Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ ngành Lý luận Âm nhạc: Dạy học nhạc Jazz trên đàn phím điện tử, hệ Đại học Sư phạm Âm nhạc, trường Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương

5,943
857
115
7
- Giảng viên dạy đàn Keyboard tại trường ĐHSPNTTW.
- Sinh viên đang học đàn Keyboard tại trường ĐHSPNTTW.
- Hệ thống bài kỹ thuật, tác phẩm nhạc Jazz.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình, nguồn tài liệu
nhạc Jazz của các tác giả trên thế giới và Việt Nam.
- Phương pháp dạy học nhạc Jazz trên đàn Keyboard.
- Phương pháp biểu diễn đàn Keyboard.
- Phương pháp ngẫu hứng nhạc Jazz trên đàn Keyboard.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6. Những đóng góp của luận văn
- Khẳng định kỹ thuật nhạc Jazz cần thiết, tầm quan trọng
trong dạy học đàn Keyboard trình độ ĐHSPAN, trường ĐHSPNTTW.
- Kỹ thuật nhạc Jazz là cơ sở để phát triển lối chơi ngẫu hứng, ứng
tác trên đàn Keyboard, sở hình thành soạn phần đệm hát của người
giáo viên âm nhạc phổ thông.
- Đa dạng hóa chương trình dạy học đàn Keyboard trình độ
ĐHSPAN, đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ đàn Keyboard.
- Cung cấp cho người chơi đàn Keyboard những kiến thức hiểu biết,
khả năng sáng tạo nhạc Jazz nói riêng, đệm hát và hòa tấu dàn nhạc nhẹ
trên đàn Keyboard nói chung.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo Phụ lục,
Luận văn gồm 2 chương, gồm:
Chương 1: Tổng quan về nhạc Jazz trên đàn phím điện tử trình độ
Đại học Sư phạm Âm nhạc, trường ĐHSPNTTW
Chương 2: Hệ thống và phương pháp cho việc dạy học nhạc Jazz
trên đàn phím điện tử, trình độ ĐHSP, trường ĐHSPNTTW
7 - Giảng viên dạy đàn Keyboard tại trường ĐHSPNTTW. - Sinh viên đang học đàn Keyboard tại trường ĐHSPNTTW. - Hệ thống bài kỹ thuật, tác phẩm nhạc Jazz. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tổng hợp, phân tích các công trình, nguồn tài liệu nhạc Jazz của các tác giả trên thế giới và Việt Nam. - Phương pháp dạy học nhạc Jazz trên đàn Keyboard. - Phương pháp biểu diễn đàn Keyboard. - Phương pháp ngẫu hứng nhạc Jazz trên đàn Keyboard. - Phương pháp thực nghiệm sư phạm. 6. Những đóng góp của luận văn - Khẳng định kỹ thuật nhạc Jazz là cần thiết, có tầm quan trọng trong dạy học đàn Keyboard trình độ ĐHSPAN, trường ĐHSPNTTW. - Kỹ thuật nhạc Jazz là cơ sở để phát triển lối chơi ngẫu hứng, ứng tác trên đàn Keyboard, cơ sở hình thành soạn phần đệm hát của người giáo viên âm nhạc phổ thông. - Đa dạng hóa chương trình dạy học đàn Keyboard trình độ ĐHSPAN, đáp ứng yêu cầu nâng cao trình độ đàn Keyboard. - Cung cấp cho người chơi đàn Keyboard những kiến thức hiểu biết, khả năng sáng tạo nhạc Jazz nói riêng, đệm hát và hòa tấu dàn nhạc nhẹ trên đàn Keyboard nói chung. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn gồm 2 chương, gồm: Chương 1: Tổng quan về nhạc Jazz trên đàn phím điện tử trình độ Đại học Sư phạm Âm nhạc, trường ĐHSPNTTW Chương 2: Hệ thống và phương pháp cho việc dạy học nhạc Jazz trên đàn phím điện tử, trình độ ĐHSP, trường ĐHSPNTTW
8
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ NHẠC JAZZ TRÊN ĐÀN PHÍM ĐIỆN TỬ
TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ÂM NHẠC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm diễn tấu nhạc Jazz
1.1.1 Khái niệm nhạc Jazz
Những năm đầu thế kỷ XX, nhạc Jazz xuất hiện trên các đường
phố, quán Bar ở New Orleans của nước Mỹ, đó là sự kết hợp của nhiều
thể loại âm nhạc: blue, ragtime, swing, nhạc Jazz được biết đến trước hết
từ yếu tố biểu diễn, trình diễn của những nghệ sĩ Mỹ da đen. Điều này
được xác nhận trong lịch sử nhạc Jazz: “những thành phần tạo thành
nhạc Jazz có cội nguồn các điệu négro spiritual, blue, ragtime là những
di sản của vốn âm nhạc người da đen ở châu Mỹ” [20, tr.10].
Điệu négro spiritual là những bài hát của người Mỹ gốc Phi chuyên
làm công trong đồn điền trồng trọt miền Nam nước Mỹ, hình thức hát
phổ biến: một người chuyên lĩnh xướng, sau đó những người trong cộng
đồng cùng nhau hát lại, gọi bài spiritual. Nơi hát thường tại các địa
điểm: trong nhà thờ, khi lao động tập thể như: chèo thuyền, chặt mía...,
lời ca không phân biệt về tính linh thiêng (tế lễ, thờ cúng) và sinh hoạt
hàng ngày.
