Tóm tắt Luận án tiến sĩ Y học: Nghiên cứu tác nhân, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị viêm phổi ở trẻ em nhiễm HIV

2,202
488
165
91
Hưng CS (2012) nghiên cứu trên 38 bệnh nhân ung thư phổi được đối
chiếu kết quả mô bệnh học trước và sau phẫu thuật thấy lứa tuổi thường gặp
41-80, ít gặp bệnh nhân dưới 40 tuổi [96].
Trong nghiên cứu của chúng tôi nam nhiều hơn nữ, nhưng sự chênh
lệch giữa nam và n không nhiều, nam chiếm 56,7%, n là 43,3%. Trong
nghiên cứu của Choi CS (2012) nghiên cứu trên 161 bnh nhân tổn
thương dạng u ở phổi được STXTN dưới hướng dẫn của CLVT thấy tỉ lệ nam
nữ cũng gần tương tự như nhau, tỷ lệ bệnh nhân nam là 77/161 (47,8%) và n
84/161 (52,2%) tuổi trung bình là 61 tuổi [97]. trong nghiên cứu của Ngô
Quý Châu và CS (2006) trên 265 trường hợp đám mờ ở phổi STCXTN dưới
hướng dẫn của chụp CLVT thấy tỉ lệ nam là 66%, nữ là 34% [94]. Tuy nhiên
trong nghiên cứu của Nguyễn Đình Hướng và CS (2011) trên 280 bệnh nhân
u phổi được STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy tỉ lệ nam/nữ là
195/85 (2,29) [93].
Trong nghiên cứu này nhóm ung thư có t lệ nam hơn nữ cũng không
nhiều, nam 38/69 (55,1%) nlà 31/69 (44,9%). Kết quả này cũng tương tự
như kết quả nghiên cứu tổng hợp của American College of Surgeons trên
11668 bệnh nhân ung thư phổi được m thấy tỉ lệ nam 55%, n45%. Tuổi
trung bình khoảng 67 tuổi và 46,8% có độ tuổi trên 70 [98]. Tuy nhiên theo
nghiên cứu của Đồng Đức Hưng CS (2012) nghiên cứu đối chiếu kết quả
bệnh trước và sau phẫu thuật bằng phương pháp sinh thiết xuyên thành
ngực trên 38 bệnh nhân ung thư phổi thấy tỉ lệ nam/nữ là 4,4 [96].
4.1.2. Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ
Các tổn thương dạng u ở phổi luôn là vấn đề được các nhà lâm sàng
quan tâm vì ở giai đoạn sớm các triệu chứng lâm sàng thường nghèo nàn thậm
chí là không có triệu chứng. Khi đã có các triu chứng thường các tổn thương
đã lớn gây chèn ép hay với các bệnh ác tính đã có di căn hay có các biểu biện
91 Hưng và CS (2012) nghiên cứu trên 38 bệnh nhân ung thư phổi được đối chiếu kết quả mô bệnh học trước và sau phẫu thuật thấy lứa tuổi thường gặp 41-80, ít gặp bệnh nhân dưới 40 tuổi [96]. Trong nghiên cứu của chúng tôi nam nhiều hơn nữ, nhưng sự chênh lệch giữa nam và nữ không nhiều, nam chiếm 56,7%, nữ là 43,3%. Trong nghiên cứu của Choi và CS (2012) nghiên cứu trên 161 bệnh nhân có tổn thương dạng u ở phổi được STXTN dưới hướng dẫn của CLVT thấy tỉ lệ nam nữ cũng gần tương tự như nhau, tỷ lệ bệnh nhân nam là 77/161 (47,8%) và nữ là 84/161 (52,2%) tuổi trung bình là 61 tuổi [97]. trong nghiên cứu của Ngô Quý Châu và CS (2006) trên 265 trường hợp đám mờ ở phổi STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy tỉ lệ nam là 66%, nữ là 34% [94]. Tuy nhiên trong nghiên cứu của Nguyễn Đình Hướng và CS (2011) trên 280 bệnh nhân u phổi được STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy tỉ lệ nam/nữ là 195/85 (2,29) [93]. Trong nghiên cứu này nhóm ung thư có tỉ lệ nam hơn nữ cũng không nhiều, nam 38/69 (55,1%) nữ là 31/69 (44,9%). Kết quả này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu tổng hợp của American College of Surgeons trên 11668 bệnh nhân ung thư phổi được mổ thấy tỉ lệ nam 55%, nữ 45%. Tuổi trung bình khoảng 67 tuổi và 46,8% có độ tuổi trên 70 [98]. Tuy nhiên theo nghiên cứu của Đồng Đức Hưng và CS (2012) nghiên cứu đối chiếu kết quả mô bệnh trước và sau phẫu thuật bằng phương pháp sinh thiết xuyên thành ngực trên 38 bệnh nhân ung thư phổi thấy tỉ lệ nam/nữ là 4,4 [96]. 4.1.2. Đặc điểm lâm sàng và các yếu tố nguy cơ Các tổn thương dạng u ở phổi luôn là vấn đề được các nhà lâm sàng quan tâm vì ở giai đoạn sớm các triệu chứng lâm sàng thường nghèo nàn thậm chí là không có triệu chứng. Khi đã có các triệu chứng thường các tổn thương đã lớn gây chèn ép hay với các bệnh ác tính đã có di căn hay có các biểu biện
92
của hội chứng cận ung thư. Trong nghiên cứu này các triệu chứng hay gặp
nhất là đau ngực, ho và ho máu. Trong đó đau ngực chiếm tỉ lệ cao nhất gặp ở
47,1% các trường hợp, ho là 39,4% và ho máu gặp ở 24%. Các triệu chứng
toàn thân hay gặp trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu là gầy sút cân 18/104
(17,3%), sốt 13/104 (12,5% ), mệt (6,7%) đau khớp 4/104 (3,8%), 4 bệnh
nhân đau khớp đều có chẩn đoán là ung thư nhưng khám lâm sàng không rõ
hội chứng Pierre Marie. Đặc biệt có 14 bệnh nhân (13,5%) phát hiện tình c
khi đi khám sức khỏe. Qua đó cho ta người dân đã ý thức đi khám sức
khỏe không chờ khi có biểu hiện triệu chứng mới đi khám bệnh. Điều này rất
quan trọng trong phát hiện và điều trị sớm ung thư phổi. Một căn bệnh phát
triển âm thầm, nhưng tiến tiển nhanh, khi có triệu chứng đã ở giai đoạn muộn.
