Luận văn: Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc
4,676
464
90
phần tử theo Fulrô ra đầu thú trở về làm ăn lương thiện. Riêng đối với những tên
cầm
đầu ngoan cố thì cương quyết tiêu diệt. Đến cuối những năm 70 đã giải quyết xong
nạn
Fulrô.
Về giáo dục, phát triển việc dạy chữ Chăm ở bậc tiểu học cho các thôn Chăm.
Năm 1978 Ban biên soạn sách chữ Chăm được thành lập và tiến hành biên soạn sách
giáo khoa, tập huấn cho giáo viên người Chăm để tiến hành dạy chữ Chăm. Năm 1976
thành lập trường Bổ túc văn hóa giành cho con em người Chăm đến học (địa điểm
tại
trường PôKlông nay là trường Dân tộc nội trú của tỉnh).
Công tác xây dựng Đảng và chính quyền, mặt trận và các đoàn thể ở các vùng
Chăm được quan tâm. Tuy vậy, do điều kiện khó khăn về kinh tế xã hội chung của
cả
đất nước ta trong giai đoạn này nên việc thực hiện chính sách dân tộc của tỉnh
còn nhiều
thiếu sót. Thời kỳ mới giải phóng thì tập trung sức để giải quyết nạn Fulrô, sau
khi giải
quyết nạn Fulrô xong mới tập trung giải quyết các vấn đề về kinh tế xã hội, văn
hóa,
giáo dục, y tế... Nên trong thời gian từ 1976 - 1991 kinh tế miền núi chuyển
biến rất
chậm, tỷ lệ nghèo đói gần 80%, hàng năm nạn đói giáp hạt vẫn xảy ra, tỉnh vẫn
phải cứu
đói cho nhân dân. Sản lượng lương thực đầu người năm 1991 chỉ đạt 150 kg. Nạn
phá
rừng làm rẫy, khai thác lâm sản bừa bãi xảy ra thường xuyên.
Về giáo dục, y tế, vùng đồng bào RagLai có tới 70% số người mù chữ, trẻ em
trong độ tuổi đến trường chỉ đạt 40 - 50%. Tỷ lệ người mắc bệnh sốt rét cao, tỷ
lệ sinh
đẻ cao, bình quân phụ nữ RagLai sinh 6,4 người con. Công tác đào tạo cán bộ
người dân
tộc thiểu số chưa được quan tâm đúng mức (xem phụ lục III).
Đối với dân tộc Chăm thì đời sống của đồng bào có cao hơn dân tộc miền núi
nhưng trong chính sách cũng có những lúc ta thực hiện chưa tốt như ồ ạt đưa nông
dân
vào hợp tác xã. Đến những năm 80 tất cả các thôn Chăm đều đã thành lập các hợp
tác
xã nông nghiệp trong đó có một số hợp tác xã phát huy được tác dụng như ở Hữu
Đức
(Phước Hữu), Như Ngọc (Phước Thái)... Còn lại đại đa số không phát huy tác dụng.
Trong dân tộc Chăm tình trạng mâu thuẫn giữa các tôn giáo vẫn xảy ra, tình trạng
tranh
chấp đất đai (điển hình là nông dân xã Phước Nam, xã Xuân Hải tranh chấp với các
nông trường trồng bông vải, nông trường Quán Thẻ, nông trường Thành Sơn).
Sau khi chia tách tỉnh mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, Tỉnh ủy lâm thời đã sớm
có Thông báo số 13 chỉ đạo khảo sát lại thực trạng tình hình miền núi. Trong Đại
hội
Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lần thứ VIII (10/1992) đã xác định công tác miền núi và
dân
tộc thiểu số có vị trí quan trọng, đã đề ra một số phương hướng nhiệm vụ, giải
pháp
chính để toàn Đảng bộ tập trung chỉ đạo trong cả nhiệm kỳ.