Sự biến đổi tự do về cách hát nhấn, làm lệch nhịp phách, không
theo chu kỳ phách nhịp kiểu châu Âu là cơ sở hình thành một thể loại âm
nhạc khác: nhạc Ragget, tiền thân của nhạc Ragtime với đặc điểm
lệch, đảo phách liên tục trong đường nét giai điệu.
Nhạc blue là những bài hát của những người da đen Mỹ, xuất phát
từ điệu thức 7 âm châu Âu, được cố định phần nền theo vòng công năng
hòa âm. Christopher Meeder cho rằng: “Blues là một hình thức âm nhạc,
8 Chương 1 TỔNG QUAN VỀ NHẠC JAZZ TRÊN ĐÀN PHÍM ĐIỆN TỬ TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ÂM NHẠC TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG 1.1. Khái niệm và đặc điểm diễn tấu nhạc Jazz 1.1.1 Khái niệm nhạc Jazz Những năm đầu thế kỷ XX, nhạc Jazz xuất hiện trên các đường phố, quán Bar ở New Orleans của nước Mỹ, đó là sự kết hợp của nhiều thể loại âm nhạc: blue, ragtime, swing, nhạc Jazz được biết đến trước hết từ yếu tố biểu diễn, trình diễn của những nghệ sĩ Mỹ da đen. Điều này được xác nhận trong lịch sử nhạc Jazz: “những thành phần tạo thành nhạc Jazz có cội nguồn các điệu négro spiritual, blue, ragtime là những di sản của vốn âm nhạc người da đen ở châu Mỹ” [20, tr.10]. Điệu négro spiritual là những bài hát của người Mỹ gốc Phi chuyên làm công trong đồn điền trồng trọt miền Nam nước Mỹ, hình thức hát phổ biến: một người chuyên lĩnh xướng, sau đó những người trong cộng đồng cùng nhau hát lại, gọi là bài spiritual. Nơi hát thường tại các địa điểm: trong nhà thờ, khi lao động tập thể như: chèo thuyền, chặt mía..., lời ca không phân biệt về tính linh thiêng (tế lễ, thờ cúng) và sinh hoạt hàng ngày. Sự biến đổi tự do về cách hát nhấn, làm lệch nhịp phách, không theo chu kỳ phách nhịp kiểu châu Âu là cơ sở hình thành một thể loại âm nhạc khác: nhạc Ragget, tiền thân của nhạc Ragtime với đặc điểm xô lệch, đảo phách liên tục trong đường nét giai điệu. Nhạc blue là những bài hát của những người da đen Mỹ, xuất phát từ điệu thức 7 âm châu Âu, được cố định phần nền theo vòng công năng hòa âm. Christopher Meeder cho rằng: “Blues là một hình thức âm nhạc,
9
khởi đầu dành cho hát… sau này trở thành những tác phẩm khí nhạc
[36, tr.25].
Nguồn gốc, ý nghĩa nhạc Jazz được vi.wikipedia - Bách khoa toàn
thư mở, nêu với hàm nghĩa lịch sử ra đời:
Việc dùng từ này với ý nghĩa âm nhạc được xác định sớm nhất
vào năm 1915 trong báo Chicago Daily- Tribune. Số báo
ngày 14 tháng 11, 1916 của tờ Time- Picayune có một bài viết
về "những ban nhạc jas", đây là lần đầu tiên từ jazz được dùng
trong ngữ cảnh âm nhạc tại New Orleans[54].
Để giải thích cụ thể, chi tiết của từ Jazz, loại nhạc phản ánh tâm tư
tình cảm của cộng đồng người Mỹ gốc Phi, khi nhìn lại quá trình hình
thành, phát triển cho thấy nhạc Jazz gắn liền với cách biểu diễn, cảm
nhận âm nhạc có cội nguồn từ các bài hát của những dân gốc gác từ châu
Phi bị bắt sang Mỹ làm nô lệ, lao động. Nghĩa của từ Jazz phản ánh tệ
nạn phân biệt chủng tộc diễn ra sâu sắc trong lòng hội Mỹ. Nhưng,
nhạc Jazz không mất đi, ngày càng phát triển, mở rộng tầm ảnh
hưởng ra khắp thế giới suốt thế kỷ XX.
Trong cuốn The Chord scale theory & Jazz harmony (Lý thuyết hợp
âm, gam hòa âm nhạc Jazz) xuất bản năm 1997, hai nhạc người
Mỹ: Barrie Nettles Richard Graf viết: Jazz- arround one hundred
years old - is an American art form which developed from the
interrelation of African and European mucsic [33, tr.8]. Tạm dịch là:
nhạc Jazz trong vòng một trăm năm qua hình thức nghệ thuật của
người Mỹ được phát triển từ mối quan hệ giữa âm nhạc châu Phi và châu
Âu.
