LUẬN VĂN: Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung bộ
3,680
458
96
được hình thành, tỉnh Quảng Trị đã gấp rút kêu gọi dự án, sau đó ngay lập tức
cấp phép
mà chưa tính toán chu đáo đến các vấn đề khác. Khi doanh nghiệp đăng ký đầu tư
thì tỉnh
lập tức đưa tên dự án vào nghị quyết. Ví dụ như dự án nhà máy bia tại Khu công
nghiệp
Quán Ngang, đăng ký đầu tư trước năm 2005 đến nay dự án vẫn còn nằm trên giấy;
dự án
xây dựng nhà máy ximăng 35 vạn tấn ở Cam Lộ, do không thể huy động được vốn đầu
tư
nên dự án phải giải thể và chuyển tiếp cho một liên doanh mới. Một số từ ngữ gọi
tên
những ngành đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại đang rất thịnh
hành trên
thế giới như: điện, điện tử, điện lạnh, công nghiệp phần mềm, … cũng được đưa
vào nghị
quyết để phát triển mà không căn cứ trên cơ sở điều kiện của địa phương như năng
lực
quản lý, kinh doanh, trình độ nhân công, cơ sở hạ tầng… có đáp ứng hay không.
Những biểu hiện giáo điều, dập khuôn, máy móc thể hiện năng lực tư duy yếu
kém chưa đạt đến trình độ tư duy lý luận được.
Thứ tư, trong hoạt động lãnh đạo còn bị động, thiếu trọng tâm, trọng điểm.
Những ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp đã trói buộc và thui
chột khả năng độc lập sáng tạo của người cán bộ chủ chốt. Điều đó đã khuôn người
cán
bộ vào những quan điểm bị chính trị hóa, vào những bậc thang đẳng cấp xã hội;
làm cho
người trong cuộc không dám sáng tạo vượt ra ngoài khuôn mẫu có sẵn; hướng con
người
vào một trật tự an bài, ổn định, tránh được mạo hiểm. Từ đó, người cán bộ trở
nên thụ
động trong suy nghĩ và hành động. Tất cả đều phụ thuộc vào cấp trên, cơ chế xin
– cho từ
đó mà có mảnh đất để phát triển. Người cán bộ không còn tư duy bằng đầu của mình
nữa,
tất cả chỉ dừng lại ở việc giải thích, tuyên truyền, minh họa đường lối, chủ
trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, các ý kiến của lãnh đạo cấp trên. Họ giải quyết vấn
đề
không bằng cách vận động nhân dân mà dựa vào sự đồng tình, ủng hộ của cấp trên.
Tính
bị động còn thể hiện ở tâm lý chờ đợi chính sách từ Trung ương mà không chủ động
tìm
kiếm, đề xuất chính sách. Và khi Trung ương có chỉ đạo thì làm theo mà không có
phản
hồi.
Trong sự chỉ đạo, lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh đối với các địa phương,
các ban, ngành chưa thật nhịp nhàng, hiệu quả. Điều này thể hiện lối tư duy tự
phát, thiếu
tính biện chứng. Vì vậy mà trong hoạt động của họ vẫn còn biểu hiện của sự cào
bằng,
dàn trãi, thiếu trọng tâm, trọng điểm. Dường như trong lãnh đạo, chỉ đạo của cán
bộ chủ
chốt thường tập trung nhiều vào thành phố Đông Hà, các thị trấn, các huyện điểm
của
tỉnh. Huyện miền núi, hải đảo, xã vùng sâu, vùng xa thì chưa được quan tâm đúng
mức.
Những vấn đề như đầu tư các cụm điểm công nghiệp cần có sự tập trung vốn thì lại
làm
dàn trãi, huyện, thị xã nào cũng có. Quảng Trị là một tỉnh nghèo, chi tiêu phụ
thuộc vào
ngân sách, cho nên số vốn để đầu tư trở nên giàn trãi, thiếu thốn. Vì vậy, chưa
có cụm
điểm công nghiệp và khu công nghiệp nào của tỉnh hoàn thiện xong cơ sở hạ tầng.
