LUẬN VĂN: Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung bộ
3,740
458
96
kết quả của nhận thức đó. Nhờ thế mà con người có thể sáng tạo ra những khái
niệm và
những phạm trù khoa học, nêu lên những quy luật của các khoa học và vì vậy mà
hiểu sâu
sắc hơn bản chất của các sự vật. Nếu không có ngôn ngữ sẽ không có phương tiện
để tư duy
và tư tưởng của loài người không thể lưu giữ, kế thừa và phát triển được.
Thế giới vô cùng, vô tận (cả về bề rộng lẫn chiều sâu), thực tiễn thì luôn luôn
mới,
điều đó đòi hỏi tư duy phải luôn năng động, sáng tạo phát hiện ra những cái mới,
những tình
huống có vấn đề trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn, đưa ra những giải
đáp đáp
ứng cho nhu cầu cuộc sống. Vì vậy, tư duy là một quá trình vô tận, vận động và
phát triển
không ngừng. Tư duy của con người không thể bất biến mà nó cũng có quá trình
biến đổi và
phát triển ngày càng đạt được trình độ cao hơn. Khi xem xét tư duy như một quá
trình,
một bản tính phát triển chung của con người thực tiễn xã hội, tư duy thể hiện ra
khuynh
hướng phát triển tất yếu của nó. Tư duy con người theo Ăngghen vừa tối cao vừa
không tối
cao. Xét theo sự thực hiện cá biệt - chủ thể cụ thể của tư duy thì nó không tối
cao và có
hạn. Xét theo bản tính và khả năng thì tư duy của con người là tối cao và vô
hạn. Chủ
nghĩa Mác - Lênin khi đề cập về khả năng nhận thức của con người đã cho rằng,
chỉ có
những cái con người chưa biết chứ không có những cái mà con người không thể
biết.
Tư duy là sản phẩm của lịch sử, nó xuất hiện trong lịch sử, qua quá trình hoạt
động thực tiễn của con người. Tư duy không xuất hiện trên mảnh đất trống không
mà nó
chính là sự kết hợp giữa sự kế thừa các lối tư duy truyền thống với lối tư duy
trong hoàn
cảnh của thực tại. Điều đó thể hiện rằng, trong những thời đại khác nhau, với
những điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, khoa học... khác nhau, thì trình độ
của tư duy xét
cả về nội dung và hình thức cũng ở mức cao, thấp khác nhau; và cũng lý giải tại
sao ở
những giai đoạn khác nhau của xã hội mà lại còn mang dấu ấn phong cách tư duy
của
thời đại trước đó.
Trong những hoàn cảnh cụ thể, năng lực và trình độ tư duy có thể mang lại kết
quả
nhất định trong hoạt động của con người. Nhìn chung, trình độ tư duy được xem
xét ở các
cấp độ như tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận.
Tư duy kinh nghiệm là một lối tư duy, một trình độ tư duy của con người. Nó
cũng thể hiện năng lực trừu tượng hóa của trí tuệ con người, nhưng còn ở trình
độ thấp.
Bằng tư duy kinh nghiệm, xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, người ta cũng có thể
rút ra
những kết luận khá chính xác về sự vật, hiện tượng riêng lẻ, nhưng chưa thể khái
quát
được những mối liên hệ căn bản giữa các sự vật, hiện tượng. Tư duy kinh nghiệm,
do đó,
là tư duy tiền khoa học, tiền lý luận.
Tư duy kinh nghiệm là lối tư duy cụ thể, thiết thực của những người ít hoặc
không am hiểu lý luận, khoa học; của các thế hệ trong các dân tộc chưa trãi qua
giai
đoạn phát triển chủ nghĩa duy lý, phát triển tư duy lý luận khoa học. Tư duy
kinh
nghiệm hướng vào những cái cụ thể, nhưng cái cụ thể ở đây là cái cụ thể trực
quan,
cảm tính, vụn vặt, lẻ tẻ. Do đó, kết quả của nhận thức là cái cụ thể, nhưng là
cái cụ thể
chưa vươn cao hơn cái cụ thể cảm tính và chưa phải là cái cụ thể trong tư duy
theo
đúng nghĩa khoa học và đầy đủ của nó.