Nhạc sĩ Jelly Roll Morton, kiêm nghệ sĩ Piano và là một ca sĩ người
Mỹ da đen nổi tiếng khẳng định: “nhạc Jazz thuộc về một phong cách
thể hiện chứ không thuộc về sáng tác” [20, tr.7]. Điều này xác định cụ
9 khởi đầu dành cho hát… sau này trở thành những tác phẩm khí nhạc” [36, tr.25]. Nguồn gốc, ý nghĩa nhạc Jazz được vi.wikipedia - Bách khoa toàn thư mở, nêu với hàm nghĩa lịch sử ra đời: Việc dùng từ này với ý nghĩa âm nhạc được xác định sớm nhất là vào năm 1915 trong báo Chicago Daily- Tribune. Số báo ngày 14 tháng 11, 1916 của tờ Time- Picayune có một bài viết về "những ban nhạc jas", đây là lần đầu tiên từ jazz được dùng trong ngữ cảnh âm nhạc tại New Orleans[54]. Để giải thích cụ thể, chi tiết của từ Jazz, loại nhạc phản ánh tâm tư tình cảm của cộng đồng người Mỹ gốc Phi, khi nhìn lại quá trình hình thành, phát triển cho thấy nhạc Jazz gắn liền với cách biểu diễn, cảm nhận âm nhạc có cội nguồn từ các bài hát của những dân gốc gác từ châu Phi bị bắt sang Mỹ làm nô lệ, lao động. Nghĩa của từ Jazz phản ánh tệ nạn phân biệt chủng tộc diễn ra sâu sắc trong lòng xã hội Mỹ. Nhưng, nhạc Jazz không mất đi, mà ngày càng phát triển, mở rộng tầm ảnh hưởng ra khắp thế giới suốt thế kỷ XX. Trong cuốn The Chord scale theory & Jazz harmony (Lý thuyết hợp âm, gam và hòa âm nhạc Jazz) xuất bản năm 1997, hai nhạc sĩ người Mỹ: Barrie Nettles và Richard Graf viết: “Jazz- arround one hundred years old - is an American art form which developed from the interrelation of African and European mucsic” [33, tr.8]. Tạm dịch là: nhạc Jazz trong vòng một trăm năm qua là hình thức nghệ thuật của người Mỹ được phát triển từ mối quan hệ giữa âm nhạc châu Phi và châu Âu. Nhạc sĩ Jelly Roll Morton, kiêm nghệ sĩ Piano và là một ca sĩ người Mỹ da đen nổi tiếng khẳng định: “nhạc Jazz thuộc về một phong cách thể hiện chứ không thuộc về sáng tác” [20, tr.7]. Điều này xác định cụ
10
thể tính chất nhạc Jazz với lối diễn tấu dựa vào sự ngẫu hứng điêu luyện
trên nền hòa âm châu Âu, được nghệ người Mỹ thể hiện trong các
chương trình âm nhạc. Đồng thời, sự đa dạng trong thủ pháp phát triển
chủ đề, hình thức tạo nên sự đổi mới phong phú, độc đáo và đặc sắc của
nghệ thuật biểu diễn.
Như vậy, người viết luận văn đồng tình theo cách hiểu về nhạc Jazz
của Billy Taylor đưa ra (tạm dịch): “bản chất của Jazz là sự đa văn hóa,
được tạo nên bởi vô vàn yếu tố khác nhau, nhưng nó đã tự phát triển với
lý tưởng riêng, kết hợp từ truyền thống cho đến những nhân tố ngoại lai
luôn luôn giao thoa ở mỗi không gian và thời gian nó cập bến, phù hợp
với lịch sử hình thành và phát triển của nó” [34, tr.212].
1.1.2. Đặc điểm diễn tấu nhạc Jazz
Xuất phát từ lịch sử hình thành, phát triển các cộng đồng người Mỹ
gốc Phi, nhạc Jazz nhanh chóng lan tỏa khắp nước Mỹ trong suốt thế kỷ
XX. Không chỉ vậy, nhạc Jazz tác động, ảnh hưởng đến âm nhạc c
nước khác, đặc biệt ở châu Âu, với khả năng sáng tạo đặc sắc của nghệ sĩ
trong lĩnh vực biểu diễn. Do đó, đặc điểm nhạc Jazz là sự phát huy lối
diễn tấu đầy ngẫu hứng của từng thành viên trong ban nhạc Jazz. Điều
này là sự khác biệt sâu sắc trong sáng tác âm nhạc mang tính chuẩn mực,
bất di bất dịch của nhạc sĩ châu Âu, khi các khuynh hướng hiện đại, cấu
trúc, tân cổ điển đang diễn ra. Trong tổng phổ dàn nhạc hàn lâm, chính
thống, người nghệ sĩ không tùy tiện, tự ý thêm bớt các nốt nhạc, hoặc cố
tình thay đổi sắc thái, âm vực..., thậm chí đến từng dấu lặng.
