Luận văn: Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc
4,675
464
90
vợ khác hoặc vẫn ở nhà vợ nhưng phải lấy em hoặc chị vợ. Khi người chồng chết,
người
vợ có thể lấy chồng khác và có thể lấy anh hoặc em trai người chồng cũ.
Hoạt động kinh tế đã tồn tại từ lâu đời được người RagLai ở Ninh Thuận áp
dụng trên nhiều vùng đất đai khác nhau là phát rừng làm rẫy dưới hình thức du
canh du
cư, chuyển đổi đất canh tác theo tập quán sản xuất cổ truyền lạc hậu. Người
RagLai
phát rừng làm rẫy, trỉa hạt, trồng bắp, trồng lúa tùy thuộc vào đất rẫy xấu hay
tốt, sau 3 -
5 năm dời đi nơi khác và 15 - 20 năm sau mới quay trở lại. Ngô là cây lương thực
chính.
Chăn nuôi chủ yếu là gia cầm như gà, vịt, gia súc không nhiều chủ yếu là trâu và
dê,
chăn nuôi thả rông quanh nhà.
Nghề thủ công của người RagLai nhìn chung đơn sơ, chủ yếu tiến hành trong
các gia đình như đan lát, rèn, gốm. Sản phẩm chủ yếu là công cụ sản xuất và đồ
dùng
sinh hoạt. Người RagLai không biết dệt vải. Kinh tế dân tộc RagLai chủ yếu là
kinh tế
tự cung tự cấp.
Đời sống tín ngưỡng của người RagLai: Giàng (ông Trời) được coi là vị thần tối
cao của thế giới thần linh, bao gồm cả thần thiện và thần ác, con người sau khi
chết vẫn
tồn tại linh hồn.
Về văn hóa: Người RagLai có một kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian phong
phú với nhiều trường ca, truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyền thuyết lịch
sử, sinh
hoạt văn nghệ, ca hát đối đáp, nhạc cụ có mả la (chiêng, cồng), đàn đá (đã phát
hiện ra
đàn đá Bác ái, đàn đá Khánh Sơn), kèn môi, đàn Chapi (đàn làm bằng ống tre). Lễ
hội
lớn nhất hàng năm để tạ ơn Giàng được tổ chức trọng thể sau mùa thu hoạch.
Nét nổi bật ở người RagLai là truyền thống đoàn kết, cộng đồng, dân chủ, quan
tâm, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, tính cách thật thà, chất phác, dũng cảm.
Trải qua các cuộc đấu tranh chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là hai
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, người RagLai theo Đảng và
Bác
Hồ tham gia vào sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc Việt Nam và đã viết nên
những trang sử vẻ vang về truyền thống cách mạng của dân tộc mình. Với vị trí
của
vùng rừng núi Ninh Thuận, dựa vào lòng dân RagLai Đảng ta đã xây dựng căn cứ
kháng chiến ở đây. Các cán bộ, chiến sĩ người Kinh, Chăm... đã sát cánh cùng
đồng bào
RagLai xây dựng Bác ái, Anh Dũng thành căn cứ kháng chiến vững mạnh toàn diện,
trở
thành trung tâm của hai cuộc kháng chiến ở tỉnh Ninh Thuận và cực Nam Trung Bộ.
Người RagLai đánh giặc giỏi, gan dạ, sáng tạo ra nhiều loại vũ khí (trong đó nổi
tiếng
với bẫy đá Pi Năng Tắc), thành thạo trong tác chiến ở vùng rừng núi, đã gây cho
địch
nhiều nỗi kinh hoàng. Dân tộc RagLai là một dân tộc trung kiên và thủy chung với
cách
mạng. Dân tộc RagLai đã chiến đấu không tiếc máu xương cho công cuộc giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước. Được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh
hùng
lực lượng vũ trang cho huyện Bác ái, xã Phước Kháng, Phước Chiến, Phương Hải
(huyện Ninh Hải), xã Phước Hà, xã Nhị Hà (huyện Ninh Phước), các anh hùng lực
lượng vũ trang như Pi Năng Tắc, Pi Năng Thạnh, Cha Ma Léa Châu... Và nhiều bà mẹ
Việt Nam anh hùng.
