LUẬN VĂN: Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung bộ

3,740
458
96
kết quả của nhận thức đó. Nhờ thế con người có thể sáng tạo ra những khái niệm
những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và vì vậy mà hiểu sâu
sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để tư duy
và tư tưởng của loài người không thể lưu giữ, kế thừa và phát triển được.
Thế giới vô cùng, vô tận (cả về bề rộng lẫn chiều sâu), thực tiễn thì luôn luôn mới,
điều đó đòi hỏi tư duy phải luôn năng động, sáng tạo phát hiện ra những cái mới, những tình
huống có vấn đề trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, đưa ra những giải đáp đáp
ứng cho nhu cầu cuộc sống. Vì vậy, tư duy là một quá trình vô tận, vận động và phát triển
không ngừng. Tư duy của con người không thể bất biến mà nó cũng có quá trình biến đổi và
phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét duy như một quá trình,
một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn hội, duy thể hiện ra khuynh
hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa không tối
cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của duy thì không tối cao và có
hạn. Xét theo bản tính khả ng thì duy của con người tối cao hạn. Chủ
nghĩa Mác - Lênin khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ
những cái con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết.
duy sản phẩm của lịch sử, xuất hiện trong lịch sử, qua quá trình hoạt
động thực tiễn của con người. Tư duy không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà nó
chính là sự kết hợp giữa sự kế thừa các lối tư duy truyền thống với lối tư duy trong hoàn
cảnh của thực tại. Điều đó thể hiện rằng, trong những thời đại khác nhau, với những điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì trình độ của tư duy xét
cả về nội dung hình thức cũng mức cao, thấp khác nhau; và cũng lý giải tại sao
những giai đoạn khác nhau của xã hội lại còn mang dấu ấn phong cách duy của
thời đại trước đó.
Trong những hoàn cảnh cụ thể, năng lực và trình độ tư duy có thể mang lại kết quả
nhất định trong hoạt động của con người. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem xét ở các
cấp độ như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận.
duy kinh nghiệm là một lối duy, một trình độ duy của con người.
cũng thể hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người, nhưng còn trình độ thấp.
kết quả của nhận thức đó. Nhờ thế mà con người có thể sáng tạo ra những khái niệm và những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và vì vậy mà hiểu sâu sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện để tư duy và tư tưởng của loài người không thể lưu giữ, kế thừa và phát triển được. Thế giới vô cùng, vô tận (cả về bề rộng lẫn chiều sâu), thực tiễn thì luôn luôn mới, điều đó đòi hỏi tư duy phải luôn năng động, sáng tạo phát hiện ra những cái mới, những tình huống có vấn đề trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, đưa ra những giải đáp đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống. Vì vậy, tư duy là một quá trình vô tận, vận động và phát triển không ngừng. Tư duy của con người không thể bất biến mà nó cũng có quá trình biến đổi và phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư duy như một quá trình, một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn xã hội, tư duy thể hiện ra khuynh hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa không tối cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối cao và có hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô hạn. Chủ nghĩa Mác - Lênin khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng, chỉ có những cái con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể biết. Tư duy là sản phẩm của lịch sử, nó xuất hiện trong lịch sử, qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà nó chính là sự kết hợp giữa sự kế thừa các lối tư duy truyền thống với lối tư duy trong hoàn cảnh của thực tại. Điều đó thể hiện rằng, trong những thời đại khác nhau, với những điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì trình độ của tư duy xét cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp khác nhau; và cũng lý giải tại sao ở những giai đoạn khác nhau của xã hội mà lại còn mang dấu ấn phong cách tư duy của thời đại trước đó. Trong những hoàn cảnh cụ thể, năng lực và trình độ tư duy có thể mang lại kết quả nhất định trong hoạt động của con người. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem xét ở các cấp độ như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận. Tư duy kinh nghiệm là một lối tư duy, một trình độ tư duy của con người. Nó cũng thể hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người, nhưng còn ở trình độ thấp.
Bằng tư duy kinh nghiệm, xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, người ta cũng thể rút ra
những kết luận khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng chưa thể khái quát
được những mối liên hệ căn bản giữa các sự vật, hiện tượng. Tư duy kinh nghiệm, do đó,
là tư duy tiền khoa học, tiền lý luận.
duy kinh nghiệm lối duy cụ thể, thiết thực của những người ít hoặc
không am hiểu luận, khoa học; của các thế htrong các dân tộc chưa trãi qua giai
đoạn phát triển chủ nghĩa duy lý, phát triển duy luận khoa học. duy kinh
nghiệm hướng vào những cái cụ thể, nhưng cái cthể đây cái cụ thể trực quan,
cảm tính, vụn vặt, lẻ tẻ. Do đó, kết quả của nhận thức là cái cụ thể, nhưng là cái cụ thể
chưa vươn cao hơn cái cthcảm tính chưa phải cái cụ thtrong tư duy theo
đúng nghĩa khoa học và đầy đủ của nó.