Đặc điểm diễn tấu nhạc Jazz được Andre Hoder khẳng định:
Một hiện tượng đặc trưng để nhận định hệ thống riêng biệt của
nhạc Jazz là vị trí to lớn của sự ứng tấu ngẫu nhiên. Phần nhiều
tác phẩm Jazz được sáng tác tại chỗ, ngay tức thì khi người
nghe tiếp nhận lấy nó. Nghệ sĩ độc tấu được những người đệm
10 thể tính chất nhạc Jazz với lối diễn tấu dựa vào sự ngẫu hứng điêu luyện trên nền hòa âm châu Âu, được nghệ sĩ người Mỹ thể hiện trong các chương trình âm nhạc. Đồng thời, sự đa dạng trong thủ pháp phát triển chủ đề, hình thức tạo nên sự đổi mới phong phú, độc đáo và đặc sắc của nghệ thuật biểu diễn. Như vậy, người viết luận văn đồng tình theo cách hiểu về nhạc Jazz của Billy Taylor đưa ra (tạm dịch): “bản chất của Jazz là sự đa văn hóa, được tạo nên bởi vô vàn yếu tố khác nhau, nhưng nó đã tự phát triển với lý tưởng riêng, kết hợp từ truyền thống cho đến những nhân tố ngoại lai luôn luôn giao thoa ở mỗi không gian và thời gian nó cập bến, phù hợp với lịch sử hình thành và phát triển của nó” [34, tr.212]. 1.1.2. Đặc điểm diễn tấu nhạc Jazz Xuất phát từ lịch sử hình thành, phát triển các cộng đồng người Mỹ gốc Phi, nhạc Jazz nhanh chóng lan tỏa khắp nước Mỹ trong suốt thế kỷ XX. Không chỉ vậy, nhạc Jazz tác động, ảnh hưởng đến âm nhạc các nước khác, đặc biệt ở châu Âu, với khả năng sáng tạo đặc sắc của nghệ sĩ trong lĩnh vực biểu diễn. Do đó, đặc điểm nhạc Jazz là sự phát huy lối diễn tấu đầy ngẫu hứng của từng thành viên trong ban nhạc Jazz. Điều này là sự khác biệt sâu sắc trong sáng tác âm nhạc mang tính chuẩn mực, bất di bất dịch của nhạc sĩ châu Âu, khi các khuynh hướng hiện đại, cấu trúc, tân cổ điển đang diễn ra. Trong tổng phổ dàn nhạc hàn lâm, chính thống, người nghệ sĩ không tùy tiện, tự ý thêm bớt các nốt nhạc, hoặc cố tình thay đổi sắc thái, âm vực..., thậm chí đến từng dấu lặng. Đặc điểm diễn tấu nhạc Jazz được Andre Hoder khẳng định: Một hiện tượng đặc trưng để nhận định hệ thống riêng biệt của nhạc Jazz là vị trí to lớn của sự ứng tấu ngẫu nhiên. Phần nhiều tác phẩm Jazz được sáng tác tại chỗ, ngay tức thì khi người nghe tiếp nhận lấy nó. Nghệ sĩ độc tấu được những người đệm
11
kèn xung quanh phát triển ý dịnh của mình ít nhiều độc đáo cái
chủ đề được chọn lựa đi theo một nền hòa âm. Người độc tấu
không chỉ hạn chế trong phạm vi biến hóa chủ đề thành câu cú,
anh ta sẵn sàng tách xa ra khỏi chủ đề, mục đích của anh ta là:
vẫn trên những nối tiếp của các hợp âm ấy mà sáng tác ra một
giai điệu nhất thiết hoàn toàn mới[20, tr.8]
Như vậy, đặc điểm nhạc Jazz khác biệt với nhiều thể loại nhạc
khác ở khả năng sáng tạo, tính ứng tấu ngẫu nhiên từng thành viên trong
dàn nhạc, ban nhạc. đó, lối biểu diễn theo phong cách đường phố,
quán Bar đóng vai trò chủ đạo, người nghệ nhạc Jazz sử dụng nhiều
dạng kỹ thuật để tạo nên lối chơi mang dấu ấn cá nhân nhưng vẫn hòa
nhập, liên kết chặt chẽ với các thành viên khác. Chỉ trong quá trình biểu
diễn, những cảm xúc mang đầy hứng khởi mới phát lộ những giai điệu,
âm sắc nhạc Jazz độc đáo, mới lạ. Andre Hoder viết: “thế giới nhạc Jazz
một thế giới không thể thấy trước được. Tờ Áp- phíc quảng cáo một
buổi hòa nhạc chỉ mới cho biết khả năng có thể có được sự thành công
về nghệ thuật” [20, tr.9].
Bằng tính ngẫu hứng của những nghệ biểu diễn, nhạc Jazz trở
thành trào lưu âm nhạc mang đậm dấu ấn cá nhân với nhiều lối diễn tả
khác nhau, các buổi biểu diễn nhạc Jazz là sự tìm tòi không ngừng nghỉ
về đường nét, cấu trúc giai điệu trên nền hòa âm cố định. Lối chơi nhạc
Jazz ảnh hưởng đến các thể loại nhạc Pop, Rock được định hình sau đó ở
những năm 50 thế kỷ XX. Từ sáng tạo tại chỗ trong quá trình biểu diễn,
nhạc Jazz đề cao kỹ thuật, khả năng sáng tác âm nhạc đầy ngẫu hứng, bất
ngờ, không lường trước qua chủ đề, âm hình được nghệ sĩ biểu diễn bằng
cám xúc. Như vậy, diễn tấu nhạc Jazz có những đặc điểm sau:
- Ngẫu hứng, ứng tấu giàu tính sáng tạo về âm nhạc là yếu tố ch
đạo của nhạc Jazz trong các dàn nhạc, ban nhạc lớn, nhỏ khác nhau.