Giữa dân tộc Chăm và dân tộc RagLai có mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị.
Đúng như Lênin đã viết: "Trong chừng mực mà các dân tộc khác nhau còn chung sống
trong một quốc gia, thì họ gắn bó với nhau bằng hàng ức, hàng triệu mối quan hệ
kinh
tế, pháp luật và tập quán" [34, tr. 221].
Trong lễ hội Katê có lễ đón rước y phục của Nữ thần Pônưga, vị thần dạy nghề
trồng lúa, trồng bông dệt vải. Trong không khí vừa trang nghiêm, vừa rộn ràng,
réo rắt
của tiếng trống Ghi-năng và tiếng kèn Sa-ra-nai hòa cùng những điệu múa uyển
chuyển
của các thiếu nữ Chăm, mọi người chứng kiến cuộc đón rước và trao báu vật của nữ
thần giữa người RagLai và người Chăm.
Ngày nay chúng ta bắt gặp khá nhiều di chỉ văn hóa Chăm ở khu vực miền núi
như Tháp Yang Prang ở EaSúp (Đắc Lắc), Yang Mun ở AjunPa (Gia Lai), Tháp Chăm
ở Kon tum, Lâm Đồng... không phải là những cố đô Chăm Pa, mà có lẽ như nhà
nghiên
cứu Condominas đã viết: "Các vua Chăm cuối cùng đã giao cho những người miền núi
trung thành này canh gác các kho tàng của họ trước khi những kẻ mạnh chiến
thắng...".
Ngoài hai dân tộc Chăm và RagLai đã nêu các dân tộc thiểu số còn lại ở Ninh
Thuận rất ít như người Hoa chỉ chiếm 0,49%; người Nùng 0,11%; người Tày 0,02%;
người Mường 0,01% sống xen kẽ với người Kinh và các dân tộc khác.
1.2. Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận cụ thể hóa và thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng
1.2.1. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
1.2.1.1. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập một cách toàn diện vấn đề dân tộc
và đề ra những giải pháp triệt để giải quyết vấn đề dân tộc
Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc gắn bó chặt chẽ
với nhau, khẳng định sự áp bức bóc lột của giai cấp này với giai cấp khác là
nguồn gốc
áp bức của dân tộc này đối với dân tộc khác. C. Mác và Ph. Ăngghen đã nêu lên
luận
điểm nổi tiếng: "Một dân tộc đi áp bức dân tộc khác thì dân tộc ấy không thể có
tự do"
[37, tr. 625]. Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, khi chủ nghĩa đế quốc bóc lột
và nô dịch
nhân dân toàn thế giới, vấn đề dân tộc càng trở nên quan trọng và cấp thiết, mối
quan hệ
giữa cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản và cuộc đấu tranh
của các
dân tộc thuộc địa, bị áp bức chống đế quốc ngày càng trở nên chặt chẽ. V.I.
Lênin và
Quốc tế cộng sản đã phát triển học thuyết của C.Mác và PĂngghenen về vấn đề dân
tộc
và cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đề ra khẩu hiện: "Vô sản tất cả các nước và
các
dân tộc bị áp bức đoàn kết lại".