Tư duy kinh nghiệm là lối tư duy, suy nghĩ chủ yếu dựa trên kinh nghiệm về cả
nội dung lẫn phương pháp. Những chất liệu được sử dụng trong tư duy, lập luận
chỉ là
những tri thức kinh nghiệm rất hạn chế: hời hợt, giản đơn, vụn vặt, đơn nhất,
nhưng lại
được coi như là cái chung, cái phổ biến, cái bản chất, cái quy luật. Còn về
phương pháp
và các thao tác của tư duy thì dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc, những lối mòn
được
hình thành một cách tự phát, vừa cứng nhắc, vừa không khoa học, vừa không lôgic.
Tư
duy dừng lại ở trình độ đó không những không thể nói đến sự sáng tạo, thậm chí
còn sai
lầm.
Tư duy lý luận (được hiểu theo là cái “phủ định biện chứng” của tư duy kinh
nghiệm) là tư duy dựa trên tri thức lý luận và phương pháp nhận thức khoa học
[51,
tr.21]
Tri thức lý luận là tri thức được hình thành trên cơ sở khái quát tri thức kinh
nghiệm nhờ sức mạnh của trừu tượng hóa và khái quát hóa của tư duy. Tri thức lý
luận là
những tri thức mang tính gián tiếp và khái quát cao do nó đã qua rất nhiều bước
trung
gian hóa, trừu tượng hóa. Tri thức lý luận phản ánh hiện thực trong bản chất,
trong những
mối liên hệ mang tính quy luật của nó. Tri thức lý luận là tri thức được hệ
thống hóa nên
nó đem lại cái nhìn mang tính chỉnh thể bao quát, đầy đủ, toàn vẹn về đối tượng
phản
ánh, nó đã tái tạo lại đối tượng như ban đầu song là ở cấp độ bản chất bên trong
của chính
sự vật, hiện tượng.
Dựa trên một loại tri thức có rất nhiều vượt trội đó, tư duy lý luận giúp cho
nhận
thức của con người thành nhận thức lý luận đích thực khi nhận thức ấy đem quy sự
vận
động bề ngoài chỉ biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
Và do
đó, tư duy lý luận không những chỉ ra những phương hướng mới cho hoạt động thực
tiễn
của con người mà còn làm cho hoạt động đó mang tính chủ động, tự giác và sáng
tạo
hơn.
Tư duy lý luận không chỉ là tư duy bằng tri thức lý luận, mà còn là tư duy bằng
phương pháp khoa học. Lý luận chứa đựng trong nó khả năng trở thành phương pháp,
nhưng bản thân lý luận tự nó nó chưa phải là phương pháp. Lý luận là lập trường,
quan
điểm, nguyên lý, quy luật. Nhưng phương pháp lại là hệ thống những nguyên tắc,
chuẩn
mực, yêu cầu, thao tác được rút ra từ những tri thức lý luận để điều chỉnh hoạt
động của
con người nhằm những mục đích nhất định.
Nếu trong tư duy kinh nghiệm, các phương pháp và các thao tác lôgic được hình
thành một cách tự phát, dựa trên những nếp nghĩ quen thuộc hoặc dựa trên những
tri thức
kinh nghiệm, thì trong tư duy lý luận, các phương pháp được hình thành dựa trên
những
tri thức lý luận và được nhận thức, sử dụng một cách chủ động, tự giác.
Tư duy lý luận phát triển cùng với sự thay đổi của xã hội, khi tri thức của con
người càng hoàn thiện thì tư duy lý luận ngày càng sâu sắc hơn. Trong giai đoạn
hiện
nay, tư duy lý luận chân chính, khoa học đó là tư duy lý luận mácxít. Về thực
chất, tư duy
lý luận mácxít là tư duy biện chứng duy vật – một loại hình tư duy được hình
thành trên
cơ sở đúc kết những tri thức tinh túy nhất của khoa học, nó là sản phẩm của sự
kết tinh tư
duy nhân loại và chứa đựng trong đó hai thành tố, hai hạt nhân cơ bản và hợp lý
của khoa
học hiện đại: duy vật và biện chứng. Hạt nhân của tư duy của tư duy lý luận mác
- xít là
tư duy triết học mác - xít.