Hậu
quả dẫn đến là không có khu công nghiệp nào thu hút nhiều nhà đầu tư. Mục tiêu
phải
phát triển công nghiệp đã dẫn đến việc vội vàng, hoặc chưa có tính toán cụ thể,
chính xác
khi xây dựng các nhà máy. Nhà máy ván gỗ MDF là một ví dụ. Vì khó khăn do vay
ngoại
tệ, doanh nghiệp này đã vay vốn bằng đồng Ơ - rô (Euro) để đầu tư xây dựng, sau
đó đổi
thành Đô - la (Dollar) để mua sắm máy móc. Khi mới đưa vào hoạt động, đồng Ơ -
rô
tăng giá, ngay lập tức, nhà máy đã lỗ hơn 150 tỷ đồng. Sau một thời gian, do
không có
tiền để trả lãi suất, nhà máy phải đổi chủ. Giai đoạn gần đây, nhà máy chỉ hoạt
động cầm
chừng do không đủ nguyên liệu và thị trường đầu ra. Việc tính toán, dự đoán sai
nguồn
nguyên liệu để xây dựng nhà máy chế biến cũng thể hiện hạn chế của tư duy người
cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Thực tế, sản lượng sắn trên toàn tỉnh không đủ nguyên liệu
cho một
nhà máy hoạt động. Thế mà vẫn có chủ trương cho xây dựng hai nhà máy tinh bột
sắn.
Việc xây dựng nhiều nhà máy gây ra lãng phí, hoạt động của chúng lại gây ô nhiễm
môi
trường nghiêm trọng. Để nhà máy tồn tại, một mặt, doanh nghiệp phải ra sức quy
hoạch
vùng nguyên liệu mặt khác phải cất công đi tìm nguyên liệu ở các tỉnh khác. Việc
quản lý
đầu tư như vậy là không hiệu quả. Công cuộc công nghiệp hóa không đòi hỏi tất cả
các
địa phương phải có cơ sở sản xuất và sản phẩm từ công nghiệp. Phát triển công
nghiệp
phải đi từ nhu cầu và điều kiện thực tiễn. Sự thiếu nhịp nhàng, đồng bộ trong
lãnh đạo,
quản lý có nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó có nguyên nhân cơ bản là năng lực
tư duy
lý luận của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh còn có hạn chế nhất định. Đối với lãnh đạo
cấp tỉnh,
phải có cái nhìn bao quát, toàn diện, trong điều kiện hiện nay phải mạnh dạn
chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng coi trọng hiệu quả kinh tế chứ không được dàn
trãi. Căn
cứ vào tình hình cụ thể của tỉnh, lãnh đạo tỉnh phải tìm được khâu đột phá mũi
nhọn để
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển nhanh, mạnh và bền vững. Phát triển kinh tế
phải gắn
với những vấn đề xã hội, an ninh, chính trị, quốc phòng...
Những yếu kém phân tích trên của người cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Trị đã và
đang tiếp tục được khắc phục, sửa chữa đã có sự chuyển biến tích cực nhất định.
Thực
tiễn địa phương cũng như yêu cầu của nhiệm vụ đang đòi hỏi họ phải có tư duy
khoa học,
phải nâng cao năng lực tư duy lý luận để lãnh đạo tỉnh phát triển tương xứng với
tiềm
năng, lợi thế so sánh.
2.2.4. Những nguyên nhân cơ bản dẫn tới hạn chế về mặt năng lực tư duy lý
luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị
Những hạn chế về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
tỉnh Quảng Trị xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan và khác
nhau.
Trong đó có những nguyên nhân chung dẫn tới sự yếu kém về năng lực tư duy lý
luận
của đội ngũ cán bộ cấp tỉnh trong cả nước, đồng thời lại có những nguyên nhân
đặc thù
riêng có ở địa phương. Dưới đây là một số nguyên nhân chủ yếu của sự yếu kém về
năng
lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị.