Ngày nay, sau khi Liên Xô tan rã, cục diện đối đầu hai cực trên thế giới không
còn, vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trên thế giới đang trở thành một vấn đề
chính trị
- xã hội phức tạp, là nguy cơ gây mất ổn định, làm bùng nổ những xung đột ở
nhiều nơi.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực đen tối cũng đang triệt để lợi dụng những mâu
thuẫn
dân tộc để thực hiện âm mưu bành trướng, bá quyền, áp đặt chế độ chính trị, mở
rộng
phạm vi ảnh hưởng và khống chế các dân tộc trên thế giới, dưới chiêu bài "nhân
quyền
cao hơn chủ quyền" để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác. Vì vậy,
vấn
đề dân tộc vẫn luôn luôn là vấn đề thường trực và chính sách dân tộc có tầm quan
trọng
đặc biệt đối với nhiều quốc gia. Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin vẫn tiếp tục
soi sáng
cho các Đảng Cộng sản giải quyết đúng đắn các vấn đề dân tộc. Cương lĩnh về vấn
đề
dân tộc của V.I. Lênin bao gồm ba nội dung cơ bản:
- Các dân tộc có quyền bình đẳng: Bình đẳng dân tộc là quyền của mọi dân tộc
không phân biệt đa số hay thiểu số, trình độ kinh tế, văn hóa cao hay thấp,
không phân
biệt chủng tộc, màu da... Quyền bình đẳng giữa các dân tộc bao gồm tất cả các
lĩnh vực
trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đây cũng là cơ sở pháp lý
chung giải
quyết các quan hệ dân tộc trên thế giới, trong các khu vực hay trong một quốc
gia. Theo
V.I. Lênin: "Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc bảo đảm
quyền
lợi của các dân tộc thiểu số... bất cứ một thứ đặc quyền nào giành riêng cho một
dân tộc
và bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc thiểu số, đều bị bác
bỏ"
[34, tr. 179].
- Các dân tộc có quyền tự quyết: Cương lĩnh về vấn đề dân tộc rất chú trọng
đến vấn đề tự quyết dân tộc. Quyền tự quyết của các dân tộc chính là quyền tự
chủ đối
với vận mệnh và con đường phát triển của các dân tộc, bao gồm quyền tự quyết
định về
thể chế chính trị kể cả quyền phân lập về mặt chính trị (vì mục đích chung của
dân tộc -
quốc gia và dân tộc - tộc người) hoặc quyền tự nguyện liên hiệp lại thành khối
liên minh
các dân tộc đáp ứng nguyện vọng và lợi ích của nhân dân lao động các dân tộc và
vì
mục tiêu phát triển hòa bình, phồn thịnh, hữu nghị giữa các dân tộc.
- Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc: Để thực hiện tốt quyền bình đẳng và
quyền tự quyết, cần phải đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc, các quốc gia.
Đoàn
kết giai cấp công nhân các dân tộc chính là đoàn kết gắn bó lực lượng nòng cốt
của
phong trào đấu tranh cho tiến bộ, hòa bình và phát triển. Với bản chất quốc tế
và những
ưu điểm vốn có, giai cấp công nhân các dân tộc vừa đại diện cho lợi ích nguyện
vọng
của giai cấp công nhân nói chung vừa đại diện cho lợi ích của nhân dân lao động
và lợi
ích các dân tộc. Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc cũng chính là kết hợp
hài hòa
giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính với tinh thần quốc tế cao cả của giai cấp
công nhân
các nước là lực lượng trung tâm của phong trào đấu tranh cho độc lập dân tộc cho
hòa
bình, tiến bộ và phồn vinh của nhân loại.
Thực hiện Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin là một nguyên tắc nhất quán, lâu
dài trong chính sách dân tộc của các Đảng Cộng sản. Làm trái những nguyên tắc đó
sẽ
dẫn đến những sai lầm trong chính sách dân tộc, xuất hiện nguy cơ xung đột dân
tộc, ly
khai, ly tâm, tan rã đối với nhiều quốc gia, kéo lùi sự tiến hóa lịch sử. Ngày
nay, vấn đề
dân tộc đang diễn biến vô cùng phức tạp. Những xung đột dân tộc, tộc người,
những
mưu đồ đồng hóa dân tộc vẫn tiếp tục tồn tại dưới nhiều hình thái tinh vi. Việc
giải
quyết những tranh chấp hay mâu thuẫn liên quan đến dân tộc, tôn giáo, đòi hỏi
chúng ta
phải nhận thức một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và vận dụng một cách sáng suốt,
cụ thể
những nội dung Cương lĩnh dân tộc của V.I. Lênin. Vấn đề quan trọng không chỉ
trong
giải quyết các quan hệ dân tộc, quốc gia mà còn là yêu cầu cần thiết cho việc
vạch ra và
thực hiện đúng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước trong một quốc gia đa dân
tộc.