Tư duy kinh nghiệm là lối duy, suy nghĩ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm về cả
nội dung lẫn phương pháp. Những chất liệu được sử dụng trong tư duy, lập luận chỉ
những tri thức kinh nghiệm rất hạn chế: hời hợt, giản đơn, vụn vặt, đơn nhất, nhưng lại
được coi như là cái chung, cái phổ biến, cái bản chất, cái quy luật. Còn về phương pháp
và các thao tác của duy thì dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc, những lối mòn được
hình thành một cách tự phát, vừa cứng nhắc, vừa không khoa học, vừa không lôgic.
duy dừng lại ở trình độ đó không những không thể nói đến sự sáng tạo, thậm chí còn sai
lầm.
duy luận (được hiểu theo cái “phủ định biện chứng” của tư duy kinh
nghiệm) duy dựa trên tri thức luận phương pháp nhận thức khoa học [51,
tr.21]
Tri thức luận tri thức được hình thành trên sở khái quát tri thức kinh
nghiệm nhờ sức mạnh của trừu tượng hóa và khái quát hóa của tư duy. Tri thức lý luận là
những tri thức mang tính gián tiếp khái quát cao do đã qua rất nhiều bước trung
gian hóa, trừu tượng hóa. Tri thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất, trong những
mối liên hệ mang tính quy luật của nó. Tri thức lý luận là tri thức được hệ thống hóa nên
đem lại cái nhìn mang tính chỉnh thể bao quát, đầy đủ, toàn vẹn về đối tượng phản
Bằng tư duy kinh nghiệm, xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, người ta cũng có thể rút ra những kết luận khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng chưa thể khái quát được những mối liên hệ căn bản giữa các sự vật, hiện tượng. Tư duy kinh nghiệm, do đó, là tư duy tiền khoa học, tiền lý luận. Tư duy kinh nghiệm là lối tư duy cụ thể, thiết thực của những người ít hoặc không am hiểu lý luận, khoa học; của các thế hệ trong các dân tộc chưa trãi qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa duy lý, phát triển tư duy lý luận khoa học. Tư duy kinh nghiệm hướng vào những cái cụ thể, nhưng cái cụ thể ở đây là cái cụ thể trực quan, cảm tính, vụn vặt, lẻ tẻ. Do đó, kết quả của nhận thức là cái cụ thể, nhưng là cái cụ thể chưa vươn cao hơn cái cụ thể cảm tính và chưa phải là cái cụ thể trong tư duy theo đúng nghĩa khoa học và đầy đủ của nó. Tư duy kinh nghiệm là lối tư duy, suy nghĩ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm về cả nội dung lẫn phương pháp. Những chất liệu được sử dụng trong tư duy, lập luận chỉ là những tri thức kinh nghiệm rất hạn chế: hời hợt, giản đơn, vụn vặt, đơn nhất, nhưng lại được coi như là cái chung, cái phổ biến, cái bản chất, cái quy luật. Còn về phương pháp và các thao tác của tư duy thì dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc, những lối mòn được hình thành một cách tự phát, vừa cứng nhắc, vừa không khoa học, vừa không lôgic. Tư duy dừng lại ở trình độ đó không những không thể nói đến sự sáng tạo, thậm chí còn sai lầm. Tư duy lý luận (được hiểu theo là cái “phủ định biện chứng” của tư duy kinh nghiệm) là tư duy dựa trên tri thức lý luận và phương pháp nhận thức khoa học [51, tr.21] Tri thức lý luận là tri thức được hình thành trên cơ sở khái quát tri thức kinh nghiệm nhờ sức mạnh của trừu tượng hóa và khái quát hóa của tư duy. Tri thức lý luận là những tri thức mang tính gián tiếp và khái quát cao do nó đã qua rất nhiều bước trung gian hóa, trừu tượng hóa. Tri thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất, trong những mối liên hệ mang tính quy luật của nó. Tri thức lý luận là tri thức được hệ thống hóa nên nó đem lại cái nhìn mang tính chỉnh thể bao quát, đầy đủ, toàn vẹn về đối tượng phản
ánh, nó đã tái tạo lại đối tượng như ban đầu song là ở cấp độ bản chất bên trong của chính
sự vật, hiện tượng.
Dựa trên một loại tri thức có rất nhiều vượt trội đó, tư duy lý luận giúp cho nhận
thức của con người thành nhận thức luận đích thực khi nhận thức ấy đem quy sự vận
động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự. do
đó, tư duy lý luận không những chỉ ra những phương hướng mới cho hoạt động thực tiễn
của con người mà còn làm cho hoạt động đó mang tính chủ động, tự giác sáng tạo
hơn.
Tư duy luận không chỉ duy bằng tri thức lý luận, còn là duy bằng
phương pháp khoa học. luận chứa đựng trong khả năng trở thành phương pháp,
nhưng bản thân luận tự nóchưa phải phương pháp. luận là lập trường, quan
điểm, nguyên lý, quy luật. Nhưng phương pháp lại là hệ thống những nguyên tắc, chuẩn
mực, yêu cầu, thao tác được rút ra từ những tri thức lý luận để điều chỉnh hoạt động của
con người nhằm những mục đích nhất định.
