LUẬN VĂN: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay
7,054
721
82
và đủ nội dung dạy học. Nó giúp giảng viên trả lời được câu hỏi: Dạy cái gì? Dạy
đến
mức độ nào là phù hợp? Tránh tình trạng dạy thừa và thiếu nội dung cần thiết.
Mục tiêu dạy học cũng là cơ sở để giúp học viên biết được mình nên học cái gì
và học như thế nào? Dựa vào đó học viên có thể chủ động thời gian và kế hoạch
học tập
của mình. Tránh tình trạng học lan man, học theo hứng thú, học không có trọng
tâm.
Như vậy, để có một phương pháp giảng tốt thì trước hết phải xác định được mục
tiêu dạy học. Từ mục tiêu dạy học đó, người giảng viên phải xây dựng được một
nội
dung dạy học phù hợp. Tức là nội dung dạy học chịu sự quy định của mục tiêu dạy
học.
Nội dung dạy học được xây dựng từ giáo trình, tài liệu tham khảo và từ nền văn
hóa của
nhân loại. Người giảng viên phải biết phân tích, khai thác và vận dụng giáo
trình một
cách có hiệu quả. Mặt khác, cần cô đọng nội dung, rút gọn chúng thành những nội
dung
dễ nhớ, dễ vận dụng và nếu cần thiết thì phải biết mở rộng và phát triển nội
dung để
người học nắm sâu hơn về chúng. Do đó, không có sự gia công sư phạm của ngươi
giảng
viên về nội dung dạy học thì hoạt động học của học viên đối với các tài liệu sẽ
gặp rất
nhiều khó khăn. Việc xây dựng nội dung dạy học sẽ làm cho họ xây dựng được một
phương pháp giảng dạy phù hợp, tốt hơn. Nội dung nào thì phương pháp ấy. Từ đó
giúp
họ chủ động hơn trong hoạt động dạy học để vươn tới mục tiêu đã đề ra.
Phương pháp giảng dạy không chỉ chịu sự quy định của mục tiêu và nội dung dạy
học mà còn phụ thuộc vào đối tượng người học. Giảng viên không chú ý đến đối
tượng
người học thì không đảm bảo được sự thống nhất giữa nội dung và phương pháp,
cũng
như hiệu quả đạt tới mục tiêu.
Người giảng viên cần lựa chọn phương pháp giảng khác nhau còn tùy thuộc vào
trình độ, tâm lý, vốn thực tiễn... của người học. Cùng một chương trình trung
cấp lý luận
chính trị, khi giảng cho công nhân, kỹ sư, cán bộ quản lý, lãnh đạo các cấp,
người lớn,
học sinh... thì giảng viên phải có phương pháp khác nhau.
ở trường chính trị, việc lựa chọn phương pháp thích hợp còn phải chú ý đối
tượng là những học viên người lớn tuổi. Theo chúng tôi, họ có một số đặc điểm cơ
bản
cần chú ý như sau:
Điều đáng nói nhất là việc học của người lớn khác với việc học của học sinh (trẻ
em), thường mong muốn học một kỹ năng mới hoặc nhận được kiến thức mới, hoặc
thông tin mới... họ sẽ học tốt hơn khi họ có thể mong đợi những lợi ích trước
mắt. Thêm
vào đó, người lớn không kiên trì với nhiều lý thuyết, kiến thức họ muốn giảng
viên đưa
đến cách tiếp cận đơn giản và đi thẳng vào điều muốn học. Điều này dễ thấy nhất
ở học
viên là những người cán bộ quản lý cơ sở. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nếu
người
lớn thực tập ngay điều họ đã học được và tiếp tục sử dụng nó thì kết quả sẽ được
duy trì
theo chiều hướng tích cực và trí nhớ sẽ cao hơn.
Những ví dụ, vấn đề sử dụng phải mang tính hiện thực phù hợp và đáp ứng được
những yêu cầu của thực tiễn và công tác. Bởi lẽ, những người đến học tập, bồi
dưỡng ở
trường chính trị hầu hết là những người đã có vốn kinh nghiệm trong công tác và
trong
cuộc sống.
Điều đặc biệt quan tâm nữa là học tập của họ sẽ tốt hơn nếu một ý tưởng được
trình bày theo nhiều kiểu khác nhau, sử dụng nhiều phương tiện dạy học khác
nhau,
thông tin đến với họ bằng nhiều kênh khác nhau. Sự phong phú về phương pháp và
phương tiện dạy học sẽ kích thích tính tích cực của học viên.