Khám thực thể hầu hết các bệnh nhân không thấy gì đặc biệt, có 3 bệnh
nhân có hạch thượng đòn nhưng kết quả chọc hạch và sinh thiết hạch là tổn
thương viêm. Có 4/104 (3,8%) bệnh nhân có ran nổ ở phổi, 1/104 bnh nhân
có hội chứng 3 giảm ở phổi. Đâytrường hợp bệnh nhân có tổn thương dạng
u phổi phải và có tràn dịch màng phổi do lao bên trái nên trên lâm sàng
hội chứng 3 giảm. Trong nhóm bệnh nhân ung thư đau ngực gặp 49,3%,
trong nhóm không ung thư là 42,9%. Ho trong nhóm ung thư là 40,6%, trong
nhóm không ung thư là 39,4%. Tuy nhiên skhác biệt về triệu chứng giữa
các nhóm không ý nghĩa thống kê. Theo nghiên cứu tổng hợp của Alex
Little CS (2005) nghiên cứu trên 11.668 bệnh nhân ung thư phổi được
phẫu thuật thấy có nhiều bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng thời điểm đi
khám bệnh. Ho gặp 53,8%, khó thgặp 45,1%, gầy sút cân gặp
23,9% bệnh nhân [98]. Theo nghiên cứu của Ngô QChâu và CS (2006)
trên 265 trường hợp STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy triệu
chứng lâm sàng gặp nhiều nhất là đau ngực 59,2% (157/265), tiếp đến là ho
khạc đờm 54%, khó thở 30,9%, sốt 29,4%, gầy sút 17%, ho máu 13,4% [94].
92 của hội chứng cận ung thư. Trong nghiên cứu này các triệu chứng hay gặp nhất là đau ngực, ho và ho máu. Trong đó đau ngực chiếm tỉ lệ cao nhất gặp ở 47,1% các trường hợp, ho là 39,4% và ho máu gặp ở 24%. Các triệu chứng toàn thân hay gặp trong nhóm bệnh nhân nghiên cứu là gầy sút cân 18/104 (17,3%), sốt 13/104 (12,5% ), mệt (6,7%) đau khớp 4/104 (3,8%), 4 bệnh nhân đau khớp đều có chẩn đoán là ung thư nhưng khám lâm sàng không rõ hội chứng Pierre Marie. Đặc biệt có 14 bệnh nhân (13,5%) phát hiện tình cờ khi đi khám sức khỏe. Qua đó cho ta người dân đã có ý thức đi khám sức khỏe không chờ khi có biểu hiện triệu chứng mới đi khám bệnh. Điều này rất quan trọng trong phát hiện và điều trị sớm ung thư phổi. Một căn bệnh phát triển âm thầm, nhưng tiến tiển nhanh, khi có triệu chứng đã ở giai đoạn muộn. Khám thực thể hầu hết các bệnh nhân không thấy gì đặc biệt, có 3 bệnh nhân có hạch thượng đòn nhưng kết quả chọc hạch và sinh thiết hạch là tổn thương viêm. Có 4/104 (3,8%) bệnh nhân có ran nổ ở phổi, 1/104 bệnh nhân có hội chứng 3 giảm ở phổi. Đây là trường hợp bệnh nhân có tổn thương dạng u ở phổi phải và có tràn dịch màng phổi do lao bên trái nên trên lâm sàng có hội chứng 3 giảm. Trong nhóm bệnh nhân ung thư đau ngực gặp ở 49,3%, trong nhóm không ung thư là 42,9%. Ho trong nhóm ung thư là 40,6%, trong nhóm không ung thư là 39,4%. Tuy nhiên sự khác biệt về triệu chứng giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê. Theo nghiên cứu tổng hợp của Alex Little và CS (2005) nghiên cứu trên 11.668 bệnh nhân ung thư phổi được phẫu thuật thấy có nhiều bệnh nhân có triệu chứng lâm sàng ở thời điểm đi khám bệnh. Ho gặp ở 53,8%, khó thở gặp ở 45,1%, và gầy sút cân gặp ở 23,9% bệnh nhân [98]. Theo nghiên cứu của Ngô Quý Châu và CS (2006) trên 265 trường hợp STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy triệu chứng lâm sàng gặp nhiều nhất là đau ngực 59,2% (157/265), tiếp đến là ho khạc đờm 54%, khó thở 30,9%, sốt 29,4%, gầy sút 17%, ho máu 13,4% [94].
93
Theo nghiên cứu của Chung Giang Đông và CS (2008) nghiên cứu trên 114
bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát được phẫu thuật thấy triệu chứng ho gặp
100% bệnh nhân, đau ngực 95,7%, ho máu 80,8%, sút cân 72,3%, sốt 12,8%
[95]. Các triệu chứng lâm sàng trong nghiên cứu của chúng tôi ít hơn các
nghiên cứu khác vì cách chọn mẫu nghiên cứu chỉ lấy các bệnh nhân còn ch
định phẫu thuật, khối u còn nhnên các triệu chứng lâm sàng không nhiều.
Trong nghiên cứu chúng tôi thấy trong nhóm ung thư, nhóm không ung
thư và nhóm nghiên cứu chung, hút thuốc và không hút thuc tương tự như
nhau. Nhưng xét trong số bệnh nhân hút thuốc tỉ lệ ung thư 63%, không ung
thư là 37%. Tuy vậy sự khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê
với p=0,45. Trong các bệnh nhân hút thuốc trường hợp hút ngắn nhất là 10
năm, lâu nhất 60 năm, trung bình 30 ± 11 năm. Trong nhóm ung thư
trường hợp hút ít nhất là 1,75 bao-năm nhiều nhất là 45 bao-năm, trung
bình là 32,6 ± 12 bao-năm. 1 bệnh nhân tiếp xúc với bụi gỗ, 1 bệnh nhân tiếp
xúc với bụi than và 1 bệnh nhân tiếp xúc với xăng. Kết quả này khác nhiều so
với nghiên cứu của Little và CS (2005) nghiên cứu trên 11.668 trường hợp
nốt phổi được m thy ch 10,4% bệnh nhân không bao giờ hút thuốc
[98]. Kết quả này khác nhiều so với nhiều kết quả nghiên cứu dịch tễ học, có
thể do mẫu nghiên cứu còn nhỏ nên chưa đại diện.