Nếu trong tư duy kinh nghiệm, các phương pháp và các thao tác lôgic được hình
thành một cách tự phát, dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc hoặc dựa trên những tri thức
kinh nghiệm, thì trong tư duy lý luận, các phương pháp được hình thành dựa trên những
tri thức lý luận và được nhận thức, sử dụng một cách chủ động, tự giác.
duy luận phát triển cùng với sự thay đổi của hội, khi tri thức của con
người càng hoàn thiện thì duy lý luận ngày càng sâu sắc n. Trong giai đoạn hiện
nay, tư duy lý luận chân chính, khoa học đó là tư duy lý luận mácxít. Về thực chất, tư duy
lý luận mácxít là tư duy biện chứng duy vật – một loại hình tư duy được hình thành trên
cơ sở đúc kết những tri thức tinh túy nhất của khoa học, nó là sản phẩm của sự kết tinh tư
duy nhân loại và chứa đựng trong đó hai thành tố, hai hạt nhân cơ bản và hợp lý của khoa
học hiện đại: duy vật và biện chứng. Hạt nhân của tư duy của tư duy lý luận mác - xít là
tư duy triết học mác - xít.
ở bất cứ thời đại nào, triết học đều cũng là kết tinh của trí tuệ nhân loại. Tư duy
triết học mácxít có những đặc trưng cơ bản: tính trừu tượng – khái quát cao; tính chỉnh
thể – bao quát cao; tính khoa học; tính gợi mở – sáng tạo; tính cách mạng. So với tư duy
ánh, nó đã tái tạo lại đối tượng như ban đầu song là ở cấp độ bản chất bên trong của chính sự vật, hiện tượng. Dựa trên một loại tri thức có rất nhiều vượt trội đó, tư duy lý luận giúp cho nhận thức của con người thành nhận thức lý luận đích thực khi nhận thức ấy đem quy sự vận động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự. Và do đó, tư duy lý luận không những chỉ ra những phương hướng mới cho hoạt động thực tiễn của con người mà còn làm cho hoạt động đó mang tính chủ động, tự giác và sáng tạo hơn. Tư duy lý luận không chỉ là tư duy bằng tri thức lý luận, mà còn là tư duy bằng phương pháp khoa học. Lý luận chứa đựng trong nó khả năng trở thành phương pháp, nhưng bản thân lý luận tự nó nó chưa phải là phương pháp. Lý luận là lập trường, quan điểm, nguyên lý, quy luật. Nhưng phương pháp lại là hệ thống những nguyên tắc, chuẩn mực, yêu cầu, thao tác được rút ra từ những tri thức lý luận để điều chỉnh hoạt động của con người nhằm những mục đích nhất định. Nếu trong tư duy kinh nghiệm, các phương pháp và các thao tác lôgic được hình thành một cách tự phát, dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc hoặc dựa trên những tri thức kinh nghiệm, thì trong tư duy lý luận, các phương pháp được hình thành dựa trên những tri thức lý luận và được nhận thức, sử dụng một cách chủ động, tự giác. Tư duy lý luận phát triển cùng với sự thay đổi của xã hội, khi tri thức của con người càng hoàn thiện thì tư duy lý luận ngày càng sâu sắc hơn. Trong giai đoạn hiện nay, tư duy lý luận chân chính, khoa học đó là tư duy lý luận mácxít. Về thực chất, tư duy lý luận mácxít là tư duy biện chứng duy vật – một loại hình tư duy được hình thành trên cơ sở đúc kết những tri thức tinh túy nhất của khoa học, nó là sản phẩm của sự kết tinh tư duy nhân loại và chứa đựng trong đó hai thành tố, hai hạt nhân cơ bản và hợp lý của khoa học hiện đại: duy vật và biện chứng. Hạt nhân của tư duy của tư duy lý luận mác - xít là tư duy triết học mác - xít. ở bất cứ thời đại nào, triết học đều cũng là kết tinh của trí tuệ nhân loại. Tư duy triết học mácxít có những đặc trưng cơ bản: tính trừu tượng – khái quát cao; tính chỉnh thể – bao quát cao; tính khoa học; tính gợi mở – sáng tạo; tính cách mạng. So với tư duy
của các nhà khoa học khác, tư duy triết học bao giờ cũng đạt đến trình độ cao nhất về mặt
trừu tượng, khái quát. Sở dĩ tư duy triết học đạt đến trình độ đó bởi lẽ triết học chính
khái quát của sự khái quát, nó là kết tinh từ sự kết tinh. Khi đạt đến trình độ trừu tượng –
khái quát hóa cao nhất thì đồng thời tư duy triết học cũng mang tính chỉnh thể – bao quát
nhất. Điều đó thể hiện qua các phạm trù triết học những công cụ, phương tiện hoạt
động chủ yếu của tư duy triết học. Các khái quát của tư duy triết học mácxít là khái quát
khoa học mang tính chân lý, bởi vì nó không phải là sự tư biện chủ quan mà là phản ánh
của hiện thực khách quan. Thêm vào đó, tư duy triết học mácxít chỉ có thể có được khi nó
được đúc kết từ sự khái quát những thành tựu của khoa học. Và vì thế, nó mang tính phổ
quát, chung nhất, từ đó, đưa ra những gợi mở, tiên đoán khoa học. Tính chất cách mạng
của triết học biểu hiện ba cấp độ: phê phán, tự phê phán phản phê phán. Tính phê
phán này làm cho tư duy lý luận mácxít thể hiện rõ nhất bản chất cách mạng của mình.
Chính những đặc trưng trên làm cho tư duy triết học mácxít, thứ nhất, là hình
thức tư duy cao nhất trong lịch sử tư duy nhân loại; thứ hai, nó có thể đóng vai trò là thế
giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chung nhất của mọi loại hình duy; thứ
ba, những đặc trưng này m cho duy triết học mácxít có được không chỉ không
phải chủ yếu là ở sự thuyết minh, chứng minh mà căn bản là ở sự phát hiện, phát minh.