Trên đây là một số đặc điểm cơ bản cần quan tâm khi giảng dạy cho đối tượng
học viên là người lớn ở trường chính trị trong việc xây dựng phương pháp giảng
dạy.
Như vậy, để đổi mới và tìm ra được phương pháp giảng dạy thích hợp đáp ứng mục
tiêu đào tạo, trước hết giảng viên phải căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản, cụ
thể như đã
nêu ở trên. Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy có hai phương pháp giảng dạy chính:
Phương
pháp giảng dạy truyền thống và phương pháp giảng dạy hiện đại. Sự kết hợp và
phát huy
những nhân tố hợp lý của hai phương pháp này sẽ đem lại phương pháp giảng mới,
tích cực
hơn.
Trong phương pháp truyền thống, mọi hoạt động dạy học đều lệ thuộc vào người
thầy, người học chỉ tiếp thu những tri thức và sự kiện từ phía thầy giáo đã được
chắt lọc
từ vốn hiểu biết của mình. Phương tiện chủ yếu để truyền đạt là lời nói sinh
động của
người thầy (mặc dù có thể có kết hợp một số phương tiện khác).
Do sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, phương pháp dạy học truyền
thống đã bộc lộ những nhược điểm nhất định. Nhược điểm cơ bản nhất của phương
pháp
này là đặt người học ở vị trí thụ động, tiếp thu tất cả những gì mà thầy truyền
đạt cho.
Điều này không phù hợp với sự phát triển của khoa học hiện đại. Người học không
thể
chỉ trông chờ vào những gì mà thầy truyền đạt cho mà phải chủ động học tập. Chỉ
có
trang bị một năng lực chủ động học tập, họ mới tiến hành học tập suốt đời và đạt
kết quả
cao. Cách giảng dạy truyền thống không phát huy được tính tích cực của người
học, do
đó nó không phù hợp được với những người lớn tuổi, ham hiểu biết, những người đã
tích
lũy được một số vốn tri thức qua công tác và cuộc sống, có khả năng học tập chủ
động để
tiến hành các hoạt động nghề nghiệp tốt... Song nói như vậy không có nghĩa là
phủ nhận
hết mọi ưu điểm của phương pháp giảng dạy truyền thống. Những ưu điểm kết tinh
trong
phương pháp đó, đòi hỏi bất cứ ai cũng phải kế thừa và vận dụng, đó là: cấu trúc
bài
giảng sáng sủa, diễn giải phù hợp với lôgíc nhận thức của học viên; sử dụng ngôn
ngữ
thích hợp diễn cảm và sự kết hợp các phương tiện thị giác, thính giác.
Đối với phương pháp giảng dạy hiện đại, đòi hỏi dạy học phải gây ra sự chú ý
của học viên, phải tăng cường các hoạt động tìm tòi ở người học. Từ việc đặt ra
các câu
hỏi gợi mở, hướng dẫn người học, tìm tòi một phần rồi toàn phần. Hoạt động học
tập độc
lập của học viên dưới sự hướng dẫn của giảng viên được đề cao. Dạy tốt là giúp
người
học tốt là tổ chức tốt các hoạt động nhận thức của học viên.
Trong phương pháp hiện đại, hoạt động chủ động, tích cực của người học được
đề cao. Hoạt động học tập là hoạt động tích cực, tự lực và sáng tạo của người
học, do
người học tiến hành. Mọi cố gắng trong người học, xét đến cùng nhằm vào việc
phát huy
vai trò chủ thể của người học, giúp người học biết cách tổ chức hoạt động nhận
thức của
chính mình cho hiệu quả. Những xu hướng dạy học hiện đại, dạy học hướng vào
người
học, lấy người học làm trọng tâm, dạy học giải quyết các vấn đề lý thuyết tình
huống ...
Đó là một số nét đặc trưng cơ bản nhất của phương pháp dạy học hiện đại.