11 kèn xung quanh phát triển ý dịnh của mình ít nhiều độc đáo cái chủ đề được chọn lựa đi theo một nền hòa âm. Người độc tấu không chỉ hạn chế trong phạm vi biến hóa chủ đề thành câu cú, anh ta sẵn sàng tách xa ra khỏi chủ đề, mục đích của anh ta là: vẫn trên những nối tiếp của các hợp âm ấy mà sáng tác ra một giai điệu nhất thiết hoàn toàn mới[20, tr.8] Như vậy, đặc điểm nhạc Jazz khác biệt với nhiều thể loại nhạc khác ở khả năng sáng tạo, tính ứng tấu ngẫu nhiên từng thành viên trong dàn nhạc, ban nhạc. Ở đó, lối biểu diễn theo phong cách đường phố, quán Bar đóng vai trò chủ đạo, người nghệ sĩ nhạc Jazz sử dụng nhiều dạng kỹ thuật để tạo nên lối chơi mang dấu ấn cá nhân nhưng vẫn hòa nhập, liên kết chặt chẽ với các thành viên khác. Chỉ trong quá trình biểu diễn, những cảm xúc mang đầy hứng khởi mới phát lộ những giai điệu, âm sắc nhạc Jazz độc đáo, mới lạ. Andre Hoder viết: “thế giới nhạc Jazz là một thế giới không thể thấy trước được. Tờ Áp- phíc quảng cáo một buổi hòa nhạc chỉ mới cho biết khả năng có thể có được sự thành công về nghệ thuật” [20, tr.9]. Bằng tính ngẫu hứng của những nghệ sĩ biểu diễn, nhạc Jazz trở thành trào lưu âm nhạc mang đậm dấu ấn cá nhân với nhiều lối diễn tả khác nhau, các buổi biểu diễn nhạc Jazz là sự tìm tòi không ngừng nghỉ về đường nét, cấu trúc giai điệu trên nền hòa âm cố định. Lối chơi nhạc Jazz ảnh hưởng đến các thể loại nhạc Pop, Rock được định hình sau đó ở những năm 50 thế kỷ XX. Từ sáng tạo tại chỗ trong quá trình biểu diễn, nhạc Jazz đề cao kỹ thuật, khả năng sáng tác âm nhạc đầy ngẫu hứng, bất ngờ, không lường trước qua chủ đề, âm hình được nghệ sĩ biểu diễn bằng cám xúc. Như vậy, diễn tấu nhạc Jazz có những đặc điểm sau: - Ngẫu hứng, ứng tấu giàu tính sáng tạo về âm nhạc là yếu tố chủ đạo của nhạc Jazz trong các dàn nhạc, ban nhạc lớn, nhỏ khác nhau.
12
- Kỹ thuật biểu diễn điêu luyện, tạo nên sự đa dạng phương pháp
trình bày âm nhạc với sắc thái, giọng điệu phong phú.
- Luôn tìm tòi, đổi mới cách biểu hiện âm nhạc bằng đường nét giai
điệu, nhịp điệu.
- Khai thác tối đa khả năng âm nhạc từng cá nhân trong dàn nhạc,
ban nhạc.
- Hình thành sự gắn kết, cảm nhận lối chơi nhạc chung cho toàn bộ
thành viên dàn nhạc, ban nhạc.
- Gần gũi lối biểu diễn phóng khoáng, tự do kiểu âm nhạc đường
phố, quán Bar.
- Nhạc Jazz đề cao vai trò cá nhân, phát triển âm nhạc qua thủ pháp,
khả năng làm chủ kỹ thuật chơi đàn, biểu diễn.
Ngay khi xuất hiện phát triển, nhạc Jazz trải qua từng thời kỳ
khác nhau, mỗi thời kỳ lại tạo nên đột biến, đổi mới và thu nhận nhiều
lối chơi, tiết tấu, tính đa dạng trong biểu diễn nhạc Jazz. Từ đó hình
thành những đặc điểm trong lối chơi đầy biến hóa của nhạc Jazz trong
suốt thế kỷ XX.