Tháng 4/1993 Tỉnh ủy đã tổ chức tổng kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 22 của
Bộ Chính trị đã rút ra nhận xét chung:
Qua 3 năm thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định
72 của Hội đồng Bộ trưởng, tình hình kinh tế xã hội miền núi có phát triển
sản xuất nông nghiệp một số vùng có tăng. Tổng sản lượng lương thực miền
núi tăng 513 tấn so với năm 1990, diện tích canh tác được mở rộng, chăn
nuôi được phát triển đã có 65% số hộ có trâu bò. Đường sá cầu cống có được
đầu tư xây dựng, sửa chữa, đi lại dễ dàng hơn trước, ăn ở có được cải thiện
một bước, có gia đình biết làm ăn kinh tế thu nhập khá hơn, diện thiếu đói
được thu hẹp dần. Các công trình phúc lợi như trạm xá, trường học được xây
dựng, các công trình thủy lợi phục vụ cho sản xuất được quan tâm đầu tư hơn
trước. Tình hình an ninh chính trị được giữ vững, công tác xây dựng Đảng,
chính quyền và các đoàn thể từng bước được củng cố, trình độ văn hóa một
bộ phận được nâng lên.
Tuy có đạt được một số kết quả nêu trên nhưng nhìn chung tình hình
các mặt của miền núi chuyển biến chậm, không đều, có vùng còn gặp nhiều
khó khăn. Sản xuất còn bấp bênh, chưa vững chắc, năng suất và sản lượng
thấp, hạn hán thường xảy ra nên thiếu đói, cơ cấu sản xuất chưa xác định rõ
cho từng vùng. Trình độ văn hóa thấp, số người tái mù và mù chữ còn nhiều,
số trẻ em trong độ tuổi huy động đến lớp còn ít, số đến trường đi học thất
thường. Hưởng thụ văn hóa còn thấp. Việc đầu tư chưa đúng mức, cơ sở hạ
tầng còn thiếu thốn có nơi chưa phát huy bị hư hao kém hiệu quả. Công tác
xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể chậm củng cố, phát triển đảng viên ít.
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trẻ, cán bộ kế cận chưa có qui hoạch và
chưa có chính sách khuyến khích đối với cán bộ tại chỗ và cán bộ từ miền
xuôi lên miền núi công tác [2, tr. 8].
Từ đó báo cáo nêu ra phương hướng chung:
Phải tập trung phát triển kinh tế miền núi, chuyển dần tập quán sản
xuất tự cấp tự túc, từng bước hướng dần sản xuất hàng hóa theo đặc điểm và
lợi thế của từng vùng.
Xác định cơ cấu kinh tế miền núi là lâm - nông nghiệp kết hợp, phát
triển tiểu thủ công nghiệp, gắn với thương nghiệp dịch vụ lưu thông phân
phối. Tập trung nâng cao trình độ dân trí ra sức đào tạo cán bộ, xây dựng xã
hội miền núi có nếp sống ăn ở gọn gàng, sạch sẽ. Giữ vững an ninh trật tự xã
hội chống mọi xâm nhập, phá hoại. Xây dựng các Đảng bộ, chính quyền và
các đoàn thể ở cơ sở đủ sức quản lý, lãnh đạo địa phương, thực hiện xây
dựng miền núi ngày càng chuyển biến rõ nét [2, tr. 9].
Chương 2
Đảng Bộ Tỉnh NINH Thuận
Lãnh Đạo Phát Triển KINH Tế - Xã Hội
Vùng DÂN Tộc Thiểu Số 1996 - 2000
2.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Chính sách dân tộc ngày càng đặt đúng với tầm chiến lược như Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ.
Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện "bình đẳng, đoàn
kết, tương trợ" giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa -
hiện đại hóa đất nước. Xây dựng Luật dân tộc. Từ nay đến năm 2000, bằng
nhiều biện pháp tích cực và vững chắc thực hiện cho được ba mục tiêu chủ
yếu: Xóa được đói, giảm được nghèo, ổn định và cải thiện được đời sống,
sức khỏe của đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xóa
được mù chữ, nâng cao dân trí tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp
của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên
của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và vững mạnh [25, tr. 125-
126].
Chính sách dân tộc không chỉ nêu lên những nội dung xuyên suốt, bao trùm cả
một thời kỳ dài - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước mà
còn
được xác định rõ những nhiệm vụ cụ thể, những mục tiêu cụ thể trong từng thời
kỳ.