ở bất cứ thời đại nào, triết học đều cũng là kết tinh của trí tuệ nhân loại. Tư
duy
triết học mácxít có những đặc trưng cơ bản: tính trừu tượng – khái quát cao;
tính chỉnh
thể – bao quát cao; tính khoa học; tính gợi mở – sáng tạo; tính cách mạng. So
với tư duy
của các nhà khoa học khác, tư duy triết học bao giờ cũng đạt đến trình độ cao
nhất về mặt
trừu tượng, khái quát. Sở dĩ tư duy triết học đạt đến trình độ đó bởi lẽ triết
học chính là
khái quát của sự khái quát, nó là kết tinh từ sự kết tinh. Khi đạt đến trình độ
trừu tượng –
khái quát hóa cao nhất thì đồng thời tư duy triết học cũng mang tính chỉnh thể –
bao quát
nhất. Điều đó thể hiện qua các phạm trù triết học – những công cụ, phương tiện
hoạt
động chủ yếu của tư duy triết học. Các khái quát của tư duy triết học mácxít là
khái quát
khoa học mang tính chân lý, bởi vì nó không phải là sự tư biện chủ quan mà là
phản ánh
của hiện thực khách quan. Thêm vào đó, tư duy triết học mácxít chỉ có thể có
được khi nó
được đúc kết từ sự khái quát những thành tựu của khoa học. Và vì thế, nó mang
tính phổ
quát, chung nhất, từ đó, đưa ra những gợi mở, tiên đoán khoa học. Tính chất cách
mạng
của triết học biểu hiện ở ba cấp độ: phê phán, tự phê phán và phản phê phán.
Tính phê
phán này làm cho tư duy lý luận mácxít thể hiện rõ nhất bản chất cách mạng của
mình.
Chính những đặc trưng trên làm cho tư duy triết học mácxít, thứ nhất, là hình
thức tư duy cao nhất trong lịch sử tư duy nhân loại; thứ hai, nó có thể đóng vai
trò là thế
giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận chung nhất của mọi loại hình tư duy;
thứ
ba, những đặc trưng này làm cho tư duy triết học mácxít có được không chỉ và
không
phải chủ yếu là ở sự thuyết minh, chứng minh mà căn bản là ở sự phát hiện, phát
minh.
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận
Năng lực tư duy lý luận là một trong những phạm trù quan trọng của nhận thức
luận được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình, những bài
viết đề
cập đến bản chất, cấu trúc và vai trò của năng lực tư duy lý luận, từ đó làm sâu
sắc thêm
lý luận nhận thức và làm cơ sở lý luận cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo hiện nay. Khái niệm năng lực tư duy lý luận được tiếp cận và
được
hiểu là năng lực tư duy của con người ở cấp độ lý luận. Điều này giúp phân biệt
khái
niệm năng lực tư duy lý luận với khái niệm năng lực tư duy kinh nghiệm trên tiêu
chí tiếp
cận với năng lực tư duy ở cấp độ phát triển; và phân biệt với những khái niệm
đồng cấp
khác như: năng lực tư duy thực hành, năng lực tư duy hình tượng.
Năng lực được hiểu theo hai nghĩa, thứ nhất, “khả năng, điều kiện chủ quan hoặc
tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó”; thứ hai, “phẩm chất tâm lý
và sinh
lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất
lượng cao”
[64, tr.656]. Tư duy là giai đoạn cao của quá trình nhận thức, đi sâu vào bản
chất, phát
hiện ra những quy luật của sự vật, hiện tượng. Cho nên, năng lực tư duy chính là
khả
năng, tập hợp những phẩm chất sinh lý và tâm lý của chủ thể đáp ứng cho nhu cầu
nhận
thức thế giới của con người. Hoạt động tư duy không chỉ dừng lại ở mức độ chép
lại,
chụp lại mà tư duy còn mang tính sáng tạo, đây không những là cơ sở giúp con
người có
thể hoạt động thực tiễn một cách có hiệu quả, mà giúp cho con người tạo ra những
cái
không có sẵn, hình thành tự nhiên thứ hai của mình. Năng lực tư duy "được biểu
hiện ở
khuynh hướng nhận thức và hành động, ở kết quả xử lý thông tin và nhất là kết
quả hoạt
động. Phương pháp tiếp cận vấn đề khác nhau chính là biểu hiện trình độ khác
nhau của
năng lực tư duy" [27, tr.48].