Tóm lại, với hai phương pháp giảng dạy trên, chúng tôi thấy vấn đề cần đặt ra
là:
vì những hạn chế của phương pháp giảng dạy truyền thống mà quá đề cao và áp dụng
phương pháp giảng dạy hiện đại thì sẽ không phù hợp với đối tượng người học ở
trường
chính trị. Bởi lẽ, đối tượng học ở đây là những người có trình độ nhận thức
không đồng
đều; đặc biệt là đội ngũ cán bộ ở cơ sở đi học có trình độ học vấn thấp, tư duy
biện chứng
chưa phát triển. Do đó, họ không thể hoàn toàn chủ động, độc lập, sáng tạo trong
hoạt
động học mà cần phải có sự lý giải, phân tích của người giảng viên.
Vì vậy, để lựa chọn phương hướng giảng dạy tốt, phù hợp là phải vận dụng và kế
thừa những nhân tố hợp lý, ưu điểm của cả hai phương pháp đó. Làm cho hoạt động
dạy
và học của người giảng viên và học viên được kết hợp, tương tác một cách nhịp
nhàng hai
chiều để họ đều tham gia tích cực vào quá trình dạy và học. Từ đó, phương pháp
giảng dạy
mới sẽ phát huy vai trò quan trọng của người thầy và kích thích tư duy sáng tạo
của người
học.
Muốn vậy, giảng viên cần chú ý một số vấn đề sau trong việc lựa chọn phương
pháp giảng dạy của mình:
- Đưa ra lượng tri thức, thông tin vừa đủ, cô đọng, dễ nhớ.
- Tăng cường vận dụng kiến thức vào thực tiễn sinh động, làm cho học viên cuốn
hút, dễ hiểu.
- Tăng cường tính chủ động của học viên trong học tập: Cho học viên tham gia
tích cực thảo luận, đặt ra các câu hỏi để họ suy nghĩ và trả lời.
- Yêu cầu học viên tập giải quyết các vấn đề có liên quan đến thực tiễn.
Muốn thực hiện tốt các yêu cầu này, nhà trường phải tổ chức, kết hợp tốt công
tác nghiên cứu giảng dạy và học tập với việc đi tham quan thực tế làm cho lý
luận gắn
liền với cuộc sống sinh động của xã hội. Qua đó, nâng cao và làm phong phú hơn
kiến
thức của người giảng viên cũng như kiến thức của người học. Mặt khác, việc nhà
trường
tăng cường tổ chức đi nghiên cứu thực tế và viết tiểu luận cuối khóa cho học
viên là
thông qua đó có thể xây dựng các đề án công tác thiết thực - giúp cho người học
tập dượt,
phân tích, đánh giá, tổng hợp tình huống nhằm giải quyết tích cực đúng và trúng
các vấn
đề đặt ra từ thực tiễn ở địa phương, đơn vị sau khi kết thúc khóa học.
Tóm lại, việc đổi mới phương pháp giảng dạy và tìm ra phương pháp giảng dạy
tích cực, phù hợp với đặc điểm đối tượng người học ở trường chính trị Hà Nam là
một
trong những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục, bồi
dưỡng
lý luận, góp phần hình thành phát triển thế giới quan duy vật biện chứng cho học
viên -
những người cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam hiện nay.
2.2.2.2. Xây dựng đội ngũ giáo viên ở Trường Chính trị Hà Nam có năng lực,
phẩm chất chính trị vững vàng đảm bảo tốt công tác giảng dạy
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy ở các trường chính trị nói chung và
Trường Chính trị Hà nam nói riêng, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong công cuộc
đổi mới
của đất nước thì một trong vấn đề quan trọng là từng bước chuẩn hóa đội ngũ này
theo
hướng nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn và phẩm chất đạo đức cách mạng. Đây
là
một trong những giải pháp rất cơ bản nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, công tác
đào
tạo và nâng cao chất lượng, góp phần quan trọng giáo dục, bồi dưỡng thế giới
quan duy
vật biện chứng cho đội ngũ cán bộ ở Hà Nam nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý
nói
riêng trong tình hình hiện nay.
Từng bước chuẩn hóa đội ngũ cán bộ giảng dạy ở Trường Chính trị Hà Nam đang
là một đòi hỏi khách quan, điều đó xuất phát từ thực trạng đội ngũ cán bộ giảng
dạy cũng
như yêu cầu công tác giáo dục, đào tạo hiện nay.