- Một là, đời sống và trình độ dân trí của nhân dân tỉnh Quảng Trị chưa thật cao
đã ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển năng lực nói chung, năng lực tư duy lý
luận của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị nói riêng.
Với thu nhập bình quân là 11,2 triệu đồng/ năm, chỉ bằng 65% trung bình của
người dân cả nước, nên đời sống của đại đa số người dân Quảng Trị còn rất khó
khăn.
Chính vì thu nhập của nhân dân thấp làm cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt còn
phải
dành nhiều thời gian, công sức cho việc nâng cao đời sống của nhân dân, vì vậy
mà điều
kiện để nâng cao năng lực tư duy lý luận sẽ không được tốt. Đời sống khó khăn
vừa là
nguyên nhân, vừa là hệ quả của trình độ dân trí thấp. Vấn đề đó làm cho nhân dân
chưa
thực sự trở thành đối trọng để gây áp lực buộc cán bộ lãnh đạo phải nâng cao
trình độ
mọi mặt, trong đó có cả năng lực tư duy lý luận. Đã thế, cán bộ lãnh đạo chủ
chốt tỉnh
còn phải tập trung khắc phục tình trạng mất đoàn kết, cục bộ địa phương, vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm phong cách đạo đức lối sống – việc đã
khiến 05
đồng chí trong Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh phải chịu hình thức ký luật của Đảng
và
Nhà nước (01 cách chức, 02 cảnh cáo, 02 khiển trách) trong nhiệm kỳ qua. Vì vậy,
cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng chưa có
đủ
thời gian, điều kiện học tập nâng cao trình độ, năng lực về mọi mặt. Sự thiếu
hụt, xáo
trộn, đấu tranh đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao trình độ nói chung,
riêng
cả năng lực tư duy lý luận.
- Hai là, trình độ lý luận hạn chế và ý thức tự học tập, rèn luyện nâng cao
trình
độ về mọi mặt của đội ngũ cán bộ này chưa thật cao là nguyên nhân chủ yếu của sự
hạn
chế về năng lực tư duy lý luận.
Về hình thức và về cả thực chất thì trình độ của cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh
Quảng Trị thấp hơn so với nhiều tỉnh khác và bình quân cả nước. Với hoàn cảnh
đời sống
khó khăn, vừa thoát ra khỏi chiến tranh, đa số cán bộ là người cao tuổi cho nên
vấn đề
khắc phục hạn chế, nâng cao trình độ về mọi mặt là công việc không dễ dàng. Do
nhu cầu
đào tạo của cán bộ cả nước nói chung và tỉnh nói riêng là quá lớn nên đội ngũ
này cố
gắng tìm mọi hình thức để chuẩn hóa trình độ. Tuy nhiên, cũng còn nhiều bất cập
như
hiệu quả, chất lượng đào tạo không cao và chưa vững chắc. Vẫn còn rất nhiều
trường hợp
chạy theo bằng cấp để đảm bảo tiêu chuẩn chuẩn hóa chức danh cán bộ. Vì thế mà
khi
vận dụng kiến thức cũng như chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà
nước
để xây dựng các chương trình phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương chưa thật
đúng,
vẫn còn biểu hiện của bệnh kinh nghiệm, chủ quan, duy ý chí, giáo điều.
- Ba là, những hạn chế, bất cập trong công tác quy hoạch, luân chuyển, đào tạo,
bố trí, sử dụng, chính sách cán bộ là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự yếu
kém
về năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh đạo tỉnh.
Công tác quy hoạch cán bộ ở tỉnh Quảng Trị chưa được sự quan tâm đúng mức,
ngay cả từ trong hàng ngũ lãnh đạo. Việc xây dựng cụ thể tiêu chuẩn cán bộ trong
quy
hoạch làm chưa tốt, nội dung, quy trình đánh giá cán bộ quy hoạch chưa cụ thể.