Năng lực tư duy cũng chính là khả năng vận dụng, huy động tri thức của con
người. Chủ thể tư duy có thể biểu thị tri thức của mình thành phương pháp và sử
dụng
thành thạo chúng để tiếp tục nhận thức, tìm ra bản chất, quy luật, xu hướng phát
triển
tất yếu của sự vật, hiện tượng và vận dụng đúng đắn những quy luật ấy vào cuộc
sống.
"Năng lực tư duy là tổng hợp những khả năng ghi nhớ, tái hiện trừu tượng hóa,
khái
quát hóa, liên tưởng, luận giải và xử lý trong quá trình phản ánh, phát triển
tri thức và
vận dụng chúng vào thực tiễn trên cơ sở quy luật khách quan mang lại những kết
quả
nhất định" [54, tr.14-15]. Khác với năng lực cảm giác, năng lực tư duy được cấu
thành
từ ba yếu tố cơ bản, đó là: thứ nhất, năng lực ghi nhớ, tái hiện những hình ảnh
bằng ngôn
ngữ khái niệm, hình ảnh, do nhận thức cảm tính đem lại; thứ hai, năng lực trừu
tượng
hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp; thứ ba, năng lực tưởng tượng suy
luận,
liên tưởng để nhận biết, phát triển, lựa chọn xử lý trong nhận thức và hành
động.
Tư duy chính là một trình độ cao của quá trình nhận thức, phản ánh những thuộc
tính bản chất, những mối liên hệ có tính quy luật của đối tượng mà trước đó chưa
biết. Tư
duy bao giờ cũng mang tính khái quát và tính gián tiếp. Với những đặc trưng đó,
quá
trình hoạt động của tư duy phải dựa trên những phương pháp khác nhau như phân
tích,
tổng hợp, trừu tượng hóa, khái quát hóa, so sánh ... và phải tuân theo một trật
tự lôgic
nhất định. Trong quá trình hoạt động của tư duy, những phương pháp ấy không nhất
thiết
phải được kết hợp với nhau một cách tuần tự mà có thể chúng đồng thời được tiến
hành
trong sự tương hỗ lẫn nhau giữa các phương pháp. Bởi vì, mỗi phương pháp tuy có
nội
dung tác dụng khác nhau nhưng lại quan hệ chặt chẽ với các phương pháp khác.
Phương
pháp này là điều kiện, tiền đề để phương pháp khác phát huy hiệu quả. Chẳng hạn
khi
phân tích, tổng hợp các thuộc tính của sự vật thì đòi hỏi phải có trừu tượng hóa
để tách
cái chung khỏi cái riêng v.v... Tuy nhiên, mỗi phương pháp khi được tiến hành
theo
những cách thức đặc trưng của nó thì cũng được xem là một thao tác của quá trình
tư
duy. Như vậy, quá trình tư duy được tiến hành trong sự huy động sức mạnh của mỗi
phương pháp tư duy và sự kết hợp các phương pháp ấy theo một trật tự phù hợp với
lôgíc
vốn có của đối tượng nhận thức.
Quá trình tư duy được thể hiện ở các hình thức như khái niệm, phán đoán, suy lý.
Những hình thức này quan hệ mật thiết với nhau và giữ vai trò quan trọng trong
tư duy
khoa học. Chính vì thế, năng lực tư duy còn thể hiện ở năng lực lựa chọn các vấn
đề có
liên quan để liên kết các hình thức tư duy mà tìm ra các kết luận nhất định.
Chẳng hạn,
năng lực lựa chọn các khái niệm để hình thành một phán đoán đúng và liên kết các
phán
đoán để có suy lý đúng nhằm phát hiện khái niệm mới. Như vậy, năng lực tư duy
bao
gồm cả năng lực lựa chọn, sắp xếp, kết hợp các phương pháp, hình thức tư duy và
khả
năng sử dụng thành thạo, nhuần nhuyễn mỗi phương pháp, mỗi hình thức tư duy theo
những cách thức, tác dụng riêng của nó cho phù hợp với tính quy định khách quan
của
các đối tượng nhận thức.