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận
Năng lực duy luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức
luận được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình, những bài viết đề
cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận, từ đó làm sâu sắc thêm
lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay. Khái niệm ng lực tư duy luận được tiếp cận và được
hiểu năng lực duy của con người cấp độ luận. Điều này giúp phân biệt khái
niệm năng lực tư duy lý luận với khái niệm ng lực tư duy kinh nghiệm trên tiêu chí tiếp
cận với năng lực duy ở cấp độ phát triển; và phân biệt với những khái niệm đồng cấp
khác như: năng lực tư duy thực hành, năng lực tư duy hình tượng.
Năng lực được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất, “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”; thứ hai, “phẩm chất tâm lý sinh
của các nhà khoa học khác, tư duy triết học bao giờ cũng đạt đến trình độ cao nhất về mặt trừu tượng, khái quát. Sở dĩ tư duy triết học đạt đến trình độ đó bởi lẽ triết học chính là khái quát của sự khái quát, nó là kết tinh từ sự kết tinh. Khi đạt đến trình độ trừu tượng – khái quát hóa cao nhất thì đồng thời tư duy triết học cũng mang tính chỉnh thể – bao quát nhất. Điều đó thể hiện qua các phạm trù triết học – những công cụ, phương tiện hoạt động chủ yếu của tư duy triết học. Các khái quát của tư duy triết học mácxít là khái quát khoa học mang tính chân lý, bởi vì nó không phải là sự tư biện chủ quan mà là phản ánh của hiện thực khách quan. Thêm vào đó, tư duy triết học mácxít chỉ có thể có được khi nó được đúc kết từ sự khái quát những thành tựu của khoa học. Và vì thế, nó mang tính phổ quát, chung nhất, từ đó, đưa ra những gợi mở, tiên đoán khoa học. Tính chất cách mạng của triết học biểu hiện ở ba cấp độ: phê phán, tự phê phán và phản phê phán. Tính phê phán này làm cho tư duy lý luận mácxít thể hiện rõ nhất bản chất cách mạng của mình. Chính những đặc trưng trên làm cho tư duy triết học mácxít, thứ nhất, là hình thức tư duy cao nhất trong lịch sử tư duy nhân loại; thứ hai, nó có thể đóng vai trò là thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chung nhất của mọi loại hình tư duy; thứ ba, những đặc trưng này làm cho tư duy triết học mácxít có được không chỉ và không phải chủ yếu là ở sự thuyết minh, chứng minh mà căn bản là ở sự phát hiện, phát minh. 1.1.2. Năng lực tư duy lý luận Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức luận được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình, những bài viết đề cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận, từ đó làm sâu sắc thêm lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay. Khái niệm năng lực tư duy lý luận được tiếp cận và được hiểu là năng lực tư duy của con người ở cấp độ lý luận. Điều này giúp phân biệt khái niệm năng lực tư duy lý luận với khái niệm năng lực tư duy kinh nghiệm trên tiêu chí tiếp cận với năng lực tư duy ở cấp độ phát triển; và phân biệt với những khái niệm đồng cấp khác như: năng lực tư duy thực hành, năng lực tư duy hình tượng. Năng lực được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất, “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”; thứ hai, “phẩm chất tâm lý và sinh
lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”
[64, tr.656]. duy giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất, phát
hiện ra những quy luật của sự vật, hiện tượng. Cho nên, năng lực tư duy chính khả
năng, tập hợp những phẩm chất sinh và tâm lý của chủ thể đáp ứng cho nhu cầu nhận
thức thế giới của con người. Hoạt động duy không chỉ dừng lại ở mức độ chép lại,
chụp lại mà tư duy còn mang tính sáng tạo, đây không những là cơ sở giúp con người có
thể hoạt động thực tiễn một cách hiệu quả, giúp cho con người tạo ra những cái
không có sẵn, hình thành tự nhiên thứ hai của mình. Năng lực tư duy "được biểu hiện ở
khuynh hướng nhận thức và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt
động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của
năng lực tư duy" [27, tr.48].
Năng lực tư duy cũng chính là khả năng vận dụng, huy động tri thức của con
người. Chủ thể tư duythể biểu thị tri thức của mình thành phương pháp và sử dụng
thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng phát triển
tất yếu của sự vật, hiện tượng và vận dụng đúng đắn những quy luật ấy vào cuộc sống.
"Năng lực duy tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái
quát hóa, liên tưởng, luận giải xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và
vận dụng chúng vào thực tiễn trên sở quy luật khách quan mang lại những kết quả
nhất định" [54, tr.14-15]. Khác với năng lực cảm giác, năng lực tư duy được cấu thành
từ ba yếu tố cơ bản, đó là: thứ nhất, năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn
ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; thứ hai, năng lực trừu tượng
hóa, khái quát hóa trong phân tích tổng hợp; thứ ba, năng lực tưởng tượng suy luận,
liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động.