4.1.3. Đặc điểm các tổn thương trên phim chụp CLVT
4.1.3.1. Đặc điểm kích thước, hình dạng và bờ tổn thương
Trong các bệnh nhân nghiên cứu chủ yếu gặp các u kích thước
≤30mm 74/104 (71,2%), trong đó các bệnh nhân u kích thước
20mm gặp nhiều nhất 39/104 (37,5%). U có kích nhnhất là 9mm x 9mm, u
kích thước lớn nhất là 70 x 50mm. Trong nhóm ung thư, khối u có kích
thước trên 20mm có tỉ lệ là 46/69 (66,7%). Trong nhóm kích thước 50-70mm,
tỉ lệ ung thư chiếm phần lớn 7/8 (87,5%). Qua đó cho thấy các khối u có kích
93 Theo nghiên cứu của Chung Giang Đông và CS (2008) nghiên cứu trên 114 bệnh nhân ung thư phổi nguyên phát được phẫu thuật thấy triệu chứng ho gặp 100% bệnh nhân, đau ngực 95,7%, ho máu 80,8%, sút cân 72,3%, sốt 12,8% [95]. Các triệu chứng lâm sàng trong nghiên cứu của chúng tôi ít hơn các nghiên cứu khác vì cách chọn mẫu nghiên cứu chỉ lấy các bệnh nhân còn chỉ định phẫu thuật, khối u còn nhỏ nên các triệu chứng lâm sàng không nhiều. Trong nghiên cứu chúng tôi thấy trong nhóm ung thư, nhóm không ung thư và nhóm nghiên cứu chung, hút thuốc và không hút thuốc tương tự như nhau. Nhưng xét trong số bệnh nhân hút thuốc tỉ lệ ung thư 63%, không ung thư là 37%. Tuy vậy sự khác biệt giữa các nhóm không có ý nghĩa thống kê với p=0,45. Trong các bệnh nhân hút thuốc trường hợp hút ngắn nhất là 10 năm, lâu nhất là 60 năm, trung bình là 30 ± 11 năm. Trong nhóm ung thư trường hợp hút ít nhất là 1,75 bao-năm và nhiều nhất là 45 bao-năm, trung bình là 32,6 ± 12 bao-năm. 1 bệnh nhân tiếp xúc với bụi gỗ, 1 bệnh nhân tiếp xúc với bụi than và 1 bệnh nhân tiếp xúc với xăng. Kết quả này khác nhiều so với nghiên cứu của Little và CS (2005) nghiên cứu trên 11.668 trường hợp nốt ở phổi được mổ thấy chỉ có 10,4% bệnh nhân không bao giờ hút thuốc [98]. Kết quả này khác nhiều so với nhiều kết quả nghiên cứu dịch tễ học, có thể do mẫu nghiên cứu còn nhỏ nên chưa đại diện. 4.1.3. Đặc điểm các tổn thương trên phim chụp CLVT 4.1.3.1. Đặc điểm kích thước, hình dạng và bờ tổn thương Trong các bệnh nhân nghiên cứu chủ yếu gặp các u có kích thước ≤30mm là 74/104 (71,2%), trong đó các bệnh nhân có u có kích thước ≤ 20mm gặp nhiều nhất 39/104 (37,5%). U có kích nhỏ nhất là 9mm x 9mm, u có kích thước lớn nhất là 70 x 50mm. Trong nhóm ung thư, khối u có kích thước trên 20mm có tỉ lệ là 46/69 (66,7%). Trong nhóm kích thước 50-70mm, tỉ lệ ung thư chiếm phần lớn 7/8 (87,5%). Qua đó cho thấy các khối u có kích
94
thước lớn có nguy cơ ung thư cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng khá
tương đồng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Li CS (1996)
nghiên cứu STXT dưới hướng dẫn của CLVT trên 97 bệnh nhân, các tổn
thương kích thước từ 4-82mm [99]. Theo Yamagami và CS (2002) theo dõi
134 trường hợp STXTN thấy kích thước tổn thương của các bệnh nhân nghiên
cứu cũng trong khoảng từ 3 – 45mm kích thước trung bình là 19,3 7,8mm
[100]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Dung và CS (2009) nghiên cứu trên
180 bệnh nhân u phổi được STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT
kích thước nhỏ nhất là 8 - 10mm, kích thước trung bình 41 - 45mm [101].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Hướng và CS (2011) trên 280 trường hợp
u phổi được STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy u có kích thước
trên 30mm có tlệ ác tính 89,9% [93].
Nhìn chung các tn thương kích thước nhỏ thường là lành tính. Khoảng
80% các tổn thương lành tính có kích thước dưới 20 mm [102], tuy nhiên ch
kích thước nhỏ không loại trừ được tổn thương ác tính vì có khoảng 15% các
tổn thương ác tính có kích thước dưới 1cm và 42% các tổn thương ác tính có
kích thước dưới 20mm [103]. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của chúng tôi lại
thấy trong nhóm bệnh nhân có u kích thước từ 20mm trở xuống tổn thương ác
tính cũng cao tới 41% (16/39), tổn thương ác tính trong nhóm u kích thước
trên 20mm 70,8% (46/65), s khác biệt trong 2 nhóm không ý nghĩa
thống kê (p=0,26). Qua đó cho thấy chẩn đoán xác định được ở những trường
hợp tổn thương còn rất nhỏ rất quan trọng vì chẩn đoán sớm mới có hiệu quả
điều trị cao, nhất là đối với ung thư, chẩn đoán khi u còn nhỏ giúp tăng khả
năng phẫu thuật và thời gian sống thêm cho bệnh nhân.