Năng lực tư duy là khả năng sử dụng một cách thành thạo, nhuần nhuyễn cả nội
dung và phương pháp của tư duy để phát hiện vấn đề và xây dựng được những phương
án
tối ưu để giải quyết vấn đề đó.
Năng lực tư duy thường được tiếp cận ở các kiểu: Năng lực tư duy thực hành,
năng lực tư duy hình tượng và năng lực tư duy lý luận... Xét theo cấp độ phát
triển của
năng lực tư duy có thể phân ra thành năng lực tư duy kinh nghiệm và năng lực tư
duy lý
luận. Năng lực tư duy lý luận khác với năng lực tư duy kinh nghiệm. Năng lực tư
duy lý
luận là khả năng tư duy về những vấn đề chung, tổng thể, toàn vẹn, nắm bắt đối
tượng
trong tính chỉnh thể của sự tồn tại, vận động và phát triển. Đó là khả năng tư
duy khoa
học, sáng tạo trong sử dụng các khái niệm phạm trù để phân tích, so sánh, tổng
hợp, trừu
tượng hóa, khái quát hóa đem lại những tri thức mang tính chính xác, sâu sắc,
chặt chẽ,
lôgíc và hệ thống, phù hợp với tính quy luật khách quan của hiện thực. Hơn nữa,
năng lực
tư duy lý luận còn có sức mạnh đưa lý luận vào cuộc sống, cụ thể hóa lý luận
thành mục
tiêu, phương hướng, giải pháp cụ thể để giải quyết các vấn đề của cuộc sống có
hiệu quả cao.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận còn được thể hiện ở khả năng xác lập tri thức,
khả năng
xác lập quan hệ giữa các tri thức và khả năng đối tượng hóa tri thức.
Năng lực tư duy lý luận và trình độ tư duy lý luận là những phạm trù dùng để chỉ
những mặt của quá trình hoạt động thống nhất của tư duy. Trình độ tư duy là
trình độ
trừu tượng hóa, khái quát hóa trong phân tích và tổng hợp, là trình độ tưởng
tượng, phán
đoán, suy lý để liên tưởng và phát hiện, khám phá lựa chọn, xử lý trong nhận
thức và
hành động. Còn năng lực tư duy là bản thân sự trừu tượng hóa, khái quát hóa,
liên tưởng,
luận giải... Như vậy, trình độ tư duy gần với kết quả của quá trình rèn luyện
năng lực tư
duy. Vì thế, có thể hiểu trình độ tư duy như là cấp độ của khả năng hoạt động
nhạy bén
của các yếu tố cấu thành năng lực tư duy và khả năng liên kết sử dụng các yếu tố
đó như
là những phương pháp tư duy khoa học. Tuy vậy, sự phân biệt năng lực tư duy và
trình
độ tư duy chỉ là tương đối. Năng lực tư duy nào thì thể hiện một trình độ tư duy
như thế
ấy. Trình độ tư duy là mức độ đạt được về nội dung và phương pháp tư duy. Để đạt
đến
trình độ tư duy lý luận cao đòi hỏi phải không ngừng phấn đấu nâng cao năng lực
tư duy
lý luận. Từ những phân tích ở trên có thể xem, năng lực tư duy lý luận là tổng
hợp các
phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy,
đúng
đắn đối với hiện thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy, có những đề xuất sắc bén,
sáng tạo,
thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn
của
con người.
1.2. Vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp tỉnh
1.2.1. Đặc trưng hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
1.2.1.1. Hoạt động lãnh đạo
Khái niệm "cán bộ lãnh đạo" nhìn chung là chỉ những người đứng đầu, phụ trách
một tổ chức, đơn vị, phong trào nào đó do bầu cử hoặc chỉ định. Do vậy, cán bộ
lãnh đạo
có trách nhiệm đề ra những phương hướng, chủ trương, quyết định liên quan tới tổ
chức,
đơn vị, phong trào mà họ phụ trách. Cán bộ lãnh đạo còn là người dẫn dắt, tổ
chức phong
trào theo một hướng đi cụ thể. Họ là những người điều hành, chỉ đạo thông qua
các quyết
định. Chính họ cũng là người điều chỉnh những quyết định sao cho phù hợp với
điều kiện
thực tiễn.