Tư duy chính là một trình độ cao của quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc
tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của đối tượng mà trước đó chưa biết. Tư
duy bao giờ cũng mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó, quá
trình hoạt động của duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau như phân tích,
tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, so sánh ... phải tuân theo một trật tự lôgic
nhất định. Trong quá trình hoạt động của tư duy, những phương pháp ấy không nhất thiết
lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [64, tr.656]. Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản chất, phát hiện ra những quy luật của sự vật, hiện tượng. Cho nên, năng lực tư duy chính là khả năng, tập hợp những phẩm chất sinh lý và tâm lý của chủ thể đáp ứng cho nhu cầu nhận thức thế giới của con người. Hoạt động tư duy không chỉ dừng lại ở mức độ chép lại, chụp lại mà tư duy còn mang tính sáng tạo, đây không những là cơ sở giúp con người có thể hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả, mà giúp cho con người tạo ra những cái không có sẵn, hình thành tự nhiên thứ hai của mình. Năng lực tư duy "được biểu hiện ở khuynh hướng nhận thức và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết quả hoạt động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác nhau của năng lực tư duy" [27, tr.48]. Năng lực tư duy cũng chính là khả năng vận dụng, huy động tri thức của con người. Chủ thể tư duy có thể biểu thị tri thức của mình thành phương pháp và sử dụng thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng phát triển tất yếu của sự vật, hiện tượng và vận dụng đúng đắn những quy luật ấy vào cuộc sống. "Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển tri thức và vận dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những kết quả nhất định" [54, tr.14-15]. Khác với năng lực cảm giác, năng lực tư duy được cấu thành từ ba yếu tố cơ bản, đó là: thứ nhất, năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh bằng ngôn ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; thứ hai, năng lực trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp; thứ ba, năng lực tưởng tượng suy luận, liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành động. Tư duy chính là một trình độ cao của quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của đối tượng mà trước đó chưa biết. Tư duy bao giờ cũng mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó, quá trình hoạt động của tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau như phân tích, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, so sánh ... và phải tuân theo một trật tự lôgic nhất định. Trong quá trình hoạt động của tư duy, những phương pháp ấy không nhất thiết
phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự mà thể chúng đồng thời được tiến hành
trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy nội
dung tác dụng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác. Phương
pháp này điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi
phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải trừu tượng hóa để tách
cái chung khỏi cái riêng v.v... Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo
những cách thức đặc trưng của thì cũng được xem một thao tác của quá trình
duy. Như vậy, quá trình duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi
phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự phù hợp với lôgíc
vốn có của đối tượng nhận thức.
Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy lý.
Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau giữ vai trò quan trọng trong duy
khoa học. Chính vì thế, năng lực duy còn thể hiện năng lực lựa chọn các vấn đề
liên quan để liên kết các hình thức tư duy tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn,
năng lực lựa chọn các khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán
đoán để suy đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy bao
gồm cnăng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức duy và khả
năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức duy theo
những cách thức, tác dụng riêng của cho phù hợp với tính quy định khách quan của
các đối tượng nhận thức.
Năng lực tư duy khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội
dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây dựng được những phương án
tối ưu để giải quyết vấn đề đó.
Năng lực duy thường được tiếp cận các kiểu: Năng lực tư duy thực hành,
năng lực duy hình tượng năng lực duy luận... Xét theo cấp độ phát triển của
năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý
luận. Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư duy
luận khả năng duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng
trong tính chỉnh thể của stồn tại, vận động phát triển. Đó khả năng duy khoa
phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự mà có thể chúng đồng thời được tiến hành trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy có nội dung tác dụng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác. Phương pháp này là điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn khi phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng hóa để tách cái chung khỏi cái riêng v.v... Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành theo những cách thức đặc trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình tư duy. Như vậy, quá trình tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự phù hợp với lôgíc vốn có của đối tượng nhận thức. Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy lý. Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò quan trọng trong tư duy khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa chọn các vấn đề có liên quan để liên kết các hình thức tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định. Chẳng hạn, năng lực lựa chọn các khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các phán đoán để có suy lý đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy bao gồm cả năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và khả năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư duy theo những cách thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy định khách quan của các đối tượng nhận thức. Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây dựng được những phương án tối ưu để giải quyết vấn đề đó. Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các kiểu: Năng lực tư duy thực hành, năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét theo cấp độ phát triển của năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư duy lý luận. Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư duy lý luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối tượng trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng tư duy khoa
học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ,
lôgíc và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa, năng lực
tư duyluận còn sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục
tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng
xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức.
Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù dùng để chỉ
những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của duy. Trình độ tư duy trình độ
trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp, là trình độ tưởng tượng, phán
đoán, suy để liên tưởng phát hiện, khám phá lựa chọn, xử trong nhận thức
hành động. Còn năng lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng,
luận giải... Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng lực tư
duy. Vì thế, thể hiểu trình độ duy như cấp độ của khả năng hoạt động nhạy bén
của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các yếu tố đó như
là những phương pháp duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực duy và trình
độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư duy như thế
ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt đến
trình độ tư duy lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy
luận. Từ những phân tích trên thể xem, năng lực duy luận tổng hợp các
phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng
đắn đối với hiện thực trình độ luận, nhờ vậy, những đề xuất sắc bén, sáng tạo,
thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người.