- Căn cứ vào các Nghị quyết của Đảng và Nhà nước có thể rút ra những nội
dung cơ bản của chính sách dân tộc hiện nay là:
1. Phát triển kinh tế ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số là một bộ
phận hữu cơ của chiến lược phát triển kinh tế quốc dân.
2. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát triển kinh tế văn hóa miền núi và
vùng đồng bào dân tộc thiểu số là sự nghiệp chung của nhân dân cả nước, của nhân
dân
các dân tộc, cả đa số và thiểu số trong vùng vì lợi ích trực tiếp của nhân dân
các dân tộc
thiểu số, đồng thời vì lợi ích chung của cả nước... Phương châm chung là: Trung
ương
và địa phương cùng làm, Nhà nước và nhân dân cùng làm... Nhà nước cần bố trí vốn
đầu tư thích đáng hơn cho địa bàn quan trọng này, trước mắt tập trung đầu tư cho
phát
triển giao thông vận tải, thông tin liên lạc, điện và nguồn nước cho sản xuất và
sinh hoạt
của dân cư, phát triển sự nghiệp giáo dục, y tế... nhằm xóa đói, giảm nghèo, cải
thiện và
nâng cao đời sống nhân dân.
3. Nắm vững chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ
nghĩa.
4. Phát triển miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số toàn diện, cả về kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó phát triển kinh tế
- xã hội
gắn với việc thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, quan tâm đúng mức đến
việc
giải quyết các vấn đề xã hội, cải thiện đời sống vật chất và văn hóa của nhân
dân được
coi là nhiệm vụ trọng tâm.
- Một số chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đối với dân tộc
thiểu số.
a) Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, phù hợp với đặc điểm điều
kiện từng vùng, đảm bảo cho đồng bào các dân tộc khai thác thế mạnh của địa
phương
làm giàu cho mình và đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp
hóa - hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần gắn với việc xây dựng nông thôn
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm và điều kiện từng nơi
là
phương hướng đúng đắn nhân tố quyết định thúc đẩy sự tiến bộ của các vùng dân
tộc
thiểu số hiện nay. Tất nhiên phải đặt sự phát triển của các vùng dân tộc thiểu
số trong
mối quan hệ hữu cơ với cơ cấu kinh tế từng vùng và các tổ hợp kinh tế lãnh thổ
như là
một yêu cầu khách quan để khai thác có hiệu quả các tiềm năng thế mạnh, giải
phóng
mọi năng lực sản xuất, đa dạng hóa các hình thức sản xuất kinh doanh, mở rộng
các mối
liên kết, hợp tác trong và ngoài nước. Theo phương hướng đó, giải pháp cơ bản để
thực
hiện là:
Xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn với môi trường sống của đồng bào
các dân tộc thiểu số, khắc phục về căn bản tình trạng tranh chấp ruộng đất và di
cư tự do
ở các vùng dân tộc thiểu số hiện nay. Đất đai là sở hữu toàn dân do Nhà nước
quản lý.
Đồng thời, Nhà nước tôn trọng quyền lợi của hộ nông dân đã sử dụng lâu dài hoặc
khai
phá đất hoang hóa một cách hợp pháp thành đất màu mỡ. Nghị quyết Hội nghị Trung
ương 5 khóa VII đã nêu rõ yêu cầu xác lập quyền làm chủ cụ thể về đất đai gắn
với môi
trường sống của đồng bào. Nhà nước giao đất giao rừng cho nhân dân sử dụng ổn
định
lâu dài "thực hiện giao, khoán đất, rừng đến tận hộ nông dân, kết hợp việc giải
quyết có
lý, có tình những tranh chấp đất đai". Điều chỉnh hợp lý, giao lại cho nông dân
sử dụng
những đất đai mà các nông lâm trường quốc doanh có nhiều nhưng không có điều
kiện
kinh doanh hoặc kinh doanh không có hiệu quả. Chủ động chuyển dân đến những nơi
có
điều kiện sản xuất ổn định, kiên quyết khắc phục tình trạng để nhân dân di cư tự
do như
hiện nay. Việc định canh định cư đối với đồng bào dân tộc phải gắn với việc thực
hiện
các chương trình kinh tế xã hội. Các dự án giao đất giao rừng, phủ xanh đất
trống đồi
trọc. Đầu tư đồng bộ tập trung nhằm huy động các nguồn vốn, tạo điều kiện cho
đồng
bào còn du canh du cư chuyển sang làm nghề rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn
quả,
cây lương thực, chăn nuôi, làm kinh tế vườn - đồi... theo hướng nông lâm kết
hợp, gắn
với công nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới, tạo nhiều sản phẩm hàng hóa.