Trong những năm trước đây, Việt Nam nhạc Jazz được nhiều
nghệ chơi đàn chuyên nghiệp quan tâm, học tập, chủ yếu theo con
đường tự học. nhiều do, nhưng quan trọng nhất vẫn chưa nh
thành hệ thống, cơ sở đào tạo âm nhạc dạy nhạc Jazz một cách bài bản,
ngoài HVANQGVN, Nhạc viện Tp.HCM. Bởi nhạc Jazz luôn đòi hỏi
phương pháp tư duy âm nhạc khác với âm nhạc kinh viện, điều kiện để
biểu diễn nhạc Jazz không phổ cập bằng các thể loại nhạc khác như Pop,
Rock, dân gian. Tuy vậy, những ảnh hưởng, ứng dụng nhạc Jazz vào âm
nhạc chuyên nghiệp Việt Nam hiện nay rất lớn. Nhiều ban nhạc trẻ Việt
Nam tiếp cận nhạc Jazz qua phong cách, lối chơi, thủ pháp sáng tạo,
ngẫu hứng của cá nhân do phù hợp với lối biểu diễn phòng trà, quán Bar,
12 - Kỹ thuật biểu diễn điêu luyện, tạo nên sự đa dạng phương pháp trình bày âm nhạc với sắc thái, giọng điệu phong phú. - Luôn tìm tòi, đổi mới cách biểu hiện âm nhạc bằng đường nét giai điệu, nhịp điệu. - Khai thác tối đa khả năng âm nhạc từng cá nhân trong dàn nhạc, ban nhạc. - Hình thành sự gắn kết, cảm nhận lối chơi nhạc chung cho toàn bộ thành viên dàn nhạc, ban nhạc. - Gần gũi lối biểu diễn phóng khoáng, tự do kiểu âm nhạc đường phố, quán Bar. - Nhạc Jazz đề cao vai trò cá nhân, phát triển âm nhạc qua thủ pháp, khả năng làm chủ kỹ thuật chơi đàn, biểu diễn. Ngay khi xuất hiện và phát triển, nhạc Jazz trải qua từng thời kỳ khác nhau, mỗi thời kỳ lại tạo nên đột biến, đổi mới và thu nhận nhiều lối chơi, tiết tấu, tính đa dạng trong biểu diễn nhạc Jazz. Từ đó hình thành những đặc điểm trong lối chơi đầy biến hóa của nhạc Jazz trong suốt thế kỷ XX. Trong những năm trước đây, ở Việt Nam nhạc Jazz được nhiều nghệ sĩ chơi đàn chuyên nghiệp quan tâm, học tập, chủ yếu theo con đường tự học. Có nhiều lý do, nhưng quan trọng nhất vẫn chưa hình thành hệ thống, cơ sở đào tạo âm nhạc dạy nhạc Jazz một cách bài bản, ngoài HVANQGVN, Nhạc viện Tp.HCM. Bởi nhạc Jazz luôn đòi hỏi phương pháp tư duy âm nhạc khác với âm nhạc kinh viện, điều kiện để biểu diễn nhạc Jazz không phổ cập bằng các thể loại nhạc khác như Pop, Rock, dân gian. Tuy vậy, những ảnh hưởng, ứng dụng nhạc Jazz vào âm nhạc chuyên nghiệp Việt Nam hiện nay rất lớn. Nhiều ban nhạc trẻ Việt Nam tiếp cận nhạc Jazz qua phong cách, lối chơi, thủ pháp sáng tạo, ngẫu hứng của cá nhân do phù hợp với lối biểu diễn phòng trà, quán Bar,
13
nhà hàng, khách sạn. Đây cũng là một trong những đặc điểm nhạc Jazz ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
1.2. Nhạc jazz trên đàn phím điện tử
Tại nhiều sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp như: Cao đẳng
Nghệ thuật Hà Nội, HVANQGVN, trường Đại học VHNT Quân đội...,
từ lâu nhạc Jazz được đưa vào chương trình đào tạo. Với các chuyên
ngành biểu diễn nhạc đàn như: Piano, Guitar, nhạc Jazz trở thành quy
trình dạy học bắt buộc. Về ý nghĩa, nhạc Jazz phù hợp với đàn
Keyboard, loại nhạc cụ tích hợp công nghệ điện tử hiện đại, tạo nên âm
thanh khác nhau qua các đặc điểm sau:
- nhạc cụ tổng hợp: đàn Keyboard có thể thay thế toàn bộ 1 dàn
nhạc, đặc biệt là nhạc điện tử.
- Đàn Keyboard là thành phần chủ đạo trong các ban nhạc nhẹ, rất
nổi bật từ độc tấu (solo) đến hòa tấu.
- Bộ đệm tự động trong đàn Keyboard gồm các loại tiết tấu tiêu
biểu trên thế giới.
- cổng liên kết với máy tính để soạn nhạc và phối dàn nhạc qua
các phần mềm âm nhạc.
- Âm sắc đa dạng, mô phỏng âm thanh tất cả các loại nhạc cụ trên
thế giới và Việt Nam.
1.2.1. Kỹ thuật nhạc Jazz
Cùng với nhiều bài luyện kỹ thuật (Etude) như phần trên trình bày.
Kỹ thuật nhạc Jazz được nhiều nhạc sĩ, nghệ nổi tiếng trên thế giới
viết theo hệ thống, bài bản khác. Đặc điểm nổi bật nhất là kỹ thuật nhạc
Jazz phát triển từ hợp âm Jazz, đây là phương pháp nhằm gắn liền với lối
tiến hành theo công năng hòa âm. Từ hợp âm 3 trong điệu thức 7 âm,
nhạc Jazz mở rộng thêm các nốt 4, 6, 7, 9 ,11, 13, cơ sở hình thành nên
bài luyện kỹ thuật đặc trưng của nhạc Jazz.