1.2. Vai trò của năng lực duy luận đối với hoạt động của cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh
1.2.1. Đặc trưng hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
1.2.1.1. Hoạt động lãnh đạo
học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc, chặt chẽ, lôgíc và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa, năng lực tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận thành mục tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có hiệu quả cao. Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức, khả năng xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức. Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù dùng để chỉ những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình độ tư duy là trình độ trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp, là trình độ tưởng tượng, phán đoán, suy lý để liên tưởng và phát hiện, khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận thức và hành động. Còn năng lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa, liên tưởng, luận giải... Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện năng lực tư duy. Vì thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động nhạy bén của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các yếu tố đó như là những phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực tư duy và trình độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư duy như thế ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt đến trình độ tư duy lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực tư duy lý luận. Từ những phân tích ở trên có thể xem, năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén, sáng tạo, thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người. 1.2. Vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh 1.2.1. Đặc trưng hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh 1.2.1.1. Hoạt động lãnh đạo
Khái niệm "cán bộ lãnh đạo" nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ trách
một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Do vậy, cán bộ lãnh đạo
có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, quyết định liên quan tới tổ chức,
đơn vị, phong trào mà họ phụ trách. Cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn dắt, tổ chức phong
trào theo một hướng đi cụ thể. Họ là những người điều hành, chỉ đạo thông qua các quyết
định. Chính họ cũng là người điều chỉnh những quyết định sao cho phù hợp với điều kiện
thực tiễn.
Hoạt động lãnh đạo hoạt động điều khiển mang tính định hướng, đối với đối
tượng lãnh đạo bằng các phương pháp như ra lệnh, động viên, giáo dục, thuyết phục
nhằm đạt mục tiêu nhất định. Như vậy, hoạt động lãnh đạo có thể hiểu là: “đề ra chủ
trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện” [64, tr.540]. Điều đó đòi hỏi chủ thể
lãnh đạo phải đạt được một trình độ nhất định về năng lực tư duy lý luận. Bởi lẽ, cùng với
các yếu tố khác, trình độ đó có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng,
hiệu lực, hiệu quả của công tác lãnh đạo.
Hoạt động lãnh đạo bản chất sự tác động, định hướng, điều chỉnh hành vi
đối với đối tượng lãnh đạo – cũng là con người với nhu cầu, lợi ích, tính cảm … – nhằm
đạt tới một mục tiêu nhất định. Chính vậy, chủ thể lãnh đạo, một mặt phải am hiểu
công việc, mặt khác phải am hiểu con người – đối tượng lãnh đạo. Chỉ trên cơ sở đó, hoạt
động lãnh đạo mới có hiệu quả.
Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước như: thu thập và xử thông tin;
ra quyết định; sử dụng cơ quan tham mưu, chuyên gia (phòng, ban chuyên môn) tổ chức
thực hiện các quyết định; tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các quyết định để
chuẩn bị cho việc ra quyết định tiếp theo. Do đó, mặt hiện hữu của năng lực lãnh đạo
tổ chức hoạt động thực tiễn, còn cái ẩn giấu vào bên trong chính là mặt năng lực tư duy lý
luận. vậy, nhà lãnh đạo khác với nhà khoa học. Nhà khoa học hoạt động chính
nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện, nêu ra lý thuyết, lý luận, vạch ra phương án thực
hành, ứng dụng. Người lãnh đạo cũng là người lao động trí óc dù ở họ không phải là lao
động tìm tòi, tạo ra lý luận khoa học mà chủ yếu là lao động cụ thể hóa, hiện thực hóa
luận. Nhưng để thể hiện thực hóa luận đòi hỏi họ phải suy nghĩ, nghiên cứu phát
Khái niệm "cán bộ lãnh đạo" nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Do vậy, cán bộ lãnh đạo có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, quyết định liên quan tới tổ chức, đơn vị, phong trào mà họ phụ trách. Cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn dắt, tổ chức phong trào theo một hướng đi cụ thể. Họ là những người điều hành, chỉ đạo thông qua các quyết định. Chính họ cũng là người điều chỉnh những quyết định sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Hoạt động lãnh đạo là hoạt động điều khiển mang tính định hướng, đối với đối tượng lãnh đạo bằng các phương pháp như ra lệnh, động viên, giáo dục, thuyết phục … nhằm đạt mục tiêu nhất định. Như vậy, hoạt động lãnh đạo có thể hiểu là: “đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện” [64, tr.540]. Điều đó đòi hỏi chủ thể lãnh đạo phải đạt được một trình độ nhất định về năng lực tư duy lý luận. Bởi lẽ, cùng với các yếu tố khác, trình độ đó có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác lãnh đạo. Hoạt động lãnh đạo có bản chất là sự tác động, định hướng, điều chỉnh hành vi đối với đối tượng lãnh đạo – cũng là con người với nhu cầu, lợi ích, tính cảm … – nhằm đạt tới một mục tiêu nhất định. Chính vì vậy, chủ thể lãnh đạo, một mặt phải am hiểu công việc, mặt khác phải am hiểu con người – đối tượng lãnh đạo. Chỉ trên cơ sở đó, hoạt động lãnh đạo mới có hiệu quả. Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước như: thu thập và xử lý thông tin; ra quyết định; sử dụng cơ quan tham mưu, chuyên gia (phòng, ban chuyên môn) tổ chức thực hiện các quyết định; tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các quyết định để chuẩn bị cho việc ra quyết định tiếp theo. Do đó, mặt hiện hữu của năng lực lãnh đạo là tổ chức hoạt động thực tiễn, còn cái ẩn giấu vào bên trong chính là mặt năng lực tư duy lý luận. Vì vậy, nhà lãnh đạo khác với nhà khoa học. Nhà khoa học hoạt động chính là nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện, nêu ra lý thuyết, lý luận, vạch ra phương án thực hành, ứng dụng. Người lãnh đạo cũng là người lao động trí óc dù ở họ không phải là lao động tìm tòi, tạo ra lý luận khoa học mà chủ yếu là lao động cụ thể hóa, hiện thực hóa lý luận. Nhưng để có thể hiện thực hóa lý luận đòi hỏi họ phải suy nghĩ, nghiên cứu phát
hiện các tình huống thực tiễn cụ thể, trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp giải quyết tình
huống, ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định thông qua hoạt động tập thể hoặc
nhân.