Bờ của u có thể phân chia thành bờ nhẵn, không nhẵn, bờ có múi và b
tua gai. Mặc dù các tổn thương lành tính thường bờ nhẵn, nét nhưng đó
không phải là tiêu chuẩn chẩn đoán vì 21% các tổn thương ác tính cũng có b
94 thước lớn có nguy cơ ung thư cao. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của các tác giả khác. Li và CS (1996) nghiên cứu STXT dưới hướng dẫn của CLVT trên 97 bệnh nhân, các tổn thương kích thước từ 4-82mm [99]. Theo Yamagami và CS (2002) theo dõi ở 134 trường hợp STXTN thấy kích thước tổn thương của các bệnh nhân nghiên cứu cũng trong khoảng từ 3 – 45mm kích thước trung bình là 19,3  7,8mm [100]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Dung và CS (2009) nghiên cứu trên 180 bệnh nhân u phổi được STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT có kích thước nhỏ nhất là 8 - 10mm, kích thước trung bình 41 - 45mm [101]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Hướng và CS (2011) trên 280 trường hợp u phổi được STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy u có kích thước trên 30mm có tỉ lệ ác tính 89,9% [93]. Nhìn chung các tổn thương kích thước nhỏ thường là lành tính. Khoảng 80% các tổn thương lành tính có kích thước dưới 20 mm [102], tuy nhiên chỉ kích thước nhỏ không loại trừ được tổn thương ác tính vì có khoảng 15% các tổn thương ác tính có kích thước dưới 1cm và 42% các tổn thương ác tính có kích thước dưới 20mm [103]. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu của chúng tôi lại thấy trong nhóm bệnh nhân có u kích thước từ 20mm trở xuống tổn thương ác tính cũng cao tới 41% (16/39), tổn thương ác tính trong nhóm u kích thước trên 20mm là 70,8% (46/65), sự khác biệt trong 2 nhóm không có ý nghĩa thống kê (p=0,26). Qua đó cho thấy chẩn đoán xác định được ở những trường hợp tổn thương còn rất nhỏ rất quan trọng vì chẩn đoán sớm mới có hiệu quả điều trị cao, nhất là đối với ung thư, chẩn đoán khi u còn nhỏ giúp tăng khả năng phẫu thuật và thời gian sống thêm cho bệnh nhân. Bờ của u có thể phân chia thành bờ nhẵn, không nhẵn, bờ có múi và bờ tua gai. Mặc dù các tổn thương lành tính thường có bờ nhẵn, nét nhưng đó không phải là tiêu chuẩn chẩn đoán vì 21% các tổn thương ác tính cũng có bờ
95
nhẵn, nét [104]. Tổn thương bờ có múi thường hay gặp ở u ác tính, tuy nhiên
25% các u lành tính bmúi. Một u bờ không nhẵn, có tua gai, mạch
máu xung quanh xoắn vặn thường là tổn thương ác tính [102].
Trong nghiên cứu này u hình dạng tròn 63/104 (60,6%) gp nhiều
hơn các u không tròn 41/104 (39,4%). Điều này có thgiải vì các khối u
khi còn nhỏ dù lành tính hay ác tính thường hay có hình dạng tròn, chkhi u
phát triển to lên mới tạo thành các hình dạng khác nhau. Các tn thương có b
không nhẵn gặp nhiều nhất 38/104 (36,5%), chỉ gặp 1 trường hợp bờ có múi.
Các loại u lành tính ác tính đều gặp các dạng bờ tổn thương như nhẵn,
không nhẵn, bờ tua gai. Bờ múi 1 trường hợp bệnh nhân ung thư.
Trong các khối u lành tính, loại u bờ nhẵn gồm: u thần kinh (4/4), u
hamartoma (2/2), u nguyên bào sụn (1/1), nang xuất huyết (3/4). Các khối u
lành tính nhưng bờ khối u lại không nhẵn bao gồm: u xơ (8/9), u nấm (4/5).
Theo nghiên cứu của Takashima CS nghiên cứu trên 80 trường hợp nốt
đơn độc ở phổi phát hiện được qua sàng lọc các đối tượng có yếu tố nguy cơ
bằng chụp CLVT liều thấp thấy t lệ bờ múi nhóm lành tính 41%,
nhóm ác tính là 50%, b tua gai ở nhóm lành tính 34%, nhóm ác tính
22%, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ bờ không nhẵn
nhóm u lành tính 48%, nhóm ác tính 25%, s khác biệt có ý nghĩa
thống kê [105]. Qua đó ta thấy không thể chủ quan trước một tổn thương
kích thước nhỏ, bờ nhẵn, cũng như một tổn thương có bờ tua gai chưa chắc đã
là tổn thương ác tính.
Vtrí tổn thương hay gặp nhất là thutrên 2 bên, thùy trên phi gặp
35/104 (33,7%), thùy trên trái gặp 28/104 (26,9%), sau đó đến thùy dưới 2
bên. Thùy giữa ít gặp nhất. thể do các bệnh nhân được lựa chọn vào nhóm
nghiên cứu là những bệnh nhân có tổn thương ở phổi NSPQ không xác
định được chẩn đoán. Khi NSPQ khó tiếp cận những tổn thương ở đỉnh phổi.
95 nhẵn, nét [104]. Tổn thương bờ có múi thường hay gặp ở u ác tính, tuy nhiên 25% các u lành tính có bờ có múi. Một u bờ không nhẵn, có tua gai, mạch máu xung quanh xoắn vặn thường là tổn thương ác tính [102]. Trong nghiên cứu này u có hình dạng tròn 63/104 (60,6%) gặp nhiều hơn các u không tròn 41/104 (39,4%). Điều này có thể lý giải vì các khối u khi còn nhỏ dù lành tính hay ác tính thường hay có hình dạng tròn, chỉ khi u phát triển to lên mới tạo thành các hình dạng khác nhau. Các tổn thương có bờ không nhẵn gặp nhiều nhất 38/104 (36,5%), chỉ gặp 1 trường hợp bờ có múi. Các loại u lành tính và ác tính đều gặp các dạng bờ tổn thương như nhẵn, không nhẵn, bờ tua gai. Bờ có múi có 1 trường hợp là bệnh nhân ung thư. Trong các khối u lành tính, loại u có bờ nhẵn gồm: u thần kinh (4/4), u hamartoma (2/2), u nguyên bào sụn (1/1), nang xuất huyết (3/4). Các khối u lành tính nhưng bờ khối u lại không nhẵn bao gồm: u xơ (8/9), u nấm (4/5). Theo nghiên cứu của Takashima và CS nghiên cứu trên 80 trường hợp nốt đơn độc ở phổi phát hiện được qua sàng lọc các đối tượng có yếu tố nguy cơ bằng chụp CLVT liều thấp thấy tỉ lệ bờ có múi ở nhóm lành tính là 41%, nhóm ác tính là 50%, bờ tua gai ở nhóm lành tính là 34%, nhóm ác tính là 22%, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ bờ không nhẵn ở nhóm u lành tính là 48%, nhóm ác tính là 25%, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê [105]. Qua đó ta thấy không thể chủ quan trước một tổn thương có kích thước nhỏ, bờ nhẵn, cũng như một tổn thương có bờ tua gai chưa chắc đã là tổn thương ác tính. Vị trí tổn thương hay gặp nhất là thuỳ trên 2 bên, thùy trên phải gặp 35/104 (33,7%), thùy trên trái gặp 28/104 (26,9%), sau đó đến thùy dưới 2 bên. Thùy giữa ít gặp nhất. Có thể do các bệnh nhân được lựa chọn vào nhóm nghiên cứu là những bệnh nhân có tổn thương ở phổi mà NSPQ không xác định được chẩn đoán. Khi NSPQ khó tiếp cận những tổn thương ở đỉnh phổi.