1.2.1.2. Những quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự phát triển của các
dân tộc thiểu số và miền núi
Hồ Chí Minh là người đảng viên Đảng Cộng sản đầu tiên của nhân dân các dân
tộc nước ta xem xét và giải quyết các vấn đề dân tộc trên cơ sở chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nghiêm túc và vận dụng sáng tạo tư tưởng lý luận của
C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I. Lênin để đề ra những quan điểm đúng đắn giải quyết vấn
đề phát triển của các dân tộc thiểu số và miền núi nước ta theo phương hướng là
đoàn
kết các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam trên nguyên tắc bình đẳng, thương
yêu và
giúp đỡ lẫn nhau để đấu tranh cho độc lập, tự do và hạnh phúc chung. Tư tưởng
bình
đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ là nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ
Chí Minh
về vấn đề dân tộc được nêu từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng năm 1930. Tư tưởng
của
Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề phát triển các dân tộc thiểu số và miền núi
của
nước ta được thể hiện trên mấy nội dung cơ bản sau:
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết tất cả các dân tộc. Nước ta là một
nước thống nhất gồm nhiều dân tộc. Các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều
bình
đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ. Các dân tộc anh em trong nước ta gắn bó ruột thịt
với
nhau trên một lãnh thổ chung và trải qua một lịch sử lâu đời cùng nhau lao động
và đấu
tranh để xây dựng Tổ quốc tươi đẹp. Đại đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn của
Hồ
Chí Minh. Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành chiến lược đại đoàn kết
của
Đảng ta và là một nhân tố cực kỳ quan trọng góp phần quyết định thắng lợi trong
sự
nghiệp cách mạng của Đảng ở mọi thời kỳ.
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý
giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý thức xây dựng và giữ gìn
sự
đoàn kết các dân tộc. Hồ Chí Minh xuất phát
từ truyền thống của dân tộc và chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh luôn luôn
đánh giá cao vai trò của nhân dân. Không có lực lượng nào mạnh bằng lực lượng
đoàn
kết của nhân dân. Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Muốn thực hiện đại đoàn
kết
lâu dài thì luôn luôn lấy dân làm gốc. Hồ Chí Minh viết:
Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của tất cả các dân tộc, nước Việt
Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân
tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn có sự
phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa. Trước kia các dân tộc để giành độc lập
phải đoàn kết bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa [38,
tr. 110].
Người khẳng định: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay
ÊĐê, XêĐăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều
là
anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp
nhau"
[38, tr. 217].
Các dân tộc anh em sinh sống trên đất nước Việt Nam phải đoàn kết với nhau:
"Đã gọi là đoàn kết thì phải giúp đỡ lẫn nhau như anh em trong nhà. Dân tộc
nhiều
người phải giúp đỡ dân tộc ít người, dân tộc ít người cần cố gắng làm ruộng. Hai
bên
phải giúp đỡ lẫn nhau" [39, tr. 227].
Hai là, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò quan trọng của đồng bào dân
tộc thiểu số và miền núi trong sự nghiệp cách mạng của cả nước. Theo Hồ Chí
Minh:
"Miền núi nước ta chiếm một vị trí quan trọng đối với quốc phòng, đối với kinh
tế" [40,
tr. 134]. Và là một khu vực rất quan trọng cả về công nghiệp và nông nghiệp, về
bảo vệ
môi trường sinh thái và khai thác tài nguyên. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Miền núi có
tài
nguyên rất phong phú, có nhiều khả năng để mở mang nông nghiệp và công nghiệp.
Những điểm đó nói rõ rằng miền núi có một địa vị cực kỳ quan trọng về kinh tế,
chính
trị và quốc phòng của cả nước ta" [39, tr. 608]. Vùng núi là nơi sinh sống của
phần lớn
đồng bào các dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ và
đồng
bào các dân tộc cả nước phải coi trọng vấn đề dân tộc và nhìn nhận đó là bộ phận
quan
trọng có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam, liên quan trực tiếp đến sự
ổn
định và phát triển của đất nước.
