và 18,42% [18]. Loại hình dịch vụ này không chỉ mang nguồn lợi cho các chủ nhà hàng mà còn có ý nghĩa quảng bá sản phẩm đặc sản địa phương (dê, cua đồng). Phát triển mạng đại lý, cung cấp dịch vụ bưu chính kết hợp với đại lý thu cước viễn thông, thu hộ cước (điện, nước) và bán các loại bảo hiểm. Nâng cấp điểm truy nhập Internet tại 100% điểm bưu điện văn hoá xã để dân sử dụng các dịch vụ công qua mạng; Trang bị thêm điểm truy cập Internet công cộng cho các xã miền núi, địa