96
Ở vị trí này ống soi khó đưa lên được. Ngoài ra NSPQ khó tiếp cận những tổn
thương ngoại vi do đường kính ống soi không khả năng đi vào những
nhánh phế quản nhỏ. K thuật STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT
giúp bổ xung chẩn đoán cho các trường hợp u phổi ngoại vi khó chẩn đoán
được bằng NSPQ. Do đó trong nghiên cứu này ta thấy phân bố tổn thương
đỉnh phổi 2 bên nhiều nhất. Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự như nghiên
cứu của Choi và CS (2012) nghiên cứu 173 lượt STXTN dưới hướng dẫn của
CLVT trên 161 trường hợp thấy tổn thương ở đỉnh 2 bên và thùy giữa chiếm
tỉ lệ cao hơn thùy dưới 106/173 (61,3%) [97]. Nghiên cứu của Hiraki và CS
(2009) trên 1000 bệnh nhân STXTN dưới hướng dẫn của CLVT huỳnh quang
thấy tổn thương thùy đỉnh và thùy giữa là 60,3% [106]. Theo nghiên cứu
của Nguyễn Đình Hướng và CS (2011) nghiên cu trên 280 trường hợp
STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy tỉ lệ thùy trên cao nhất
56,79%, thùy giữa thấp nhất 7,50%, tỷ lệ gặp khối u thùy trên trái là cao nhất
32,15% [93].
Trong nhóm ung thư phổi vị trí tổn thương hay gặp nhất cũng là thùy
trên hai bên với thùy trên phải là 24/69 (34,8%) thùy trên trái 17/69
(24,6%). Các u tròn chiếm tỉ lệ cao hơn các u không tròn. U tròn chiếm 43/69
(62,3%). Trong các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi, bờ các tổn
thương chủ yếu là không nhẵn hoặc bờ tua gai hoặc bờ có múi chiếm 53/69
(76,8%). Theo Lê Tiến Dũng (2000), trên phim chụp CLVT ngực hầu hết các
trường hợp ung thư phổi có bờ ngoài nham nhở hay có múi nhiều cung (96%).
Đa số các u thường bờ ngoài nham nh(67%) và gặp ở tất cả các típ mô
bệnh học. Hu hết các u có bờ ngoài có múi nhiều cung (94%) trong đó tế bào
nhỏ 100%, dạng tuyến 96%, dạng biểu bì 93%, tế bào lớn 86% [107]. Theo
Bùi Xuân Tám bcủa u rõ nhẵn 12%, chủ yếu gặp ở típ dạng tuyến; bờ không
rõ nhẵn 88%, có múi nhiều cung 88%, có tua gai 69,9%, khe nứt 49,6%. Các
96 Ở vị trí này ống soi khó đưa lên được. Ngoài ra NSPQ khó tiếp cận những tổn thương ở ngoại vi do đường kính ống soi không có khả năng đi vào những nhánh phế quản nhỏ. Kỹ thuật STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT giúp bổ xung chẩn đoán cho các trường hợp u phổi ngoại vi khó chẩn đoán được bằng NSPQ. Do đó trong nghiên cứu này ta thấy phân bố tổn thương ở đỉnh phổi 2 bên nhiều nhất. Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự như nghiên cứu của Choi và CS (2012) nghiên cứu 173 lượt STXTN dưới hướng dẫn của CLVT trên 161 trường hợp thấy tổn thương ở đỉnh 2 bên và thùy giữa chiếm tỉ lệ cao hơn thùy dưới 106/173 (61,3%) [97]. Nghiên cứu của Hiraki và CS (2009) trên 1000 bệnh nhân STXTN dưới hướng dẫn của CLVT huỳnh quang thấy tổn thương ở thùy đỉnh và thùy giữa là 60,3% [106]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Hướng và CS (2011) nghiên cứu trên 280 trường hợp STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT thấy tỉ lệ thùy trên là cao nhất 56,79%, thùy giữa thấp nhất 7,50%, tỷ lệ gặp khối u thùy trên trái là cao nhất 32,15% [93]. Trong nhóm ung thư phổi vị trí tổn thương hay gặp nhất cũng là thùy trên hai bên với thùy trên phải là 24/69 (34,8%) và thùy trên trái là 17/69 (24,6%). Các u tròn chiếm tỉ lệ cao hơn các u không tròn. U tròn chiếm 43/69 (62,3%). Trong các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi, bờ các tổn thương chủ yếu là không nhẵn hoặc bờ tua gai hoặc bờ có múi chiếm 53/69 (76,8%). Theo Lê Tiến Dũng (2000), trên phim chụp CLVT ngực hầu hết các trường hợp ung thư phổi có bờ ngoài nham nhở hay có múi nhiều cung (96%). Đa số các u thường có bờ ngoài nham nhở (67%) và gặp ở tất cả các típ mô bệnh học. Hầu hết các u có bờ ngoài có múi nhiều cung (94%) trong đó tế bào nhỏ 100%, dạng tuyến 96%, dạng biểu bì 93%, tế bào lớn 86% [107]. Theo Bùi Xuân Tám bờ của u rõ nhẵn 12%, chủ yếu gặp ở típ dạng tuyến; bờ không rõ nhẵn 88%, có múi nhiều cung 88%, có tua gai 69,9%, khe nứt 49,6%. Các
97
đặc tính bờ có múi, tua gai, khe nứt gặp ở tất cả các típ mô bệnh [108]. Theo
kết quả nghiên cứu của Little và CS (2005) nghiên cứu tổng hợp trên 40.090
bệnh nhân ung thư phổi típ tế bào không nhđược phẫu thuật thấy u nguyên
phát ở thùy trên là 59,3%, ở thùy dưới là 29,3% ở thùy giữa là 4,6% [98]
4.1.4. Một số xét nghiệm khác
Tất cả các bệnh nhân nghiên cu được lựa chọn đi mổ do đó không có
trường hợp nàorối loạn về đông máu, thiếu máu, rối loạn chức năng gan
thận nặng. Hạ natri máu là triệu chứng cận ung thư thường gặp ở những bệnh
nhân ung thư. Trên 90% số trường hợp hạ natri u xảy ra ở những bệnh
nhân ung thư phổi tế bào nhỏ. Khoảng 10 - 15% các bệnh nhân ung thư phổi
tế bào nhỏ và 1% sbệnh nhân ung thư phổi tế bào lớn có biểu hiện hạ natri
máu. Tăng calci huyết thường gặp những bệnh nhân ung thư phổi tế bào
vy, ít gặp ở ung thư phổi biểu mô tuyến và hiếm gặp trong ung thư phổi típ
tế bào nh[109]. Trong kết quả nghiên cứu chúng tôi không thấy bệnh nhân
nào Natri u dưới 130mmol/L. 3 bệnh nhân canci máu trên
2,55mmol/L bao gồm 1 bệnh nhân u nấm (canxi máu 2,56mmol/L), 2
trường hợp là ung thư biểu tuyến (canxi u là 3,24mmol/L
2,55mmol/L). Trường hợp này khác với y n, nhưng vì s lượng nhỏ nên
không kết luận được. 5 trường hợp có tăng tiểu cầu trên 400G/L, trong đó
1 bệnh nhân có chẩn đoán sau mổ là ung thư (Số lượng tiểu cầu: 499G/L) và 4
trường hợp có chẩn đoán sau mổ không phải ung thư trong đó 2 trường hợp
được chẩn đoán u xơ có số lượng tiểu cầu là 462G/L và 789G/L, 2 trường hợp
còn lại được chẩn đoán áp xe phổi có số lượng tiểu cầu 405 G/L và 449G/L.