Trường Chính trị tỉnh Hà Nam là trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trong hệ
thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở. ở đó cán bộ có điều kiện tiếp cận nội dung
kiến thức cơ
bản để phục vụ hoạt động công tác của mình, trong đó cơ bản là lý luận chủ nghĩa
Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chủ trương chính sách và Đảng Cộng sản
Việt
Nam, đường lối chủ trương chính sách của Đảng. Đây là khối kiến thức chủ yếu
chiếm
trên 35% tổng quỹ thời gian đào tạo, bồi dưỡng, có vai trò quyết định đến việc
hình
thành, phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Như vậy, đội ngũ cán bộ
giảng dạy nói
chung và đội ngũ cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin nói riêng có một vai trò
quan trọng
đặc biệt. Họ là những người trực tiếp truyền thụ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí
Minh, đường lối chủ trương của Đảng, nghiệp vụ công tác Đảng, chính quyền đoàn
thể, ...
từ đó tạo lập lòng tin vững chắc vào cách mạng Việt Nam vào con đường đi lên chủ
nghĩa
xã hội, đẩy lùi thế giới quan duy tâm, tôn giáo, thế giới quan tiền khoa học,
những căn bệnh
ở cán bộ nói chung và cán bộ lãnh đạo, quản lý nói riêng. Trên cơ sở niềm tin
ấy, tạo ra
một động lực thúc đẩy họ lãnh đạo quần chúng thực hiện thắng lợi công cuộc đổi
mới của
đất nước và của tỉnh nhà.
Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị được giao, từ đặc thù của đối tượng đào tạo, từ
thực tiễn của tỉnh nhà, đội ngũ giảng dạy ở Trường Chính trị Hà Nam có một số
đặc điểm
công tác chủ yếu sau:
Thứ nhất: Đội ngũ cán bộ giảng dạy ở trường Chính trị Hà Nam là những người
hoạt động sư phạm.
Với tư cách là nhà giáo dục, người cán bộ giảng dạy lý luận phải có phương pháp
sư phạm tốt. Năng lực và trình độ chuyên môn của họ được thể hiện đậm nét ở
phương pháp
sư phạm. Nó không những đòi hỏi ở họ một trình độ tư duy lý luận sâu sắc, sự am
hiểu
rộng... mà còn đòi hỏi ở họ một nghệ thuật sư phạm, một khả năng diễn thuyết với
ngôn ngữ
trong sáng, ngắn gọn, trau chuốt... Có như vậy người cán bộ giảng viên ở trường
chính trị
mới truyền đạt đến người học một cách hấp dẫn và hoạt động dạy học mới có chất
lượng,
hiệu quả. Hay nói cách khác, để giảng dạy tốt, đòi hỏi người cán bộ giảng dạt
phải có trình
độ học vấn, năng lực tư duy lý luận nhất định, với tri thức thực tiễn phong phú
kết hợp với
quá trình học tập, rèn luyện lâu dài, dày công để có một phương pháp sư phạm đạt
tới trình
độ nghệ thuật. Sở dĩ với đòi hỏi như vậy bởi vì cán bộ giảng viên ở trường chính
trị không
chỉ giảng dạy lý luận chính trị đơn thuần mà còn phải hướng dẫn, thực hành cho
học viên
phương pháp hoạt động thực tiễn. Chính điều này khác với giảng viên ở các trường
chuyên nghiệp là họ phải vươn lên vừa là người truyền đạt tri thức là người dẫn
đường
chứ không chỉ là người chèo đò, để trao cho học viên cái chìa khóa, phương pháp
mở cửa
chứ không phải là lý luận suông.
Mặt khác, việc giảng dạy đối với các môn học ở chương trình còn đòi hỏi người
dạy phải có năng lực trừu tượng hóa và khái quát hóa cao đặc biệt là đối với các
môn lý
luận Mác - Lênin. Có như vậy mới bồi dưỡng nâng cao thế giới quan và phương pháp
luận khoa học cách mạng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ cơ sở đến tỉnh.
Trong những năm qua, mặc dù đội ngũ giảng dạy đã có những cố gắng, phấn đấu
rất lớn, song họ vẫn còn những tồn tại hạn chế nhất định. Đặc biệt đối với đội
ngũ giáo
viên trẻ thì trình độ phương pháp sư phạm đang là một trong những vấn đề cần
khắc phục
cấp thiết. ở họ biểu hiện giữa tư duy và ngôn ngữ, giữa nội dung và phương pháp,
giữa lý
luận và thực tiễn... còn là một khoảng cách, độ "lệch pha" nhất định.
