Luận án Tiến sĩ Y học: Đánh giá kết quả sớm của phẫu thuật nội soi ngoài phúc mạc cắt tuyến tiền liệt tận gốc
2,065
685
165
80
3.5.7. Kiểm chứng mối liên hệ giữa thời gian phẫu thuật - lƣợng máu mất
trong mổ
Để kiểm chứng mối liên hệ giữa thời gian phẫu thuật - lượng máu mất
trong khi mổ, nghiên cứu thực hiện phép kiểm trung bình giữa thời gian phẫu
thuật và lượng máu mất trong phẫu thuật.
Nghiên cứu chia thành 2 nhóm: nhóm 1: những trường hợp có thời gian
phẫu thuật ≤ 194, 69 phút (đây là thời gian phẫu thuật trung bình của nghiên
cứu), và nhóm 2: những trường hợp có thời gian phẫu thuật > 194, 69 phút.
Dùng phép kiểm trung bình để kiểm định sự khác nhau về máu mất trong mổ.
Giả thuyết không có sự khác biệt về lượng máu mất giữa 2 nhóm.
Bảng 3.41. Mối liên hệ thời gian phẫu thuật - lượng máu mất trong khi mổ.
Thời gian mổ
(phút)
Số TH
Trung bình
Độ lệch
chuẩn
Máu mất
(ml)
≤ 194,69
27
312,96
185,323
> 194,69
22
581,82
377,821
Bảng 3.42. Phép kiểm trung bình giữa thời gian mổ - lượng máu mất trong
khi mổ.
Phép kiểm Leven
Phép kiểm t
F
Giá trị p
t
Độ tự do
Giá trị p
Máu
mất
(ml)
Phương sai tương
đương
9,231
0,004
-3,253
47
0,002
Phương sai không
tương đương
-3052
29, 136
0,005
Với p = 0,002 < 0,005, nghiên cứu có thể bác bỏ giả thuyết, nghĩa là có
mối liên hệ giữa thời gian phẫu thuật và lượng máu mất trong mổ.
81
3.5.8. Kiểm chứng mối liên hệ giữa thời gian phẫu thuật – khối lƣợng
tuyến tiền liệt
Để kiểm chứng mối liên hệ giữa thời gian phẫu thuật – khối lượng
tuyến tiền liệt, nghiên cứu thực hiện phép kiểm trung bình giữa thời gian phẫu
thuật và khối lượng tuyến tiền liệt.
Nghiên cứu chia thành 2 nhóm: nhóm 1: những trường hợp có thời gian
phẫu thuật ≤ 194,69 phút (đây là thời gian phẫu thuật trung bình của nghiên
cứu), và nhóm 2: những trường hợp có thời gian phẫu thuật > 194,69 phút.
Đặt giả thuyết không có sự khác biệt về khối lượng tuyến tiền liệt giữa
2 nhóm.
Bảng 3.43. Mối liên hệ thời gian phẫu thuật – khối lượng TTL.
Thời gian mổ
(phút)
Số TH
Trung bình
Độ lệch
chuẩn
Trọng lƣợng
TTL (gr)
≤ 194,69
27
31,11
6,699
> 194,69
22
40,23
16,510
Bảng 3.44. Phép kiểm trung bình thời gian phẫu thuật – khối lượng TTL.
Phép kiểm Leven
Phép kiểm t
F
Giá trị p
t
Độ tự do
Giá trị p
Trọng
lƣợng
TTL
(gr)
Phương sai tương
đương
6,889
0,012
-2,621
47
0,012
Phương sai không
tương đương
-2,432
26,625
0,022
Với p = 0,012 < 0,05, nghiên cứu có thể bác bỏ giả thuyết, nghĩa là có
mối liên hệ giữa gian phẫu thuật và khối lượng TTL.
82
3.5.9. Kiểm định mối liên hệ giữa khối lƣợng tuyến tiền liệt - máu mất
trong mổ
Để kiểm định mối liên hệ giữa khối lượng tuyến tiền liệt và lượng máu
mất trong phẫu thuật, nghiên cứu thực hiện phép kiểm trung bình.
Nghiên cứu chia thành 2 nhóm: nhóm 1: những trường hợp có khối
lượng tuyến tiền liệt ≤ 40 gram, và nhóm 2: những trường hợp có khối lượng
tuyến tiền liệt > 40 gram [29].
Đặt giả thuyết không có sự khác biệt về lượng máu mất giữa 2 nhóm.
Bảng 3.45. Mối liên hệ giữa khối lượng TTL - lượng máu mất trong khi mổ.