Đánh giá
cán bộ trong quá trình quy hoạch thực hiện chưa đầy đủ, hạn chế. Chưa xây dựng
quy
hoạch cán bộ chuyên môn nghiệp vụ có trình độ cao. Cơ cấu đội ngũ cán bộ quy
hoạch
còn bất hợp lý, tỷ lệ người trẻ tuổi, cán bộ nữ còn thấp, tuổi trong quy hoạch
không hợp
lý và con mang nặng tính “xếp hàng”, tính mở thấp, chưa có tính đột phá. Chưa có
quy
hoạch cán bộ dài hạn, việc bổ sung hàng năm chưa tốt, việc quy hoạch công khai
chưa
đầy đủ.
Trong công tác luân chuyển cán bộ, nhận thức của cán bộ chủ chốt về chủ trương
luân chuyển không thấu đáo, ý thức trách nhiệm chưa cao dẫn tới ngại và né tránh
luân
chuyển. Việc luân chuyển triển khai chưa sâu và chưa đạt yêu cầu. Đối tượng cán
bộ luân
chuyển còn mang tâm lý nặng nề, nhiều khi chấp hành miễn cưỡng. Thời gian luân
chuyển không hợp lý, có lúc quá ngắn không đủ thời gian để triển khai nhiệm vụ,
có lúc
quá dài làm ảnh hưởng đến tư tưởng chung của đội ngũ cán bộ. Chế độ, chính sách
cho
người luân chuyển còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất, đồng bộ nên chưa tạo được
động
lực khuyến khích cán bộ luân chuyển.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng có những hạn chế, chất lượng đào tạo
chưa
cao, nhiều cán bộ còn nặng tư tưởng chuẩn hóa. Nguồn ngân sách hỗ trợ cho cán bộ
đi học
thấp nên không khuyến khích được người đi học.
Công tác quản lý, bố trí, sử dụng cán bộ tuy có nhiều chuyển biến tích cực nhưng
vẫn còn nhiều hạn chế: tư tưởng khép kín, địa phương vẫn còn; chưa kiên quyết xử
lý đối
với những cán bộ yếu kém về năng lực, phẩm chất; việc nội bộ mất đoàn kết chưa
xử lý
kịp thời, dứt điểm; vấn đề trẻ hóa đội ngũ cán bộ chưa được quan tâm đúng mức và
thực
hiện hiệu quả.
Công tác thực hiện chính sách cán bộ vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như việc
Trung ương và tỉnh chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể về những việc về chính
sách cán
bộ, mức hỗ trợ còn thấp so với nhu cầu thực tế; do đó chưa động viên được cán bộ
yên
tâm công tác cũng như nâng cao trình độ. Công tác thu hút cán bộ, chuyên gia,
người có
trình độ cao về công tác tại tỉnh chưa thực chiện được.
Bên cạnh đó, tổ chức bộ máy tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ còn chồng chéo
về chức năng, nhiệm vụ, chưa tinh gọn, đội ngũ cán bộ làm công tác tổ chức còn
hạn chế về
trình độ, kiến thức, năng lực thực tiễn, phương pháp công tác chưa đáp ứng được
yêu cầu
nhiệm vụ ngày càng lớn và phức tạp.
Những nguyên nhân khách quan và chủ quan trên đây có quan hệ tác động lẫn
nhau, tạo ra một hệ thống các nguyên nhân cùng tác động làm cho năng lực tư duy
lý
luận của người cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh không những không được nâng cao mà còn
bị
mai một đi.
2.3. Những yêu cầu mới về nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các tỉnh Bắc Trung bộ hiện nay
Đứng trước những đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng Bắc
Trung bộ nói chung, tỉnh Quảng Trị nói riêng, cũng như xuất phát từ thực trạng
về năng
lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị đang đặt ra những
yêu cầu
mới sau:
Thứ nhất, yêu cầu của thực tiễn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi
đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị phải nhanh chóng khắc phục những
hạn chế, khiếm khuyết, nâng cao năng lực tư duy lý luận để đáp ứng kịp thời cho
công
tác lãnh đạo, quản lý.