Các tổ chức kinh tế của Nhà nước và của tập thể trên cơ sở đổi mới phải làm tốt
các
dịch vụ sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Nhà nước có chính sách ưu đãi đặc
biệt
về vốn, miễn giảm thuế về cung ứng vật tư, chuyển giao công nghệ tiên tiến và
tiêu thụ
sản phẩm, kể cả xuất khẩu. Đảm bảo lương thực cho các vùng vận tải khó khăn,
thiếu
thốn lương thực, tạo điều kiện để đồng bào không quay lại cuộc sống du canh, du
cư,
phát nương làm rẫy.
Đổi mới cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng, tập trung
sức để phát triển những cây con có ưu thế thành hàng hóa với bước đi, qui mô phù
hợp
gắn với chế biến và mở rộng thị trường tiêu thụ. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm
phát
huy lợi thế của từng nơi, tập trung phát triển những cây con có lợi thế của từng
vùng với
qui mô phù hợp, gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm là một trong những hướng
cơ
bản thúc đẩy phát triển sản xuất không những ở vùng đồng bào dân tộc mà cả trong
phạm vi toàn quốc. Vấn đề ở đây là cần xuất phát từ đặc điểm tự nhiên, đặc điểm
kinh
tế của từng vùng và tiểu vùng để xác định cho thích hợp. Đến nay, nước ta đã
giải quyết
được về cơ bản vấn đề lương thực. Việc sử dụng quỹ đất đồi đất rừng ở các vùng
đồng
bào thiểu số sinh sống sang trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây
lấy gỗ
gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, bảo vệ rừng đã có cơ sở hiện thực. Vấn đề
đặt ra
là cần cân đối giữa trồng rừng, trồng cây công nghiệp và bảo vệ rừng tự nhiên
thế nào
cho hợp lý. Các cơ sở công nghiệp nặng, công nghiệp khai khoáng, các doanh
nghiệp
khác đóng trên địa bàn miền núi phải thực sự trở thành những trung tâm kinh tế,
thúc
đẩy sự phát triển kinh tế trong vùng, thúc đẩy tiến bộ xã hội (giao thông, văn
hóa, giáo
dục, y tế địa phương).
Thương nghiệp phải gắn với các ngành kinh tế khác, hình thành nên các tụ điểm
công nghiệp - thương mại - dịch vụ với các loại hình, qui mô khác nhau, tạo
thành động
lực kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa trong vùng phát triển thúc đẩy
giao lưu
văn hóa giữa các dân tộc.
Đổi mới cơ chế quản lý thích hợp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống
nói chung và đối với miền núi nói riêng, thúc đẩy phát triển kinh tế hàng hóa,
làm
chuyển biến cục diện kinh tế - xã hội các vùng dân tộc thiểu số cư trú.
Có chính sách đầu tư đồng bộ và có trọng điểm theo các chương trình và dự án
vào các lĩnh vực và vùng quan trọng để xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng dân
tộc
và miền núi, trước hết là giao thông, thông tin liên lạc, năng lượng và các công
trình
thủy lợi (bao gồm cả nước sinh hoạt) phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội và
điều kiện cụ thể từng nơi, gắn với quá trình phát triển kinh tế, ổn định và cải
thiện đời
sống, giữ vững an ninh quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số. Chương trình trợ
giúp
cho số xã đặc biệt khó khăn cần được thực hiện tập trung và có hiệu quả.