Trọng lƣợng
(gr)
Số TH
Trung bình
Độ lệch
chuẩn
Máu mất
(ml)
≤ 40
27
418,42
319,717
> 40
22
486,36
307,482
Bảng 3.46. Phép kiểm trung bình giữa khối lượng TTL và lượng máu mất
trong khi mổ.
Phép kiểm Leven
Phép kiểm t
F
Giá trị p
t
Độ tự do
Giá trị p
Máu
mất
(ml)
Phương sai tương
đương
0,027
0,869
-626
47
0,535
Phương sai không
tương đương
-646
16,794
0,531
Với p = 0,535 > 0,05, nghiên cứu không thể bác bỏ giả thuyết, nghĩa là
có mối liên hệ giữa khối lượng tuyến tiền liệt và lượng máu mất trong mổ.
83
Chƣơng 4: BÀN LUẬN
Để đạt kết quả khả quan khi phẫu thuật nội soi tuyến tiền liệt tận gốc,
bên cạnh kinh nghiệm phẫu thuật viên, chọn lựa bệnh nhân phẫu thuật có vai
trò quan trọng. Khi phẫu thuật những trường hợp quá chỉ định, kết quả thường
không khả quan.
4.1. BÀN LUẬN VỀ ĐIỀU TRỊ
4.1.1. Bàn luận về phƣơng pháp phẫu thuật
Mặc dù hiện nay có nhiều phương pháp điều trị ung thư khu trú, nhưng
phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị được nhiều bác sĩ chọn lựa. Mục đích
phẫu thuật tuyến tiền liệt tận gốc (phẫu thuật mở hay nội soi) là cắt toàn bộ
tuyến tiền liệt, túi tinh, ống dẫn tinh thành một khối, tránh bỏ sót hoặc làm
rơi
rớt tế bào ung thư.
Trong 49 bệnh nhân thực hiện phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận
gốc trong nghiên cứu, 9/49 trường hợp thực hiện phẫu thuật nội soi cắt tuyến
tiền liệt tận gốc không kèm nạo hạch chậu. Thời gian mổ dài nhất của các
trường hợp này là 240 phút (2 trường hợp), ngắn nhất là 120 phút (1 trường
hợp). Có 3 trường hợp có thời gian mổ 150 phút. Do không mất thời gian nạo
hạch nên thời gian phẫu thuật rút ngắn, thời gian phẫu thuật trung bình 179,44
± 43,33 phút.
40/49 trường hợp thực hiện phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt tận gốc
có kết hợp nạo hạch chậu. Thời gian mổ dài nhất là 315 phút (1 trường hợp)
ngắn nhất là 120 phút (2 trường hợp). 9 trường hợp có thời gian mổ > 240
phút. Thời gian mổ trung bình phẫu thuật nội soi có kèm nạo hạch chậu
198,13 ± 46,66 phút (dài hơn so khi phẫu thuật không nạo hạch 18,69 phút).
84
Lượng máu mất trung bình trong 9/49 trường hợp phẫu thuật nội soi
không kèm nạo hạch là 316,67 ± 222,20 ml. Lượng máu ít nhất là 150ml
(2 trường hợp), nhiều nhất là 700 ml (2 trường hợp). Trong khi lượng máu
mất trung bình khi phẫu thuật nội soi có kèm nạo hạch là 460 ± 328,98 ml
(nhiều hơn so phẫu thuật nội soi không nạc hạch 144 ml). Lượng máu mất ít
nhất khi phẫu thuật nội soi có kèm nạo hạch chậu là 100 ml (6 trường hợp) và
tối đa là 1500 ml (1 trường hợp). Những trường hợp máu mất 100ml là những
trường hợp tuyến tiền liệt nhỏ, không dính nhiều vào các mô xung quanh bóc
tách dễ dàng. Có 18 trường hợp khi phẫu thuận kèm nạo hạch phải truyền
máu trong khi mổ.
Trong nghiên của Mariano, thời gian phẫu trung bình 125 phút, lượng
máu mất trung bình 335ml. Theo tác giả, thời gian phẫu thuật dài thường gặp
khi bệnh nhân có khối lượng tuyến tiền liệt lớn hoặc khi ung thư dính vào các
mô xung quanh. Trong nghiên cứu của tác giả 17,39% chẩn đoán giai đoạn
ung thư sau phẫu thuật là pT3 [58]. Kết qủa tương tự như trong nghiên cứu
của Guilloneau. Trong 3 năm tác gỉa thực hiện phẫu thuật nội cắt tuyến tiền
liệt tận gốc 567 trường hợp, trong đó 80,6% trường hợp không nạo hạch chậu.