Thực tế đổi mới, nhất là yêu cầu trong giai đoạn cách mạng mới đã và đang đặt
ra nhiều vấn đề hết sức cấp bách và phức tạp về cả lý luận lẫn thực tiễn. Để
giải quyết tốt
những vấn đề đó cần phải có một năng lực và trình độ tư duy lý luận phát triển
cao. Chỉ
có tư duy lý luận khoa học mới phát hiện được tính biện chứng, những mâu thuẩn
nảy
sinh trong sự vận động của xã hội Việt Nam trong thời kỳ quá độ.
Vùng Bắc Trung bộ trong đó có tỉnh Quảng Trị có một vị trí quan trọng về kinh
tế, chính trị, an ninh – quốc phòng của quốc gia. Sự phát triển của cả vùng cũng
ảnh
hưởng không nhỏ đến sự thịnh suy của đất nước. Những thể nghiệm, tìm tòi, phát
hiện
trong phát triển kinh tế – xã hội, trong xây dựng đảng, xây dựng đời sống văn
hóa tinh
thần ở vùng này cũng là một cơ sở để Trung ương có căn cứ kịp thời điều chỉnh
chủ
trương, chính sách phát triển của cả quốc gia. Nhìn vào thực trạng chung của đội
ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị, bên cạnh những ưu điểm thì vẫn còn tồn tại
những
yếu kém nhất định, điều đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động công tác, mà
quan
trọng hơn là tác động đến sự phát triển của tỉnh nhà. Muốn vậy thì lực lượng cán
bộ chủ
chốt cấp tỉnh phải biết khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết để nâng cao năng
lực tư
duy lý luận, đáp ứng yêu cầu mới. Ngoài những yếu kém mang tính phổ biến của
vùng
như trình độ chuyên môn chưa cao, thiếu ý thức học tập nâng cao trình độ, tính
cục bộ,
địa phương … thì đội ngũ này cần phải hạn chế những yếu kém mang tính đặc thù
của
tỉnh như: trong lãnh đạo, quản lý thiếu tính chủ động, giàn trãi, trong giải
quyết công việc
nặng kinh nghiệm, cảm tính,… Không những vậy, những vấn đề thực tiễn mới nảy
sinh
từ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong tỉnh cũng
cần
tổng kết kịp thời để rút ra những bài học kinh nghiệm có giá trị cho chỉ đạo
thực tiễn tiếp
theo. Chẳng hạn những vấn đề đang nổi cộm như khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
trường ở các làng nghề, các nhà máy, vấn đề việc làm cho thanh niên ở khu vực
nông
thôn, vấn đề di dân tái định cư… Nếu không có biện pháp lãnh đạo kịp thời thì
kinh tế –
xã hội của tỉnh sẽ không thể bắt kịp bước phát triển của cả nước.
Thực tế đổi mới cũng như quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh
tế của tỉnh Quảng Trị đã và đang đặt ra nhiều vấn đề hết sức cấp bách. Văn kiện
Đại hội
Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đã nêu rõ:
Từ xuất phát điểm thấp của nền kinh tế; thiên nhiên khắc nghiệt, địa
bàn thiếu hấp dẫn thu hút đầu tư và những yếu kém trong quy hoạch chưa
có tầm quan quát toàn diện; quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện quy
hoạch còn có khuyết điểm, thiếu những doanh nghiệp có quy mô, có khả
năng ảnh hưởng lớn và chi phối dẫn dắt, thiếu những doanh nhân giỏi; chất
lượng lao động còn chưa đảm bảo yêu cầu phát triển, hội nhập; tâm lý e
ngại đầu tư vốn để phát triển sản xuất kinh doanh còn phổ biến và tình trạng
mất đoàn kết xảy ra đã ảnh hưởng phát triển kinh tế - xã hội trong những
năm vừa qua.
Cho đến nay xét trên bình diện chung thì Quảng Trị vẫn đang là
tỉnh nghèo, chậm phát triển, nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với bình
quân chung cả nước [6, tr.55-56].