Trong kết quả đo chức năng thông khí không có bệnh nhân nào có rối
loạn thông khí tắc nghẽn mức độ nặng, có 5 bệnh nhân có rối loạn thông khí
tắc nghẽn mức độ nhẹ và vừa. Do các bệnh nhân nghiên cứu đều được sàng
97 đặc tính bờ có múi, tua gai, khe nứt gặp ở tất cả các típ mô bệnh [108]. Theo kết quả nghiên cứu của Little và CS (2005) nghiên cứu tổng hợp trên 40.090 bệnh nhân ung thư phổi típ tế bào không nhỏ được phẫu thuật thấy u nguyên phát ở thùy trên là 59,3%, ở thùy dưới là 29,3% ở thùy giữa là 4,6% [98] 4.1.4. Một số xét nghiệm khác Tất cả các bệnh nhân nghiên cứu được lựa chọn đi mổ do đó không có trường hợp nào có rối loạn về đông máu, thiếu máu, rối loạn chức năng gan thận nặng. Hạ natri máu là triệu chứng cận ung thư thường gặp ở những bệnh nhân ung thư. Trên 90% số trường hợp hạ natri máu xảy ra ở những bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ. Khoảng 10 - 15% các bệnh nhân ung thư phổi tế bào nhỏ và 1% số bệnh nhân ung thư phổi tế bào lớn có biểu hiện hạ natri máu. Tăng calci huyết thường gặp ở những bệnh nhân ung thư phổi tế bào vẩy, ít gặp ở ung thư phổi biểu mô tuyến và hiếm gặp trong ung thư phổi típ tế bào nhỏ [109]. Trong kết quả nghiên cứu chúng tôi không thấy bệnh nhân nào có Natri máu dưới 130mmol/L. 3 bệnh nhân có canci máu trên 2,55mmol/L bao gồm 1 bệnh nhân u nấm (canxi máu 2,56mmol/L), và 2 trường hợp là ung thư biểu mô tuyến (canxi máu là 3,24mmol/L và 2,55mmol/L). Trường hợp này khác với y văn, nhưng vì số lượng nhỏ nên không kết luận được. Có 5 trường hợp có tăng tiểu cầu trên 400G/L, trong đó 1 bệnh nhân có chẩn đoán sau mổ là ung thư (Số lượng tiểu cầu: 499G/L) và 4 trường hợp có chẩn đoán sau mổ không phải ung thư trong đó 2 trường hợp được chẩn đoán u xơ có số lượng tiểu cầu là 462G/L và 789G/L, 2 trường hợp còn lại được chẩn đoán áp xe phổi có số lượng tiểu cầu 405 G/L và 449G/L. Trong kết quả đo chức năng thông khí không có bệnh nhân nào có rối loạn thông khí tắc nghẽn mức độ nặng, có 5 bệnh nhân có rối loạn thông khí tắc nghẽn mức độ nhẹ và vừa. Do các bệnh nhân nghiên cứu đều được sàng
98
lọc có thể phâu thuật được do đó các bệnh nhân nghiên cứu đều có chức năng
thông khí tương đối bình thường.
Trong 104 bệnh nhân nghiên cu có 54/104 (51,9%) bệnh nhân kết quả
NSPQ bình thường, trong nhóm ung thư là 38/69 (55,1%), trong nhóm không
ung thư là 16/35 (45,7%), các biểu hiện không bình thường trong nội soi PQ
là phù nniêm mạc, chít hẹp lòng phế qun, mảng sắc tố đen trong lòng phế
quản,… Nhưng kết quả xét nghiệm giải phẫu bệnh, vi sinh thu được qua
NSPQ đều không chẩn đoán đặc hiệu, chính vậy mà các bệnh nhân
nghiên cứu chỉ định STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT để chẩn
đoán bản chất khối u. Hầu hết các bệnh nhân nghiên cứu tổn thương
ngoại vi nên tiếp cận qua NSPQ nhiều khi khó khăn không với tới được tổn
thương.
4.1.5. Kết quả phẫu thuật
Các bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi trước khi được chuyển phẫu
thuật đều được quyết định bởi hội đồng hội chẩn liên viện thường quy được tổ
chức tại Trung tâm Hô hấp bệnh viện Mạch gồm các thành viên chuyên khoa
Phẫu thuật lồng ngực, chuyên khoa Ung bướu và y học hạt nhân, chuyên khoa
Chẩn đoán hình nh, chuyên khoa Gii phẫu bệnh và chuyên khoa Hô hp.
Trong số 104 bệnh nhân được mổ có 15 bệnh nhân (14,4%) được mổ
nội soi, 89 bệnh nhân (85,6%) được mổ mở ngực kinh điển. Tỉ lệ này ph
thuộc vào chẩn đoán bệnh và thói quen của phẫu thuật viên.