Thời gian phẫu thuật trung bình 134 phút, lượng máu mất trung bình là 380ml
± 195ml, tỉ lệ bệnh nhân truyền máu trong khi phẫu thuật là 4,9% [39].
Trong nghiên cứu, 18/49 trường hợp phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền
liệt ngược dòng và 31/49 trường hợp phẫu thuật xuôi dòng. Kỹ thuật cắt tuyến
tiền liệt tận gốc có thể thực hiện theo ngược dòng, nghĩa là cắt niệu đạo trước
sau đó đi ngược lên trên cắt túi tinh, cắt tuyến tiền liệt. Nhưng cũng có thể
cắt
xuôi dòng, khi đó túi tinh, ống dẫn tinh được cắt trước, sau đó đến tuyến tiền
liệt và cuối cùng cắt niệu đạo. Trong nghiên cứu, thời gian trung bình phẫu
thuật xuôi dòng ngắn hơn so với phẫu thuật ngược dòng (188,87 phút so với
204,72 phút). Thời gian mổ phẫu thuật nội soi xuôi dòng ngắn nhất là 120
85
phút (1 trường hợp) và dài nhất là 270 phút (2 trường hợp). Lượng máu mất
trung bình khi phẫu thuật xuôi dòng ít hơn so khi phẫu thuật ngược dòng
(391,94 ml so với 505,56 ml khi cắt ngược dòng). Lượng máu mất ít nhất
trong cắt xuôi dòng là 100 ml (4 trường hợp) và nhiều nhất là 1200 ml
(1 trường hợp). Sau khi thực hiện cắt ngược dòng và xuôi dòng, nghiên cứu
nhận thấy đám rối tĩnh mạch là nguyên nhân gây chảy máu nhiều nhất, nên
khi cắt xuôi dòng, đám rối tĩnh mạch và niệu đạo cắt sau cùng, thời gian chảy
máu sẽ ít hơn, lượng máu mất sẽ ít hơn so với cắt ngược dòng.
Một ưu điểm khác nghiên cứu nhận thấy trong khi cắt xuôi dòng: niệu
đạo bóc tách rõ ràng hơn nên sau khi cắt tuyến tiền, niệu đạo còn lại sẽ dài,
nhờ đó dễ dàng khâu nối cổ bàng quang - niệu đạo bằng mũi liên tục [56].
Trong 18 trường hợp cắt ngược dòng trong nghiên cứu, sau khi cắt tuyến tiền
liệt, có 8 trường hợp khâu nối mũi liên tục bàng quang - niệu đạo. 10 trường
hợp khâu nối mũi rời. Trong khi nếu cắt xuôi dòng có thể khâu mũi liên tục
29 trường hợp.
Trong nghiên cứu của Van Velthoven, khi thực hiện khâu nối mũi liên
tục ở 122 trường hợp sau khi phẫu thuật nội soi cắt tuyến tiền liệt xuôi dòng,
tác giả nhận thấy niệu đạo bóc tách rõ ràng nên có thể khâu nối cổ bàng quang
- niệu đạo bằng khâu mũi liên tục, nhờ đó rút ngắn thời gian khâu nối. Thời
gian khâu nối của tác giả là 35 phút, và không ghi nhận trường hợp hẹp cổ
bàng quang sau phẫu thuật [95].
4.1.2. Bàn luận về phẫu thuật nạo hạch
Trong nghiên cứu, thực hiện nạo hạch 40/49 bệnh nhân nạo hạch
(chiếm tỉ lệ 81,6%). 2 trường hợp trước khi phẫu thuật không có chỉ định nạo
hạch, nhưng trong khi phẫu thuật, quan sát thấy có hạch chậu một bên (1 bệnh
nhân có hạch bên phải và một bệnh nhân có hạch bên trái) nên nạo hạch làm
86
sinh thiết. Kết quả giải phẫu bệnh cả 3 trường hợp không ghi nhận có tế bào
ung thư trong hạch sinh thiết. Trong nghiên cứu, nạo hạch được thực hiện ở
những bệnh nhân có trị số PSA > 20 ng/ml hoặc trong khi mổ thấy có hạch
chậu [33]. Mặt khác, theo một số tác giả nhận thấy do các trường hợp di căn
hạch đều có điểm số Gleason ≥ 8, do đó có những khuyến cáo cho rằng những
trường hợp này có chỉ định nạo hạch [48].