Hoạt động lãnh đạo là hoạt động điều khiển mang tính định hướng, đối với đối
tượng lãnh đạo bằng các phương pháp như ra lệnh, động viên, giáo dục, thuyết
phục …
nhằm đạt mục tiêu nhất định. Như vậy, hoạt động lãnh đạo có thể hiểu là: “đề ra
chủ
trương, đường lối và tổ chức, động viên thực hiện” [64, tr.540]. Điều đó đòi hỏi
chủ thể
lãnh đạo phải đạt được một trình độ nhất định về năng lực tư duy lý luận. Bởi
lẽ, cùng với
các yếu tố khác, trình độ đó có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao chất
lượng,
hiệu lực, hiệu quả của công tác lãnh đạo.
Hoạt động lãnh đạo có bản chất là sự tác động, định hướng, điều chỉnh hành vi
đối với đối tượng lãnh đạo – cũng là con người với nhu cầu, lợi ích, tính cảm …
– nhằm
đạt tới một mục tiêu nhất định. Chính vì vậy, chủ thể lãnh đạo, một mặt phải am
hiểu
công việc, mặt khác phải am hiểu con người – đối tượng lãnh đạo. Chỉ trên cơ sở
đó, hoạt
động lãnh đạo mới có hiệu quả.
Hoạt động lãnh đạo có nhiều khâu, nhiều bước như: thu thập và xử lý thông tin;
ra quyết định; sử dụng cơ quan tham mưu, chuyên gia (phòng, ban chuyên môn) tổ
chức
thực hiện các quyết định; tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện các quyết định
để
chuẩn bị cho việc ra quyết định tiếp theo. Do đó, mặt hiện hữu của năng lực lãnh
đạo là
tổ chức hoạt động thực tiễn, còn cái ẩn giấu vào bên trong chính là mặt năng lực
tư duy lý
luận. Vì vậy, nhà lãnh đạo khác với nhà khoa học. Nhà khoa học hoạt động chính
là
nghiên cứu, suy nghĩ, tìm tòi, phát hiện, nêu ra lý thuyết, lý luận, vạch ra
phương án thực
hành, ứng dụng. Người lãnh đạo cũng là người lao động trí óc dù ở họ không phải
là lao
động tìm tòi, tạo ra lý luận khoa học mà chủ yếu là lao động cụ thể hóa, hiện
thực hóa lý
luận. Nhưng để có thể hiện thực hóa lý luận đòi hỏi họ phải suy nghĩ, nghiên cứu
phát
hiện các tình huống thực tiễn cụ thể, trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp giải
quyết tình
huống, ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định thông qua hoạt động tập thể
hoặc cá
nhân.
Hoạt động lãnh đạo khác hoạt động quản lý. Quản lý được hiểu là: “tổ chức và
điều khiển các hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [64, tr.789]. Như vậy,
quản lý
cũng là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi những mục đích xác
định.
Quản lý về cơ bản có những chức năng như: lập kế hoạch, tổ chức bộ máy, chỉ đạo,
thực
hiện sự phối hợp và kiểm soát nguồn lực. Trong nhiều trường hợp cụ thể, chức
năng,
nhiệm vụ của cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý thống nhất với nhau, trùng lặp
nhau. Sự
phân biệt giữa lãnh đạo và quản lý chỉ có tính tương đối. Tất nhiên, về bản
chất, hoạt
động lãnh đạo và quản lý có những điểm khác nhau. Sự khác nhau đó được thể hiện
rõ
nhất ở mục tiêu, nội dung, về phương pháp và phương tiện. Hoạt động quản lý nhằm
tổ
chức, sắp xếp, chỉ đạo các hoạt động thuộc phạm vi quản lý theo một quy trình,
trật tự
nhất định. Trong khi đó, hoạt động lãnh đạo là nhằm mục tiêu định hướng chung.