Hầu hết các bệnh nhân được mổ cắt một thùy phổi 79/104 (76%) hoặc
cắt tổn thương 24/104 (23,1%), cách thức mổ tùy thuộc vào chẩn đoán trước
m của bệnh nhân. Trong các bệnh nhân ung thư hầu hết cắt 1 thùy phổi
68/69 (98,6%). 1 trường hợp u thùy giữa chẩn đoán trước mổ T2bN0M0 khi
mđã xâm lấn 2 thùy lân cận nên vừa phải cắt thùy phi, vừa cắt phần
xâm lấn 2 thùy bên cạnh. Như vậy bệnh nhân này đã giai đoạn T4 nhưng
98 lọc có thể phâu thuật được do đó các bệnh nhân nghiên cứu đều có chức năng thông khí tương đối bình thường. Trong 104 bệnh nhân nghiên cứu có 54/104 (51,9%) bệnh nhân kết quả NSPQ bình thường, trong nhóm ung thư là 38/69 (55,1%), trong nhóm không ung thư là 16/35 (45,7%), các biểu hiện không bình thường trong nội soi PQ là phù nề niêm mạc, chít hẹp lòng phế quản, mảng sắc tố đen trong lòng phế quản,… Nhưng kết quả xét nghiệm giải phẫu bệnh, vi sinh thu được qua NSPQ đều không có chẩn đoán đặc hiệu, chính vì vậy mà các bệnh nhân nghiên cứu có chỉ định STCXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT để chẩn đoán bản chất khối u. Hầu hết các bệnh nhân nghiên cứu có tổn thương ở ngoại vi nên tiếp cận qua NSPQ nhiều khi khó khăn không với tới được tổn thương. 4.1.5. Kết quả phẫu thuật Các bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi trước khi được chuyển phẫu thuật đều được quyết định bởi hội đồng hội chẩn liên viện thường quy được tổ chức tại Trung tâm Hô hấp bệnh viện Mạch gồm các thành viên chuyên khoa Phẫu thuật lồng ngực, chuyên khoa Ung bướu và y học hạt nhân, chuyên khoa Chẩn đoán hình ảnh, chuyên khoa Giải phẫu bệnh và chuyên khoa Hô hấp. Trong số 104 bệnh nhân được mổ có 15 bệnh nhân (14,4%) được mổ nội soi, 89 bệnh nhân (85,6%) được mổ mở ngực kinh điển. Tỉ lệ này phụ thuộc vào chẩn đoán bệnh và thói quen của phẫu thuật viên. Hầu hết các bệnh nhân được mổ cắt một thùy phổi 79/104 (76%) hoặc cắt tổn thương 24/104 (23,1%), cách thức mổ tùy thuộc vào chẩn đoán trước mổ của bệnh nhân. Trong các bệnh nhân ung thư hầu hết cắt 1 thùy phổi 68/69 (98,6%). 1 trường hợp u thùy giữa chẩn đoán trước mổ T2bN0M0 khi mổ đã có xâm lấn 2 thùy lân cận nên vừa phải cắt thùy phổi, vừa cắt phần xâm lấn 2 thùy bên cạnh. Như vậy bệnh nhân này đã ở giai đoạn T4 nhưng
99
không đánh giá được trước mổ. Các bệnh nhân bệnh lý không phải ác tính hầu
hết chỉ phải cắt tổn thương 24/35 (68,6%). Có 11 trường hợp bệnh lành tính
phải cắt thùy phi đó là 4 trường hợp u nấm, 3 trường hợp u xơ, 2 trường hợp
áp xe phổi 1 trường hợp nang xuất huyết. Các trường hợp u nấm kích
thước lớn, dính nhiều nên cắt cả thùy phòng dò nấm ra màng phổi. Các trường
hợp còn lại không phải u ác tính nhưng cắt cả thùy phổi cũng do kích thước u
lớn, dính nhiều vào tổ chức xung quanh. Theo nghiên cứu của Varolia và CS
(2008) nghiên cứu trên 370 trường hợp có tổn thương dạng u ở phổi không rõ
bản chất được phẫu thật VATS thấy tỉ lệ cắt phổi hình chêm là 74,6%, và cắt
thùy phổi là 25,6% [110].
Các bệnh nhân ung thư các bệnh nhân chẩn đoán cuối cùng
không đặc hiệu đều được coi là ung thư và đánh giá giai đoạn trước mổ chặt
chẽ, sau đó thông qua hi đồng hội chẩn quyết định cách thức phẫu thuật. Tất
cả các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư trước cũng như khi phẫu thuật (dựa
vào kết quả xét nghiệm cắt lạnh khi phẫu thuật) đều được phẫu thuật cắt thùy
là tối thiểu theo kinh điển. Hiện nay trên thế giới có xu hướng phẫu thuật hình
chêm tiết kiệm phổi bệnh nhân ung thư. Theo nghiên cứu của American
College of Surgeons thu thập thông tin từ 729 bệnh viện trên 40,090 bệnh
nhân ung thư phổi p tế bào không nh thấy tỉ lệ cắt phổi hình chêm
15,6%, cắt thùy phổi 70,8%, cắt một phổi là 13,6% [98]. Tương tự như vậy
theo nghiên cứu của Reck và CS (2007) trên 92 bệnh nhân ung thư phổi tế
bào không nhỏ được m thấy tỉ lệ cắt thùy là nhiều nhất 76,1%, cắt phân thùy
là 6,5%, cắt cả phổi là 9,8%, cắt 2 thùy 5,4%, cắt hình chêm 2,2% [111]. Theo
nghiên cứu của Chung Giang Đông CS (2008) nghiên cứu trên 114 bệnh
nhân ung thư phổi được phẫu thuật thấy tỉ lệ cắt thùy phi là 79,8%, cắt 2
thùy là 2,6%, cắt một phổi là 4,5% [95]. Qua đó cho thấy cắt thùy phổi vẫn
được áp dụng nhiều nhất.
99 không đánh giá được trước mổ. Các bệnh nhân bệnh lý không phải ác tính hầu hết chỉ phải cắt tổn thương 24/35 (68,6%). Có 11 trường hợp bệnh lành tính phải cắt thùy phổi đó là 4 trường hợp u nấm, 3 trường hợp u xơ, 2 trường hợp áp xe phổi và 1 trường hợp nang xuất huyết. Các trường hợp u nấm kích thước lớn, dính nhiều nên cắt cả thùy phòng dò nấm ra màng phổi. Các trường hợp còn lại không phải u ác tính nhưng cắt cả thùy phổi cũng do kích thước u lớn, dính nhiều vào tổ chức xung quanh. Theo nghiên cứu của Varolia và CS (2008) nghiên cứu trên 370 trường hợp có tổn thương dạng u ở phổi không rõ bản chất được phẫu thật VATS thấy tỉ lệ cắt phổi hình chêm là 74,6%, và cắt thùy phổi là 25,6% [110]. Các bệnh nhân ung thư và các bệnh nhân có chẩn đoán cuối cùng không đặc hiệu đều được coi là ung thư và đánh giá giai đoạn trước mổ chặt chẽ, sau đó thông qua hội đồng hội chẩn quyết định cách thức phẫu thuật. Tất cả các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư trước cũng như khi phẫu thuật (dựa vào kết quả xét nghiệm cắt lạnh khi phẫu thuật) đều được phẫu thuật cắt thùy là tối thiểu theo kinh điển. Hiện nay trên thế giới có xu hướng phẫu thuật hình chêm tiết kiệm phổi ở bệnh nhân ung thư. Theo nghiên cứu của American College of Surgeons thu thập thông tin từ 729 bệnh viện trên 40,090 bệnh nhân ung thư phổi típ tế bào không nhỏ thấy tỉ lệ cắt phổi hình chêm là 15,6%, cắt thùy phổi 70,8%, cắt một phổi là 13,6% [98]. Tương tự như vậy theo nghiên cứu của Reck và CS (2007) trên 92 bệnh nhân ung thư phổi tế bào không nhỏ được mổ thấy tỉ lệ cắt thùy là nhiều nhất 76,1%, cắt phân thùy là 6,5%, cắt cả phổi là 9,8%, cắt 2 thùy 5,4%, cắt hình chêm 2,2% [111]. Theo nghiên cứu của Chung Giang Đông và CS (2008) nghiên cứu trên 114 bệnh nhân ung thư phổi được phẫu thuật thấy tỉ lệ cắt thùy phổi là 79,8%, cắt 2 thùy là 2,6%, cắt một phổi là 4,5% [95]. Qua đó cho thấy cắt thùy phổi vẫn được áp dụng nhiều nhất.