13 nhà hàng, khách sạn. Đây cũng là một trong những đặc điểm nhạc Jazz ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 1.2. Nhạc jazz trên đàn phím điện tử Tại nhiều cơ sở đào tạo âm nhạc chuyên nghiệp như: Cao đẳng Nghệ thuật Hà Nội, HVANQGVN, trường Đại học VHNT Quân đội..., từ lâu nhạc Jazz được đưa vào chương trình đào tạo. Với các chuyên ngành biểu diễn nhạc đàn như: Piano, Guitar, nhạc Jazz trở thành quy trình dạy học bắt buộc. Về ý nghĩa, nhạc Jazz phù hợp với đàn Keyboard, loại nhạc cụ tích hợp công nghệ điện tử hiện đại, tạo nên âm thanh khác nhau qua các đặc điểm sau: - Là nhạc cụ tổng hợp: đàn Keyboard có thể thay thế toàn bộ 1 dàn nhạc, đặc biệt là nhạc điện tử. - Đàn Keyboard là thành phần chủ đạo trong các ban nhạc nhẹ, rất nổi bật từ độc tấu (solo) đến hòa tấu. - Bộ đệm tự động trong đàn Keyboard gồm các loại tiết tấu tiêu biểu trên thế giới. - Có cổng liên kết với máy tính để soạn nhạc và phối dàn nhạc qua các phần mềm âm nhạc. - Âm sắc đa dạng, mô phỏng âm thanh tất cả các loại nhạc cụ trên thế giới và Việt Nam. 1.2.1. Kỹ thuật nhạc Jazz Cùng với nhiều bài luyện kỹ thuật (Etude) như phần trên trình bày. Kỹ thuật nhạc Jazz được nhiều nhạc sĩ, nghệ sĩ nổi tiếng trên thế giới viết theo hệ thống, bài bản khác. Đặc điểm nổi bật nhất là kỹ thuật nhạc Jazz phát triển từ hợp âm Jazz, đây là phương pháp nhằm gắn liền với lối tiến hành theo công năng hòa âm. Từ hợp âm 3 trong điệu thức 7 âm, nhạc Jazz mở rộng thêm các nốt 4, 6, 7, 9 ,11, 13, cơ sở hình thành nên bài luyện kỹ thuật đặc trưng của nhạc Jazz.
14
1.2.1.1. Kỹ thuật chạy gam
Trong nhạc Jazz, gam (scale) được quy định tên gọi từ cách sắp xếp
vị trí các âm liên tiếp trên các bậc. Như vậy, kỹ thuật nhạc Jazz có hai
dạng chủ đạo: gam và bài kỹ thuật. Khi SV học kỹ thuật nhạc Jazz trên
đàn Keyboard sẽ luyện tập ngón tay theo hai dạng này.
Gam: sử dụng điệu thức 7 âm, tiến hành liền bậc có cấu tạo, tên gọi
theo vị trí được xác định làm âm chủ.
Ví dụ 1: tên gọi dãy hàng âm trên các bậc âm thành lập từ nốt đô
- Ionian: nốt 1 làm âm chủ
- Dorian: nốt 2 làm âm chủ
- Phrygian: nốt 3 làm âm chủ
- Lydian: nốt 4 làm âm chủ
- Mixolygian: nốt 5 làm âm chủ
- Aeolian: nốt 6 làm âm chủ
- Locrian: nốt 7 làm âm chủ
14 1.2.1.1. Kỹ thuật chạy gam Trong nhạc Jazz, gam (scale) được quy định tên gọi từ cách sắp xếp vị trí các âm liên tiếp trên các bậc. Như vậy, kỹ thuật nhạc Jazz có hai dạng chủ đạo: gam và bài kỹ thuật. Khi SV học kỹ thuật nhạc Jazz trên đàn Keyboard sẽ luyện tập ngón tay theo hai dạng này. Gam: sử dụng điệu thức 7 âm, tiến hành liền bậc có cấu tạo, tên gọi theo vị trí được xác định làm âm chủ. Ví dụ 1: tên gọi dãy hàng âm trên các bậc âm thành lập từ nốt đô - Ionian: nốt 1 làm âm chủ - Dorian: nốt 2 làm âm chủ - Phrygian: nốt 3 làm âm chủ - Lydian: nốt 4 làm âm chủ - Mixolygian: nốt 5 làm âm chủ - Aeolian: nốt 6 làm âm chủ - Locrian: nốt 7 làm âm chủ
15
Hệ thống gam nhạc Jazz sử dụng 1 nốt làm chủ âm, sau đó tập theo
trình tự theo tên gọi hàng âm, cụ thể nếu lấy nốt đô
1
làm âm chủ. Gam
Dorian được thực hiện:
Ví dụ 2: hàng âm Dorian trên nốt đô
Cứ như vậy, gam trên 1 âm được luyện tập theo tên 7 bậc âm. SV
cần làm quen với hệ thống gam mới, hình thành nên hệ thống hợp âm
trong nhạc Jazz. Ví dụ, trong gam C dur có hợp âm bậc I, IV, V là hợp
âm 3 trưởng, bổ sung thêm nốt 7, 9, 11 thành các hàng âm khác nhau.
Ví dụ 3: hàng âm có các nốt 9, 11
Cùng với 7 hàng âm trên, trong nhạc Jazz, gam blue (có 6 bậc âm)
được coi thành phần cốt lõi. Trên thực tế, gam blue hai dạng
cùng sử dụng và biến đổi ở bậc 3.