Điều đó đã cản trở khả năng tiếp thu lý luận cũng như việc xây dựng, phát triển
thế giới quan cho cán bộ nói chung và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Hà Nam
nói
riêng. Vì vậy, theo chúng tôi, đội ngũ giảng viên phải được tham gia các lớp tập
huấn sư
phạm định kỳ, giảng viên phải có các sách hướng dẫn giảng dạy từng môn học để họ
có
thể khắc phục sự khiếm khuyết hiện nay.
Về lâu dài nhà trường phải có kế hoạch để nâng cao trình độ của giáo viên qua
các khóa đào tạo cao học hoặc tiến sĩ trong đó cấp thiết nhất là đào tạo cao
học.
Thứ hai: Giảng viên ở trường chính trị Hà Nam không chỉ là nhà Sư phạm mà
còn là người tham gia nghiên cứu khoa học. Xuất phát từ bản thân yêu cầu công
tác trong
nhà trường, người cán bộ giảng dạy phải kết hợp công tác giảng dạy với công tác
nghiên
cứu khoa học.
Người cán bộ giảng dạy không chỉ nắm chắc các tri thức khoa học, nhất là của
kiến thức chuyên môn đã được thể hiện ở trình độ nhận thức lý luận cũng như cách
thức
tiếp cận thực tiễn, giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra. Chính thông qua
nghiên cứu
khoa học, người cán bộ giảng dạy mới hiểu sâu sắc thấu đáo hơn lý luận, đặc biệt
là chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó bổ sung, phát triển lý luận lấy
đó làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Có tham gia nghiên cứu
khoa
học, người cán bộ giảng dạy mới sát thực tiễn, kịp thời phát hiện ra những vấn
đề mới do
cuộc sống sinh động đặt ra. Trên cơ sở ấy mà tìm cách lý giải về mặt lý luận và
đề xuất
những phương án giải quyết kịp thời. Như thế tức là hoạt động nghiên cứu khoa
học thực
hiện nguyên tắc lý luận thống nhất với thực tiễn, làm cho năng lực tư duy của
người cán
bộ giảng dạy cũng phát triển năng động sáng tạo và không ngừng nâng cao chất
lượng
đào tạo giảng dạy của mình. Như vậy, có thể khẳng định rằng nghiên cứu khoa học
sẽ
góp phần nâng cao tri thức khoa học cho người cán bộ giảng dạy - một bộ phận cơ
bản,
nền tảng của thế giới quan khoa học.
Đối với Trường Chính trị Hà Nam trong những năm qua, hoạt động nghiên cứu
khoa học đã được quan tâm đặc biệt, coi đó là nhiệm vụ trọng yếu không thể thiếu
của
nhiệm vụ công tác tư tưởng chính trị trong nhà trường. Mặc dù với một đội ngũ
giảng
viên còn mỏng, còn trẻ chỉ có 30% trình độ thạc sĩ, còn lại là đại học và cao
đẳng nhưng
nhà trường đã quyết tâm phát hành định kỳ "nội san thông tin - trao đổi" mỗi năm
một
số, với số lượng 300 cuốn/năm gửi tới các trường chính trị, các ban của Đảng
trong tỉnh.
Đặc biệt, nhà trường đã hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh với chủ
đề:
"Những giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ xã, thôn của tỉnh Hà Nam trong thời
kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" và hàng loạt các cuộc hội thảo với chủ
đề như:
"Quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo", "nâng cao chất
lượng quản lý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phương pháp giảng dạy", "các biện
pháp
nâng cao chất lượng giảng dạy, đào tạo ở trường chính trị Hà Nam"... [44, tr.10;
12].
Tất cả những công việc đó đã đóng góp đáng kể vào thành tích chung của tỉnh
nhà và của trường chính trị nói riêng, trong đó đã đem lại ý nghĩa to lớn cho
việc nâng
cao trình độ lý luận và thực tiễn của cán bộ giảng viên góp phần tích cực vào
công tác
giảng dạy. Tuy nhiên, việc nghiên cứu khoa học của đội ngũ giáo viên còn rất hạn
chế, số
người tham gia viết nội san chỉ chiếm 40% trong tổng số cán bộ giảng dạy. Vì
vậy, cần
có những đề tài khoa học cơ sở, phù hợp với trình độ giáo viên hiện nay để có
thể tham
gia vào việc tổng kết thực tiễn hoặc làm rõ các vấn đề lý luận cơ bản. Mặt khác,
cần có
những yêu cầu bắt buộc để các cán bộ, giảng viên có thể tham gia nghiên cứu khoa
học
hiện nay.