100
Trong nghiên cứu này 69 trường hợp được chẩn đoán sau mổ là ung thư
phổi và 35 trường hợp là u lành tính. Các khối u lành tính bao gồm: U xơ, u
thần kinh, u nấm, u lao, u nang xuất huyết và các u lành tính khác. Trong các
trường hợp ung thư thì ung thư phế quản típ biểu tuyến gặp nhiều nhất
63/69 (91,3%), ung thư biểu vẩy là 3/69 (4,3%), 1 trường hợp ung thư
biểu típ tuyến vẩy, 1 trường hợp ung thư tế bào lớn, 1 trường hợp u
sarcoma. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Chung Giang Đông
CS (2008) nghiên cứu trên 114 bệnh nhân ung thư phổi được phẫu thuật
thấy tỉ lệ ung thư biểu mô tuyến là 80,7%; ung thư biểu mô vẩy là 11,4% [95].
Tuy nhiên so sánh với nhiều nghiên cứu khác nghiên cứu của chúng tôi s
khác biệt t lệ giữa ung thư biểu mô vy và ung thư biểu tuyến, trong
nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ ung thư biểu mô tuyến/ung thư biểu mô vẩy là
63/3. Trong các nghiên cứu trên thế giới tỉ lệ ung thư biểutuyến và ung
thư biểu vẩy không khác biệt quá nhiều. Theo kết quả nghiên cứu của
Little và CS (2005) nghiên cứu tổng hợp trên 729 bệnh viện ở Mỹ ở 40.090
bệnh nhân ung thư phổi típ tế bào không nhỏ được phẫu thuật thấy tỉ lệ ung
thư biểu mô vẩy 28%, ung thư biểu mô tuyến 37,6%, 34,4% là các loại ung
thư khác [98]. Điều này có thể lý giải là do các bệnh nhân nghiên cứu của
chúng tôi phần lớn là u ngoại vi nên ung thư biểu tuyến cao hơn các
nghiên cứu khác.
4.2. Giá trị của STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT
4.2.1. Đặc điểm kỹ thuật
Trong 104 bệnh nhân nghiên cứu chúng tôi thực hiện 128 lượt STXTN
dưới hướng dẫn của chụp CLVT. Có 5 trường hợp có kích thước u ≤ 10 mm.
5 trường hợp này có kết quả STCXTN chẩn đoán được 2 trường hợp ung thư,
3 trường hợp còn lại là tổn thương viêm mạn tính. Kết quả sau mổ phù hợp 2
trường ung thư. Còn 3 trường hợp viêm mạn tính có chẩn đoán: 1 trường hợp
100 Trong nghiên cứu này 69 trường hợp được chẩn đoán sau mổ là ung thư phổi và 35 trường hợp là u lành tính. Các khối u lành tính bao gồm: U xơ, u thần kinh, u nấm, u lao, u nang xuất huyết và các u lành tính khác. Trong các trường hợp ung thư thì ung thư phế quản típ biểu mô tuyến gặp nhiều nhất 63/69 (91,3%), ung thư biểu mô vẩy là 3/69 (4,3%), 1 trường hợp ung thư biểu mô típ tuyến vẩy, 1 trường hợp ung thư tế bào lớn, 1 trường hợp u sarcoma. Kết quả này cũng tương tự như nghiên cứu của Chung Giang Đông và CS (2008) nghiên cứu trên 114 bệnh nhân ung thư phổi được phẫu thuật thấy tỉ lệ ung thư biểu mô tuyến là 80,7%; ung thư biểu mô vẩy là 11,4% [95]. Tuy nhiên so sánh với nhiều nghiên cứu khác nghiên cứu của chúng tôi có sự khác biệt ở tỉ lệ giữa ung thư biểu mô vẩy và ung thư biểu mô tuyến, trong nghiên cứu của chúng tôi tỉ lệ ung thư biểu mô tuyến/ung thư biểu mô vẩy là 63/3. Trong các nghiên cứu trên thế giới tỉ lệ ung thư biểu mô tuyến và ung thư biểu mô vẩy không khác biệt quá nhiều. Theo kết quả nghiên cứu của Little và CS (2005) nghiên cứu tổng hợp trên 729 bệnh viện ở Mỹ ở 40.090 bệnh nhân ung thư phổi típ tế bào không nhỏ được phẫu thuật thấy tỉ lệ ung thư biểu mô vẩy 28%, ung thư biểu mô tuyến 37,6%, 34,4% là các loại ung thư khác [98]. Điều này có thể lý giải là do các bệnh nhân nghiên cứu của chúng tôi phần lớn là u ngoại vi nên ung thư biểu mô tuyến cao hơn các nghiên cứu khác. 4.2. Giá trị của STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT 4.2.1. Đặc điểm kỹ thuật Trong 104 bệnh nhân nghiên cứu chúng tôi thực hiện 128 lượt STXTN dưới hướng dẫn của chụp CLVT. Có 5 trường hợp có kích thước u ≤ 10 mm. 5 trường hợp này có kết quả STCXTN chẩn đoán được 2 trường hợp ung thư, 3 trường hợp còn lại là tổn thương viêm mạn tính. Kết quả sau mổ phù hợp 2 trường ung thư. Còn 3 trường hợp viêm mạn tính có chẩn đoán: 1 trường hợp