Ba là, Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng việc đề ra các biện pháp và những
bước đi thích hợp là có ý nghĩa vô cùng to lớn để xây dựng, phát triển kinh tế,
văn hóa ở
vùng đồng bào dân tộc và miền núi. Theo Hồ Chí Minh điều quan trọng trước hết
cần
hiểu mỗi dân tộc có bản sắc riêng rất phong phú rất đa dạng cho nên trong công
tác chỉ
đạo, tuyên truyền vận động đồng bào dân tộc thiểu số phải đặc biệt lưu ý tính
đặc thù
dân tộc, hiểu biết đầy đủ những khác biệt cụ thể của từng vùng, từng dân tộc mà
bổ
khuyết chính sách, tránh những biểu hiện chủ quan, áp đặt. Hồ Chí Minh nhắc nhở:
"Một tỉnh có đồng bào Thái, đồng bào Mèo thì tuyên truyền huấn luyện đối với
đồng
bào Thái khác, đồng bào Mèo khác, phải có sự thay đổi cho thích hợp. Bởi vì đời
sống,
trình độ của đồng bào Mèo và Thái khác nhau, cho nên tuyên truyền huấn luyện
phải
khác" [40, tr. 128]. Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải gắn bó thật sự với
đồng
bào, nắm vững và phân tích đúng tình hình, hiểu rõ phong tục tập quán mọi nơi và
làm
cho đồng bào tin yêu mà tiến hành công tác vận động đồng bào miền núi cụ thể,
thiết
thực, phù hợp, dễ hiểu để đồng bào làm được. Các chủ trương, chính sách, biện
pháp
phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi đòi hỏi phải thực hiện khẩn trương, nhưng
không
thể nóng vội, rập khuôn máy móc mà phải thận trọng, vững chắc, toàn diện, hiệu
quả,
đem lại lợi ích cho đồng bào ta.
Bốn là, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm khẳng định kịp thời những thành công
đã đạt được của đồng bào các dân tộc về kinh tế, văn hóa, giữ gìn an ninh quốc
gia và
động viên đồng bào các dân tộc miền núi tiếp tục phấn đấu vươn lên. Hồ Chí Minh
rất
vui mừng khi thấy: "Đời sống của đồng bào các dân tộc miền núi đã có nhiều tiến
bộ, về
cả hai mặt vật chất và tinh thần" [40, tr. 132]. Hồ Chí Minh biểu dương từng
thành tựu
của đồng bào các dân tộc thiểu số và tin tưởng vào thắng lợi của công cuộc xây
dựng
chủ nghĩa xã hội ở miền núi. Theo Hồ Chí Minh việc gì khả năng điều kiện cho
phép thì
địa phương miền núi và đồng bào các dân tộc thiểu số phải tự giải quyết, tự vươn
lên, ví
như công trình thủy lợi nhỏ, các đường giao thông nhỏ. Trung ương có trách nhiệm
xây
dựng, trang bị những công trình lớn. Hồ Chí Minh nhắc nhở đồng bào các dân tộc
thiểu
số "cũng phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân
tộc,
người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa phương, nhân dân địa phương
lại
dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được rồi
không
cố gắng" [40, tr. 136]. Hồ Chí Minh đặt một niềm tin sâu sắc và nêu rõ: "Đồng
bào các
dân tộc rất thật thà và rất tốt. Nếu nói đúng thì đồng bào nghe, đồng bào làm và
làm
được" [40, tr. 138].
Năm là, Hồ Chí Minh xác định rõ vai trò lãnh đạo của Đảng, nhiệm vụ quản lý
của Nhà nước, của cơ quan Trung ương và sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc là
một
yếu tố rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa ở miền núi nước ta.
Là một
lãnh tụ đã nhiều năm sống trong lòng nhân dân các dân tộc thiểu số và miền núi,
Hồ Chí
Minh hiểu rõ tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của đồng bào, thông cảm sâu sắc và
kêu
gọi đồng bào các dân tộc giúp đỡ nhau làm hết sức mình để vươn lên, đặc biệt
trong
việc vận động định canh định cư, phải đoàn kết đồng bào các dân tộc, làm cho
đồng bào
vùng thấp biết giúp đồng bào trên rẻo cao như ruột thịt của mình. Đồng thời, Chủ
tịch
Hồ Chí Minh yêu cầu "Trung ương Đảng và Chính phủ mà trực tiếp là các cấp ủy
đảng,
các ủy ban địa phương, các cô, các chú phải làm sao nâng cao đời sống vật chất
và văn
hóa của đồng bào các dân tộc" [40, tr. 134-135]; phải có kế hoạch đẩy mạnh phong
trào
miền núi lên, về kinh tế cũng như về văn hóa, tất cả các mặt" [40, tr. 137].