Hoạt động lãnh đạo khác hoạt động quản lý. Quản được hiểu là: “tổ chức
điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [64, tr.789]. Như vậy, quản
cũng hoạt động ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích c định.
Quản lý về cơ bản có những chức năng như: lập kế hoạch, tổ chức bộ máy, chỉ đạo, thực
hiện sự phối hợp và kiểm soát nguồn lực. Trong nhiều trường hợp cthể, chức năng,
nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý thống nhất với nhau, trùng lặp nhau. Sự
phân biệt giữa lãnh đạo và quản chỉ tính tương đối. Tất nhiên, về bản chất, hoạt
động lãnh đạo và quản những điểm khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện
nhất ở mục tiêu, nội dung, về phương pháp phương tiện. Hoạt động quản nhằm tổ
chức, sắp xếp, chỉ đạo các hoạt động thuộc phạm vi quản theo một quy trình, trật t
nhất định. Trong khi đó, hoạt động lãnh đạo nhằm mục tiêu định hướng chung. Nội
dung chủ yếu của lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chung cũng như phương hướng
chung để thực hiện chủ trương, đường lối đó. Đồng thời kiểm tra việc thực hiện chủ
trương, đường lối đó cũng như điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương, đường lối sao cho phù
hợp với thực tiễn. Trong khi đó, nội dung của quản lý là đề ra được các chỉ tiêu, kế hoạch
cụ thể, các hình, phương án thực hiện rất cụ thể để đạt hiệu quả trong tổ chức thực
hiện. Về phương pháp, phương tiện thì lãnh đạo bản động viên, thuyết phục, giáo
dục đối tượng lãnh đạo. Trong khi đó thì quản lý chủ yếu lại dùng mệnh lệnh có tính chất
bắt buộc. ở nước ta, lãnh đạo không tách rời quản lý, quản lý không tách rời lãnh đạo. Có
thể nói, lãnh đạo là khâu quan trọng của quản lý, làm cơ sở, tiền đề cho quản lý, còn quản
lý là quá trình hiện thực hóa đường lối lãnh đạo, giúp lãnh đạo đạt hiệu quả tối ưu nhất.
Như vậy, có thể thấy rằng, người lãnh đạo phải là người có đạo đức, có trình độ
luận am hiểu thực tiễn. Họ người góp phần xây dựng, đồng thời cũng người
vận dụng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào những lĩnh vực cụ
thể, biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Do vậy, đối với người lãnh đạo, năng
lực vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
hiện các tình huống thực tiễn cụ thể, trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp giải quyết tình huống, ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định thông qua hoạt động tập thể hoặc cá nhân. Hoạt động lãnh đạo khác hoạt động quản lý. Quản lý được hiểu là: “tổ chức và điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [64, tr.789]. Như vậy, quản lý cũng là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích xác định. Quản lý về cơ bản có những chức năng như: lập kế hoạch, tổ chức bộ máy, chỉ đạo, thực hiện sự phối hợp và kiểm soát nguồn lực. Trong nhiều trường hợp cụ thể, chức năng, nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý thống nhất với nhau, trùng lặp nhau. Sự phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý chỉ có tính tương đối. Tất nhiên, về bản chất, hoạt động lãnh đạo và quản lý có những điểm khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện rõ nhất ở mục tiêu, nội dung, về phương pháp và phương tiện. Hoạt động quản lý nhằm tổ chức, sắp xếp, chỉ đạo các hoạt động thuộc phạm vi quản lý theo một quy trình, trật tự nhất định. Trong khi đó, hoạt động lãnh đạo là nhằm mục tiêu định hướng chung. Nội dung chủ yếu của lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chung cũng như phương hướng chung để thực hiện chủ trương, đường lối đó. Đồng thời kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối đó cũng như điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương, đường lối sao cho phù hợp với thực tiễn. Trong khi đó, nội dung của quản lý là đề ra được các chỉ tiêu, kế hoạch cụ thể, các mô hình, phương án thực hiện rất cụ thể để đạt hiệu quả trong tổ chức thực hiện. Về phương pháp, phương tiện thì lãnh đạo cơ bản là động viên, thuyết phục, giáo dục đối tượng lãnh đạo. Trong khi đó thì quản lý chủ yếu lại dùng mệnh lệnh có tính chất bắt buộc. ở nước ta, lãnh đạo không tách rời quản lý, quản lý không tách rời lãnh đạo. Có thể nói, lãnh đạo là khâu quan trọng của quản lý, làm cơ sở, tiền đề cho quản lý, còn quản lý là quá trình hiện thực hóa đường lối lãnh đạo, giúp lãnh đạo đạt hiệu quả tối ưu nhất. Như vậy, có thể thấy rằng, người lãnh đạo phải là người có đạo đức, có trình độ lý luận và am hiểu thực tiễn. Họ là người góp phần xây dựng, đồng thời cũng là người vận dụng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào những lĩnh vực cụ thể, biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Do vậy, đối với người lãnh đạo, năng lực vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và
nắm bắt yêu cầu thực tiễn của địa phương để ra các quyết định đúng đắn là rất quan trọng.