Trong nghiên cứu, 1/40 trường hợp nạo hạch có tế bào ung thư. 39/40
trường hợp không có tế bào ung thư ở hạch. Tuy nhiên, khi so sánh với trường
hợp tái phát sinh hóa, nghiên cứu ghi nhận có 4/5 trường hợp tái phát sinh hóa
có thực hiện nạo hạch chậu, điều này chứng tỏ nạo hạch chậu là cần thiết khi
có chỉ định. Có khoảng 75% hệ bạch huyết của tuyến tiền liệt đổ vào nhóm
hạch chậu bịt, do đó một số tác giả đề nghị chỉ nên nạo nhóm hạch bịt [33].
Trong nghiên cứu, 40/49 trường hợp thực hiện nạo hạch chậu chuẩn, trong đó
lấy hết hạch dọc theo phía trước là tĩnh mạch chậu ngoài, phía sau là thần
kinh bịt, và lấy hạch từ hạch Cloquet đến chỗ chia đôi mạch máu chậu.
Nghiên cứu ghi nhận phẫu thuật nạo hạch chậu chuẩn tương đối đơn giản, ít
tốn thời gian (thời gian phẫu thuật có kèm nạo hạch dài hơn so khi phẫu thuật
không nạo hạch 18,69 phút) và không ghi nhận biến chứng.
Một số tác giả thực hiện nạo hạch chậu rộng, nạo cả những hạch dọc
theo động mạch chậu trong và hạch trước xương cùng. Theo Rabbani, nếu nạo
hạch chậu chuẩn số lượng hạch lấy được là 9-11 hạch, trong khi nếu nạo hạch
chậu rộng số lượng hạch lấy ra có thể lên tới 18-28 hạch. Số lượng hạch nạo
tối thiểu để tránh bỏ sót ung thư là 20 hạch. Do vậy khả năng phát hiện di căn
hạch của nạo hạch chậu rộng sẽ tăng lên đáng kể so với khi nạo hạch chậu
chuẩn [75]. Theo nghiên cứu của Heidenreich, nếu trong nạo hạch chuẩn tỉ lệ
phát hiện tế bào ung thư là 12%, thì nạo hạch chậu rộng tỉ lệ phát hiện tế bào
87
ung thư là 26% [33]. Tỉ lệ phát hiện tế bào ung thư trong nạo hạch chậu chuẩn
và nạo hạch rộng của các tác giả, được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 4.47. So sánh kết quả GPB nạo hạch chậu.
Số TH
Nạo hạch chuẩn
Nạo hạch rộng
Stone [91]
189
7
22
Heidenreich [42]
499
29
Bader [20]
367
19
26
Nghiên cứu
40
1
_
Hiện nay nhiều tác giả đồng ý rằng nạo hạch rộng trong nhiều trường
hợp là không cần thiết, nhất là trong những trường hợp ung thư thuộc nhóm
nguy cơ thấp. Theo Rabbani, bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ thấp nếu nạo
chuẩn không thấy tế bào ung thư thì 99% bệnh nhân không di căn hạch. Theo
ông, những bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ trung bình và cao, thì nên nạo
hạch chậu rộng để điều trị, tuy nhiên khi thực hiện nạo hạch chậu rộng nguy
cơ xảy ra các biến chứng sẽ gặp nhiều hơn [52]. Các tai biến có thể gặp
thường là tụ dịch bạch huyết vùng chậu, tổn thương thần kinh bịt, tổn thương
mạch máu, áp xe vùng chậu, thuyên tắc mạch... Trong nghiên cứu, không có
trường hợp xảy ra biến chứng khi thực hiện nạo hạch chậu. Theo nghiên cứu,
trong khi nạo hạch để hạn chế những tai biến này cần phải bọc lộ rõ tĩnh mạch
chậu ngoài, bọc lộ và quan sát rõ dây thần kinh bịt và tránh làm tổn thương
mạch máu, thần kinh bịt khi bóc tách.
Trong nghiên cứu, sử dụng clip để kẹp hệ bạch huyết trước khi cắt. Kẹp
clip vừa có tác dụng cầm máu, vừa tránh tai biến tụ dịch bạch huyết sau mổ.
88
Theo nghiên cứu Eden, tai biến gặp nhiều nhất là tụ dịch bạch huyết tại vùng
chậu (4,1%). Đồng thời theo tác giả, không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ
xảy ra tai biến khi so sánh nạo hạch chậu chuẩn và nạo hạch chậu rộng [33].
1/40 trường hợp trong nghiên cứu, sinh thiết có tế ung thư ở hạch.