Thực hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta đã từng bước kiên trì đấu tranh với các
quan
điểm sai trái và đề ra những chính sách thiết thực xây dựng mối quan hệ bình
đẳng, tin
tưởng, tôn trọng, học tập lẫn nhau tránh ban ơn, làm thay, để đoàn kết dân tộc
và nâng
cao đời sống của đồng bào các dân tộc.
Sáu là, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
người dân tộc thiểu số và coi đây là nhân tố có tính quyết định để thực hiện
thắng lợi
chính sách dân tộc của Đảng ta, là một yêu cầu khách quan của cách mạng Việt
Nam.
Vấn đề cán bộ vốn đã có vị trí đặc biệt quan trọng, đối với miền núi và vùng dân
tộc
thiểu số càng quan trọng hơn nhiều vì ở vùng núi dân trí thấp, ít người biết
tiếng phổ
thông và chữ phổ thông, việc tuyên truyền phổ biến chủ trương chính sách của
chúng ta
lại ít dùng tiếng dân tộc cho nên khả năng tiếp thu của đồng bào dân tộc thiểu
số còn
hạn chế. ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số, vai trò của cán bộ địa phương có ý
nghĩa
quyết định trực tiếp. Nhân dân các dân tộc hiểu biết, tin tưởng vào Đảng và Nhà
nước
thông qua những cán bộ đảng viên tận tâm, gắn bó với dân. Hồ Chí Minh coi cán bộ
là
cái gốc của mọi công việc, cho nên cần đặc biệt chú trọng đến đào tạo và bồi
dưỡng đội
ngũ cán bộ dân tộc thiểu số, đồng thời tăng cường đoàn kết giữa cán bộ tại chỗ
và cán
bộ ở nơi khác đến, làm động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở vùng
dân tộc
thiểu số và miền núi. Hồ Chí Minh coi cán bộ là những người đem chính sách của
Đảng
và Nhà nước giải thích cho quần chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình
hình của
nhân dân báo cho Đảng và Nhà nước hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng.
1.2.1.3. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Thuật ngữ "chính sách dân tộc" cần được phân biệt với chính sách xã hội, chính
sách miền núi và chính sách dân vận của Đảng.
Chính sách dân tộc giải quyết mối quan hệ trong cộng đồng dân cư đa dân tộc
của một quốc gia theo quan điểm của giai cấp nắm chính quyền. Chính sách dân tộc
của
Đảng Cộng sản là một hệ thống chủ trương, giải pháp lớn, nhằm thực hiện quyền
bình
đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc, trong đó có sự quan tâm
đến các
dân tộc thiểu số có trình độ phát triển kinh tế thấp. Chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà
nước ta đảm bảo phát huy sức mạnh của cả dân tộc và bản sắc tốt đẹp của mỗi dân
tộc,
giải quyết đúng đắn quan hệ lợi ích giữa các dân tộc, làm cho các dân tộc đoàn
kết bình
đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Từ sự phân tích trên có thể rút ra khái niệm
chính
sách dân tộc là bao gồm những chính sách tác động trực tiếp đến dân tộc và quan
hệ dân
tộc nhằm mục đích phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
an ninh và
quốc phòng ở các vùng dân tộc thiểu số; xây dựng khối đại đoàn kết trong cộng
đồng
các dân tộc Việt Nam; tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, vì mục
tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chính sách xã hội là chính sách về con người, chăm lo bồi dưỡng và phát huy
nhân tố con người. Trên ý nghĩa đó, chính sách dân tộc nằm trong chính sách xã
hội
nhưng không đồng nhất với chính sách xã hội. Đảng ta xác định chính sách dân tộc
là
vấn đề chiến lược lớn của cách mạng. Đồng nhất chính sách dân tộc với chính sách
xã