Do đó, họ vẫn rất cần phải có năng lực tư duy lý luận, năng lực đó giúp họ nghiên cứu thực
tiễn, nắm bắt và vận dụng đường lối của Đảng để tổ chức thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm
thực tiễn và vận dụng kinh nghiệm ấy vào hoạt động thực tiễn.
1.2.1.2. Hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
Hoạt động của chủ thể lãnh đạo về bản chất là có sự giống nhau ở các cấp; nhưng có
sự khác nhau về hình thức, mức độ, phạm vi vành vực hoạt động.
Trong hệ thống hành chính bốn cấp của nước ta hiện nay (Trung ương; tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương; thành phố, thị xã, quận, huyện trực thuộc tỉnh và xã, phường,
thị trấn), cấp tỉnh có vai trò đặc biệt quan trọng xét trên nhiều phương diện của đời sống kinh
tế – xã hội cũng như trong các mối quan hệ nhiều chiều cạnh của sự phát triển. Cấp tỉnh là
cấp gắn trực tiếp với Trung ương, là mắt khâu đầu tiên để chủ trương, đường lối, chính sách
của Trung ương đến với địa phương. Tỉnh là gạch nối giữa Trung ương và địa phương. Đội
ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải ra được các quyết định phản ánh đúng chủ trương,
đường lối, chính sách của Trung ương, đồng thời phải phù hợp với thực tiễn địa bàn tỉnh
mà họ phụ trách.
ở Việt Nam, hoạt động của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như thế nào sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến bộ mặt quốc gia như thế ấy. Vì vậy, chất lượng lãnh đạo của cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ý nghĩa cùng to lớn đến việc tổ chức thực hiện, triển
khai các nghị quyết của Trung ương xuống cơ sở. Chủ trương, đường lối, chính sách của
Trung ương có được triển khai, tổ chức thực hiện được ở cấp dưới hay không phụ thuộc
rất nhiều vào hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ này. Hơn nữa, tỉnh là địa bàn tổng kết
thực tiễn tương đối quy mô, đủ để phát hiện những vấn đề nảy sinh, giúp Trung ương
nghiên cứu; bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối, chủ trương khái quát thành
luận cho phù hợp với thực tiễn mới. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện cũng phải bao
quát tất cả các mặt kinh tế – xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng… Tuy nhiên, phạm vi
mức độ bao quát của họ trên địa bàn hẹp hơn, quy nhỏ hơn rất nhiều so với cấp
tỉnh.
nắm bắt yêu cầu thực tiễn của địa phương để ra các quyết định đúng đắn là rất quan trọng. Do đó, họ vẫn rất cần phải có năng lực tư duy lý luận, năng lực đó giúp họ nghiên cứu thực tiễn, nắm bắt và vận dụng đường lối của Đảng để tổ chức thực tiễn, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và vận dụng kinh nghiệm ấy vào hoạt động thực tiễn. 1.2.1.2. Hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh Hoạt động của chủ thể lãnh đạo về bản chất là có sự giống nhau ở các cấp; nhưng có sự khác nhau về hình thức, mức độ, phạm vi và lĩnh vực hoạt động. Trong hệ thống hành chính bốn cấp của nước ta hiện nay (Trung ương; tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; thành phố, thị xã, quận, huyện trực thuộc tỉnh và xã, phường, thị trấn), cấp tỉnh có vai trò đặc biệt quan trọng xét trên nhiều phương diện của đời sống kinh tế – xã hội cũng như trong các mối quan hệ nhiều chiều cạnh của sự phát triển. Cấp tỉnh là cấp gắn trực tiếp với Trung ương, là mắt khâu đầu tiên để chủ trương, đường lối, chính sách của Trung ương đến với địa phương. Tỉnh là gạch nối giữa Trung ương và địa phương. Đội ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải ra được các quyết định phản ánh đúng chủ trương, đường lối, chính sách của Trung ương, đồng thời phải phù hợp với thực tiễn địa bàn tỉnh mà họ phụ trách. ở Việt Nam, hoạt động của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như thế nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến bộ mặt quốc gia như thế ấy. Vì vậy, chất lượng lãnh đạo của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có ý nghĩa vô cùng to lớn đến việc tổ chức thực hiện, triển khai các nghị quyết của Trung ương xuống cơ sở. Chủ trương, đường lối, chính sách của Trung ương có được triển khai, tổ chức thực hiện được ở cấp dưới hay không phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ này. Hơn nữa, tỉnh là địa bàn tổng kết thực tiễn tương đối có quy mô, đủ để phát hiện những vấn đề nảy sinh, giúp Trung ương nghiên cứu; bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối, chủ trương và khái quát thành lý luận cho phù hợp với thực tiễn mới. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện cũng phải bao quát tất cả các mặt kinh tế – xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng… Tuy nhiên, phạm vi và mức độ bao quát của họ trên địa bàn hẹp hơn, quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với cấp tỉnh.