Ví dụ 4: gam blue nguyên dạng (6 bậc âm)
Trong gam blue nguyên dạng, khi xây dựng các hợp âm 3, 7 sẽ xuất
hiện: Ebm, Gbm và B. Sự khác biệt rất lớn khi đối chiếu với gam 7 âm
(trưởng, thứ) cùng các hợp âm 3, 7.
Gam blue biến đổi từ 6 âm thành 7 âm, được Leo Alfassy dùng
thuật ngữ: a second version of blue scale [43,tr.53] (tạm dịch: phiên
15 Hệ thống gam nhạc Jazz sử dụng 1 nốt làm chủ âm, sau đó tập theo trình tự theo tên gọi hàng âm, cụ thể nếu lấy nốt đô 1 làm âm chủ. Gam Dorian được thực hiện: Ví dụ 2: hàng âm Dorian trên nốt đô Cứ như vậy, gam trên 1 âm được luyện tập theo tên 7 bậc âm. SV cần làm quen với hệ thống gam mới, hình thành nên hệ thống hợp âm trong nhạc Jazz. Ví dụ, trong gam C dur có hợp âm bậc I, IV, V là hợp âm 3 trưởng, bổ sung thêm nốt 7, 9, 11 thành các hàng âm khác nhau. Ví dụ 3: hàng âm có các nốt 9, 11 Cùng với 7 hàng âm trên, trong nhạc Jazz, gam blue (có 6 bậc âm) là được coi là thành phần cốt lõi. Trên thực tế, gam blue có hai dạng cùng sử dụng và biến đổi ở bậc 3. Ví dụ 4: gam blue nguyên dạng (6 bậc âm) Trong gam blue nguyên dạng, khi xây dựng các hợp âm 3, 7 sẽ xuất hiện: Ebm, Gbm và B. Sự khác biệt rất lớn khi đối chiếu với gam 7 âm (trưởng, thứ) cùng các hợp âm 3, 7. Gam blue biến đổi từ 6 âm thành 7 âm, được Leo Alfassy dùng thuật ngữ: “a second version of blue scale” [43,tr.53] (tạm dịch: phiên
16
bản thứ 2 của gam blue). Trong đó hai âm 3 là một struck simultancously
[43,tr.53] (tạm dịch: cùng một khuôn/như nhau).
Ví dụ 5: gam blue 2
Hai âm 3 (giáng hoàn) hoàn toàn thay thế cho nhau tùy theo
vòng công năng hòa thanh, ý đồ sáng tác trong nhạc Jazz. Như vậy, từ 6
nốt cơ bản đầu tiên, gam blue có thêm bậc âm thứ 2, thành 7 bậc (nốt 3
là nốt di động).
1.2.1.2. Các hợp âm phổ biến trong nhạc Jazz
Từ các hàng âm, xuất hiện các hợp âm tạo sự phong phú, màu sắc
đa dạng trong sử dụng. Trong phần phụ lục (Appendix), cuốn sách Jazz
Hanon, tác giả Leo Alfassy đã thống kê tên hợp âm được sử dụng phổ
biến trong nhạc Jazz với cách giải thích cụ thể (trên nốt đô- C) [43.tr.91]:
Cmajor seventh: CM7, or Cmaj7, C∆
Cmajor with added sixth and ninth: C
6
9
C dominant seventh: C7
C dominant ninth: C9
C dominant flat ninth: C(b9)
C eleventh: C11
C augmented eleventh: C (#11)
C thirteenth: C13
C flat thirteenth: C (b13)
C half- diminished seventh: C
, or Cm7(b5)
C diminished seventh: C
, or Cdim, or Cdim7
C augmented trial: C+, or C+5, or C#5
C dominant seventh with flat fifth: C7 (b5)
16 bản thứ 2 của gam blue). Trong đó hai âm 3 là một struck simultancously [43,tr.53] (tạm dịch: cùng một khuôn/như nhau). Ví dụ 5: gam blue 2 Hai âm 3 (giáng và hoàn) hoàn toàn thay thế cho nhau tùy theo vòng công năng hòa thanh, ý đồ sáng tác trong nhạc Jazz. Như vậy, từ 6 nốt cơ bản đầu tiên, gam blue có thêm bậc âm thứ 2, thành 7 bậc (nốt 3 là nốt di động). 1.2.1.2. Các hợp âm phổ biến trong nhạc Jazz Từ các hàng âm, xuất hiện các hợp âm tạo sự phong phú, màu sắc đa dạng trong sử dụng. Trong phần phụ lục (Appendix), cuốn sách Jazz Hanon, tác giả Leo Alfassy đã thống kê tên hợp âm được sử dụng phổ biến trong nhạc Jazz với cách giải thích cụ thể (trên nốt đô- C) [43.tr.91]: Cmajor seventh: CM7, or Cmaj7, C∆ Cmajor with added sixth and ninth: C 6 9 C dominant seventh: C7 C dominant ninth: C9 C dominant flat ninth: C(b9) C eleventh: C11 C augmented eleventh: C (#11) C thirteenth: C13 C flat thirteenth: C (b13) C half- diminished seventh: C ᴓ , or Cm7(b5) C diminished seventh: C ᴏ , or Cdim, or Cdim7 C augmented trial: C+, or C+5, or C#5 C dominant seventh with flat fifth: C7 (b5)