Để giải quyết được những vấn đề đó đòi hỏi cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải nâng cao trình độ về mọi mặt, trong đó có năng
lực tư
duy lý luận đáp ứng thực tiễn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh.
Thứ hai, yêu cầu nắm bắt thực chất để vận dụng những vấn đề lý luận của chủ
nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng để hoạch định các phương
hướng,
giải pháp phù hợp với điều kiện thực tế địa phương.
Vấn đề này vừa là biểu hiện cụ thể, vừa là yêu cầu cơ bản của năng lực tư duy lý
luận đối với hoạt động của cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh hiện nay. Nắm bắt và hiểu
thực chất
đường lối không chỉ là sự nắm bắt về nội dung các vấn đề được trình bày và đem
các nội
dung đó áp dụng vào thực tiễn địa phương mà yêu cầu cơ bản trước tiên là phải
hiểu được
tinh thần và phương pháp luận của lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi
vì
trong đó hàm chứa một cách sâu sắc phương pháp tư duy biện chứng, cho nên thông
qua
nghiên cứu lý luận, đường lối, người cán bộ lãnh đạo có điều kiện để rèn giũa
năng lực tư
duy lý luận của mình. Việc nắm bắt một cách sâu sắc bản chất đích thực của lý
luận Mác
– Lênin, đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước trên
các lĩnh
vực sẽ tạo cơ sở khoa học để nâng cao năng lực tư duy về kinh tế, tư tưởng,
chính trị, văn
hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, … trong mối quan hệ ràng buộc, tác động qua
lại lẫn
nhau giữa các lĩnh vực ấy. Từ đó, cán bộ lãnh đạo nâng cao được năng lực lãnh
đạo một
cách toàn diện; đề ra được những nghị quyết, chủ trương, biện pháp có cơ sở khoa
học
định hướng cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội ở địa phương một cách đúng
đắn
không trái với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phù hợp với thực tế địa
phương và biết khai thác các tiềm năng, đặc điểm riêng của địa phương, đảm bảo
cho
tính hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nhận thức được
điều đó, Văn
kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XIV đã đề cập tới vấn đề
này:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc quán triệt, vận dụng,
cụ
thể hóa đường lối, chủ trương, nghị quyết của cấp trên, đề ra các chủ trương,
Nghị quyết
của cấp ủy Đảng sát đúng, phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương và chủ
động,
sáng tạo trong lãnh đạo tổ chức thực hiện” [6, tr.103]
Trong bối cảnh hiện nay, cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh vùng Bắc Trung bộ nói chung
và cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị nói riêng có vai trò cực kỳ quan
trọng trong
việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng, chính trị, đạo đức, chủ trương, đường lối
của Đảng
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp dưới và toàn thể mọi tầng lớp nhân dân trong
tỉnh. Để làm
tốt công tác này, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải nắm vững đường lối, chủ
trương của
Đảng, phải am hiểu diễn biến tư tưởng, tình cảm, nhu cầu, nguyện vọng của nhân
dân trong
tỉnh. Vấn đề này càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi mà các thế lực thù
địch đang tìm
mọi cách gieo rắc những tư tưởng phản động nhằm lật đổ chính quyền xã hội chủ
nghĩa.
Quảng Trị là một tỉnh vùng biên giới, có vị trí địa quân sự hết sức quan trọng,
trong khi đó,
đồng bào sống ven vùng biên lại là người dân tộc thiểu số, họ có tinh thần yêu
nước, nhưng
đời sống hết sức khó khăn, trình độ lại hạn chế, họ đang là đối tượng để bọn
phản động lôi
kéo, kích động, chống phá đất nước. Bên cạnh đó, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã nêu
ra phải
được cán bộ lãnh đạo tỉnh biết chúng đang diễn biến ở mức độ nào trên địa bàn
tỉnh để có
các biện pháp thích ứng, đẩy lùi các nguy cơ đó ở địa phương mình.