Trường hợp có di căn hạch, vấn đề điều trị vẫn còn nhiều bàn cãi. Ngày nay
với theo dõi sau mổ bằng PSA, đa số tác giả đều đồng ý rằng chỉ nên dùng nội
tiết tố khi PSA tăng trở lại hơn là dùng ngay sau mổ. Theo nhiều nghiên cứu
có kiểm chứng mặc dù tiên lượng xấu, nhưng tỉ lệ sống sót sau
10 năm ở những trường hợp có di căn hạch được nhiều tác giả đồng ý là 47-
78% [48]. Khả năng sống sót phụ thuộc vào số hạch mang tế bào ung thư trên
số hạch được lấy ra. Theo Kerbl, nếu tỉ lệ số hạch mang tế bào ung thư trên số
hạch lấy ra ≤ 20% tỉ lệ khỏi bệnh là 72%, nhưng nếu > 20% tỉ lệ khỏi bệnh là
47% [53].
4.1.3. Bàn luận về phẫu thuật bảo tồn bó mạch thần kinh
Trong nghiên cứu, 25/49 bệnh nhân áp dụng phẫu thuật bảo tồn bó
mạch thần. Những bệnh nhân này có kích thước tuyến tiền liệt nhỏ, ung thư
thuộc nhóm nguy cơ thấp hoặc trung bình và không rối loạn cương trước phẫu
thuật. 23/25 trường hợp có trọng lượng tuyến tiền liệt ước lượng trước phẫu
thuật nội soi < 40 gram. Có 2 trường hợp 50 gram, nhưng do bệnh nhân còn
trẻ, có nhu cầu bảo vệ chức năng cương (1 trường hợp 55 tuổi, 1 trường hợp
64 tuổi). Theo nghiên cứu, để hạn chế tổn thương bó mạch thần kinh trong khi
mổ, nghiên cứu tránh lôi kéo tuyến tiền liệt lên quá nhiều, vì có thể làm dây
thần kinh nằm ở sau ngoài tuyến tiền liệt lôi theo, dễ đụng chạm dây thần kinh
khi phẫu tích; đồng thời nghiên cứu hạn chế sử dụng dao đốt điện trong khi
bóc tách, nhất là khi bóc tách vùng đỉnh tuyến tiền liệt và thành sau bên tuyến
89
tiền liệt. Đây là những vị trí mà dây thần kinh đi sát tuyến tiền liệt. Điện
năng
do dao điện tỏa ra có thể làm tổn thương dây thần kinh.
Thời gian phẫu thuật những trường hợp có bảo tồn là 186,2 phút, ngắn
hơn so với nhóm không bảo tồn (203 phút). Nguyên nhân là do những trường
hợp không bảo tồn thường là những trường hợp phẫu thuật khó khăn, có thể
tuyến tiền liệt lớn hoặc tuyến tiền liệt dính vào mô xung quanh hoặc do chảy
máu nhiều... làm thời gian phẫu thuật kéo dài.
Những vị trí dễ gây tổn thương bó mạch thần kinh trong khi phẫu thuật
là đỉnh tuyến tiền liệt, mặt sau niệu đạo, hai thành sau bên của tuyến tiền liệt
[30], [40], [98]. Theo nghiên cứu của Li, để bảo tồn bó mạch thần kinh trong
phẫu thuật nội soi, sau khi cắt túi tinh dùng kelly bóc tách thành sau bên ra
khỏi tuyến tiền liệt. Sau đó dùng clip kẹp các nhánh động mạch vỏ tuyến tiền
liệt chạy từ bó mạch thần kinh ra. Sau đó cắt bằng kéo, không dùng dao điện
để cắt [56].
Trong nghiên cứu có 11 trường hợp chỉ bảo tồn được một bên. Đây là
những trường hợp trong khi mổ, bên không bảo tồn dính nhiều, bóc tách khó
khăn, hoặc do chảy máu từ bó mạc thần kinh nhiều nên cần phải clip để cầm
máu. Nhiều nghiên cứu cho thấy, chức năng cương sau mổ phụ thuộc rất
nhiều vào kỹ thuật có bảo tồn hay không bảo tồn bó mạch thần kinh. Nếu bảo
tồn được cà 2 bó mạch, tỉ lệ cương sau mổ là 67%. Nhưng nếu chỉ bảo tồn
một bên, tỉ lệ cương sau mổ chỉ khoảng 47% [100]. Tuy nhiên không phải lúc
nào cũng có thể áp dụng kỹ thuật này như trong những trường hợp bệnh nhân
có kích thước tuyến liệt to, bóc tách rất khó khăn. Chảy máu cũng là nguyên
nhân gây cản trở thực hiện phẫu thuật bảo tồn. Chảy máu nhiều sẽ làm phẫu
trường không còn rõ ràng, dễ làm tổn thương bó mạch thần kinh.