Đồng thời với sự đầu tư hỗ trợ của Nhà nước áp dụng các cơ chế khuyến khích
thích hợp nhằm phát huy ý thức tự lực tự cường, năng lực sáng tạo của đồng bào
các dân
tộc, khai thác mọi tiềm năng và thế mạnh của miền núi và vùng đồng bào dân tộc
thiểu
số, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, xây dựng quê hương giàu đẹp và bảo vệ vững chắc
biên cương của Tổ quốc.
b) Có chính sách ưu tiên đặc biệt phát triển giáo dục và đào tạo, coi trọng đào
tạo cán bộ và đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số
Trước hết cần tập trung vào việc nâng cao dân trí. Thực hiện có hiệu quả việc
xóa mù chữ cho thanh niên và cán bộ cơ sở, phổ cập giáo dục tiểu học cho đối
tượng
này. Có qui hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lại các loại cán bộ đáp ứng yêu
cầu
phát triển mọi mặt của từng vùng, từng dân tộc.
Tăng cường vốn đầu tư cho các trường học. Xây dựng các loại trường lớp nội trú,
đảm bảo đủ giáo viên và chỗ học cho con em các dân tộc thiểu số.
Mở rộng hệ đào tạo cán bộ dân tộc trong hệ thống trường chính trị, trường đoàn
thể và lực lượng vũ trang theo chương trình đổi mới.
Thực hiện tốt chính sách chế độ khuyến khích đối với các cán bộ dân tộc thiểu
số, cán bộ công tác ở miền núi, nhất là các vùng sâu, vung xa, vùng cao và thu
hút các
chuyên gia, các nhà khoa học phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp phát triển miền
núi và
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Có chế độ chính sách ưu đãi động viên về tinh thần và vật chất với các già làng,
trưởng bản và những người có uy tín trong các dân tộc (kể cả một số chức sắc tôn
giáo)
trong sự nghiệp đoàn kết các dân tộc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội
chủ
nghĩa.
c) Kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng nền
văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật là nhằm không
ngừng đưa các thành tựu văn hóa mới đến với nhân dân, bảo tồn những giá trị văn
hóa
của từng dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa chung của đất nước, của nhân
loại để
phát triển văn hóa dân tộc mình, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của cả
cộng đồng
dân tộc Việt Nam ngang tầm với thời đại.
Trong lĩnh vực văn hóa, nhân dân các dân tộc thiểu số cần được thông tin về
thời sự, chính sách, những thành tựu văn hóa tiên tiến, đảm bảo có sách báo,
tiến tới có
đủ phương tiện nghe, nhìn. Tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng bảo vệ, kế
thừa, phát
huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp bài trừ các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị
đoan, cản
trở sự tiến bộ của các dân tộc. Có chính sách đầu tư thích đáng cho các hoạt
động văn
hóa, văn nghệ, cho các nghệ sĩ sáng tác các đề tài về miền núi và về các dân tộc
thiểu
số.
Điều quan trọng trước hết vẫn là nâng cao đời sống kinh tế để nhân dân các dân
tộc có điều kiện hưởng thụ các thành tựu văn hóa, nâng cao
dân trí.
d) Có chính sách quan tâm đặc biệt đến các vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ
cách mạng và kháng chiến từng bước ngăn chặn tình trạng suy giảm dân số, suy
giảm
đời sống của một số dân tộc thiểu số.
Nhà nước ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, đồng thời thực
hiện các chương trình chăm sóc đời sống và sức khỏe của đồng bào các dân tộc
thiểu số
nói chung, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng căn cứ kháng chiến.
Thực hiện
tốt các chương trình quốc gia về chống sốt rét, chống bướu cổ, xóa bỏ các ổ dịch
bệnh
gây tử vong cao, làm suy giảm giống nòi ở một số dân tộc. Thực hiện chính sách
ưu đãi
những mặt hàng thiết yếu như gạo, muối, dầu thắp sáng, giấy viết, thuốc chữa
bệnh,
dịch vụ văn hóa văn nghệ đối với vùng sâu, vùng xa, vùng cao. Giải quyết nhanh
chóng
nhu cầu nước sinh hoạt cho đồng bào vùng cao. Xây dựng gia đình văn hóa, làng
văn
hóa.
Thực hiện mạnh mẽ chương trình dân số và kế hoạch hóa gia đình bằng các giải
pháp hữu hiệu để đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng cao hạn chế sinh đẻ nhờ đó
chăm
sóc và nuôi dạy con cái, nâng cao trình độ dân trí và xây dựng đời sống văn minh