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước không thể đi sâu vào chi
tiết, cụ thể mà đó là những phương hướng ở tầm vĩ mô, phạm vi chỉ đạo rộng lớn,
có tính
chiến lược. Vì thế cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh nói riêng
phải nắm
vững thực chất của đường lối ấy, sau đó phải căn cứ vào điều kiện tự nhiên, kết
cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực, … mà cụ thể hóa cho phù hợp với điều kiện địa phương. Tiếp đó
phải tuyên
truyền để chủ trương đến được mọi người dân giúp họ hiểu rõ, hiểu sâu đường lối
để tự giác
thực hiện. Nếu nghị quyết được mọi người dân hiểu, tin tưởng, tự giác làm theo
thì sẽ tạo ra
một phong trào cách mạng rộng lớn đem lại hiệu quả thiết thực.
Việc hiểu thực chất chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước đòi hỏi cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải biết tổ chức thực hiện
bằng các
biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế địa phương. Chẳng hạn chủ trương của
Đảng là
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì
cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị phải biết ở tỉnh mình cần cụ thể chủ trương ấy
như thế nào,
phải bắt đầu từ đâu, tiến hành như thế nào. Thực tế việc thực hiện chủ trương ấy
ở tỉnh chưa
đem lại hiệu quả cao. So với những tỉnh lân cận trong vùng như Thừa Thiên Huế,
Nghệ
An,… thì kết quả đó ở Quảng Trị vẫn còn khiêm tốn. Sự thật trên cho chúng ta
nhận thức sâu
sắc rằng: cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị với cương vị và trọng trách
của mình phải
nắm rõ hơn nữa chủ trương của Đảng từ đó đề ra chiến lược phát triển kinh tế –
xã hội phù
hợp với địa phương. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao năng lực về mọi mặt, trước hết
là năng
lực tư duy lý luận.
Chương 3
Một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng bắc trung bộ
3.1. Đổi mới tư duy, nâng cao chất lượng giáo dục và hoạt động tự giáo dục
người cán bộ lãnh đạo, quản lý
Một trong những nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta là
đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, đổi mới
tư
duy của cán bộ lý luận, cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến địa phương.
Nhiệm vụ
đó được đặt ra ngay từ đầu trong đường lối đổi mới mà Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc
lần thứ VI đã đề ra.
Mặc dù trong những năm vừa qua, trình độ tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt tỉnh Quảng Trị đã có những chuyển biến tích cực. Đó là kết quả của sự
đổi mới
về cả lý luận, về công tác giáo dục lý luận; là kết quả sự chuyển đổi cơ chế
quản lý đã tạo
ra môi trường thực tiễn sống động và là kết quả của ý thức chủ động trong học
tập và rèn
luyện tư duy của chính bản thân người cán bộ; nhưng trước thực tiễn đổi mới đang
diễn
ra một cách nhanh chóng, đa dạng, phong phú thì lối tư duy đó vẫn chưa thể bắt
kịp và
phần nào đã lạc hậu. Tình trạng chưa ngang tầm, bất cập về trình độ, năng lực tư
duy của
đội ngũ này biểu hiện trên nhiều mặt như: mức độ nắm bắt và chuyển hóa kiến thức
lý
luận thành tư duy, suy nghĩ còn hạn chế; việc nhận thức và vận dụng đường lối,
chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào việc xây dựng các chủ trương, chính
sách
phát triển kinh tế – xã hội cụ thể trong thực tiễn cuộc sống còn có những biểu
hiện giáo
điều, kinh nghiệm chủ nghĩa; năng lực tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn còn
nhiều bất
cập… Những mặt hạn chế đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động lãnh đạo quản lý.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng, tư duy là sản phẩm của lịch sử, chịu sự
quy định
của tồn tại xã hội, nhưng tư duy có tính độc lập tương đối của nó. Nếu tư duy
quá lạc hậu,
bảo thủ, đặc biệt nếu đó là tư duy của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh – những
người có