Nội
dung chủ yếu của lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối chung cũng như phương
hướng
chung để thực hiện chủ trương, đường lối đó. Đồng thời kiểm tra việc thực hiện
chủ
trương, đường lối đó cũng như điều chỉnh, hoàn thiện chủ trương, đường lối sao
cho phù
hợp với thực tiễn. Trong khi đó, nội dung của quản lý là đề ra được các chỉ
tiêu, kế hoạch
cụ thể, các mô hình, phương án thực hiện rất cụ thể để đạt hiệu quả trong tổ
chức thực
hiện. Về phương pháp, phương tiện thì lãnh đạo cơ bản là động viên, thuyết phục,
giáo
dục đối tượng lãnh đạo. Trong khi đó thì quản lý chủ yếu lại dùng mệnh lệnh có
tính chất
bắt buộc. ở nước ta, lãnh đạo không tách rời quản lý, quản lý không tách rời
lãnh đạo. Có
thể nói, lãnh đạo là khâu quan trọng của quản lý, làm cơ sở, tiền đề cho quản
lý, còn quản
lý là quá trình hiện thực hóa đường lối lãnh đạo, giúp lãnh đạo đạt hiệu quả tối
ưu nhất.
Như vậy, có thể thấy rằng, người lãnh đạo phải là người có đạo đức, có trình độ
lý luận và am hiểu thực tiễn. Họ là người góp phần xây dựng, đồng thời cũng là
người
vận dụng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào những lĩnh
vực cụ
thể, biến chúng thành hiện thực trong cuộc sống. Do vậy, đối với người lãnh đạo,
năng
lực vận dụng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
và
nắm bắt yêu cầu thực tiễn của địa phương để ra các quyết định đúng đắn là rất
quan trọng.
Do đó, họ vẫn rất cần phải có năng lực tư duy lý luận, năng lực đó giúp họ
nghiên cứu thực
tiễn, nắm bắt và vận dụng đường lối của Đảng để tổ chức thực tiễn, tổng kết kinh
nghiệm
thực tiễn và vận dụng kinh nghiệm ấy vào hoạt động thực tiễn.
1.2.1.2. Hoạt động lãnh đạo của cán bộ chủ chốt cấp tỉnh
Hoạt động của chủ thể lãnh đạo về bản chất là có sự giống nhau ở các cấp; nhưng
có
sự khác nhau về hình thức, mức độ, phạm vi và lĩnh vực hoạt động.
Trong hệ thống hành chính bốn cấp của nước ta hiện nay (Trung ương; tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương; thành phố, thị xã, quận, huyện trực thuộc tỉnh và xã,
phường,
thị trấn), cấp tỉnh có vai trò đặc biệt quan trọng xét trên nhiều phương diện
của đời sống kinh
tế – xã hội cũng như trong các mối quan hệ nhiều chiều cạnh của sự phát triển.
Cấp tỉnh là
cấp gắn trực tiếp với Trung ương, là mắt khâu đầu tiên để chủ trương, đường lối,
chính sách
của Trung ương đến với địa phương. Tỉnh là gạch nối giữa Trung ương và địa
phương. Đội
ngũ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải ra được các quyết định phản ánh đúng chủ
trương,
đường lối, chính sách của Trung ương, đồng thời phải phù hợp với thực tiễn địa
bàn tỉnh
mà họ phụ trách.
ở Việt Nam, hoạt động của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh như thế nào sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến bộ mặt quốc gia như thế ấy. Vì vậy, chất lượng lãnh đạo của
cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có ý nghĩa vô cùng to lớn đến việc tổ chức thực hiện,
triển
khai các nghị quyết của Trung ương xuống cơ sở. Chủ trương, đường lối, chính
sách của
Trung ương có được triển khai, tổ chức thực hiện được ở cấp dưới hay không phụ
thuộc
rất nhiều vào hoạt động lãnh đạo của đội ngũ cán bộ này. Hơn nữa, tỉnh là địa
bàn tổng kết
thực tiễn tương đối có quy mô, đủ để phát hiện những vấn đề nảy sinh, giúp Trung
ương
nghiên cứu; bổ sung, hoàn thiện, phát triển đường lối, chủ trương và khái quát
thành lý
luận cho phù hợp với thực tiễn mới. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp huyện cũng phải
bao
quát tất cả các mặt kinh tế – xã hội, chính trị, an ninh, quốc phòng… Tuy nhiên,
phạm vi
và mức độ bao quát của họ trên địa bàn hẹp hơn, quy mô nhỏ hơn rất nhiều so với
cấp
tỉnh.