Thứ ba: Đội ngũ giảng viên trường chính trị vừa là người hoạt động lý luận vừa
là người hoạt động thực tiễn. Họ không chỉ truyền bá mà còn nghiên cứu, bảo vệ,
phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, chính sách của
Đảng và
Nhà nước ta, tham gia cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận, đập tan những luận điểm
sai trái,
phản khoa học, góp phần củng cố địa vị chính trị, tư tưởng làm cho hệ tư tưởng
chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh
thần xã
hội. Vì vậy đòi hỏi người cán bộ giảng dạy phải có trình độ lý luận cao, thấu
hiểu bản
chất cách mạng, khoa học của thế giới quan và phương pháp luận duy vật biện
chứng
cũng như những tri thức của nhân loại, những thành tựu mới nhất của khoa học
hiện
đại…
Là người làm công tác lý luận đồng thời là người hoạt động thực tiễn, cán bộ
giảng viên ở trường chính trị không chỉ hội đủ các yếu tố, điều kiện đảm bảo cho
việc
hoàn thành nhiệm vụ giảng dạy lý luận khoa học và cách mạng mà phải thực sự là
người
hoạt động thực tiễn như tích cực nghiên cứu thâm nhập thực tế hiểu biết các lĩnh
vực thực
tiễn của xã hội đã và đang diễn ra; tham gia các hoạt động chính trị xã hội có
thể đảm
nhiệm một số chức vụ công tác Đảng, chính quyền đoàn thể chính trị xã hội…. Có
như
vậy hoạt động giảng dạy của người giáo viên ở trường chính trị không dừng lại ở
"lý luận
chay", "lý luận suông" mới thực sự đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực
tiễn. Vì vậy, địa phương và nhà trường cần tạo mọi điều kiện để giáo viên gắn bó
với
thực tiễn thông qua các biện pháp cụ thể như: Cử giáo viên mới đi thực tế địa
phương từ
6 tháng đến 1 năm; thường xuyên cử giáo viên tham gia vào một số phong trào quần
chúng quan trọng; sử dụng giáo viên vào việc xây dựng các chủ trương, chính sách
của
địa phương; thường xuyên thông tin cho đội ngũ giáo viên về những thành tựu và
khó
khăn của tỉnh.
Đồng thời, người cán bộ giảng dạy phải thường xuyên tu dưỡng rèn luyện nâng
cao trình độ lý luận và nắm bắt, xử lý các vấn đề của thực tiễn xã hội đặt ra.
Tóm lại, từ những phân tích trên đây chúng ta thấy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ
giảng dạy ở Trường Chính trị Hà Nam nói riêng và ở các trường chính trị nói
chung đòi
hỏi ở họ cần phải có học vấn sâu rộng, trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, năng
lực lý
luận và thực tiễn cao. Song bên cạnh các yếu tố đó, điều cực kỳ quan trọng nữa
là xây
dựng người cán bộ giảng viên phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo
đức
trong sáng, đồng thời có năng lực sư phạm đáp ứng yêu cầu đào tạo hiện nay.
Bản lĩnh chính trị của người cán bộ giảng viên được biểu hiện ở sự giác ngộ sâu
sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thế giới quan và phương pháp
luận
khoa học; kiên định và bảo vệ con đường cách mạng Việt nam mà Bác Hồ và nhân dân
ta
đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; tin tưởng vào công
cuộc đổi
mới do Đảng ta khởi xướng, vào sức mạnh đoàn kết của nhân dân; đứng vững trên
lập
trường của giai cấp công nhân, không dao động, khắc phục khó khăn, vượt qua gian
khổ,
hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao.
Phẩm chất đạo đức trong sáng của người cán bộ giảng viên là một nhân tố quan
trọng
để hình thành nên nhân cách của một nhà giáo dục chân chính.
Nhân cách của người thầy tốt sẽ tác động tích cực đến nhân cách của người học.
Bởi vậy, mỗi cán bộ giáo viên phải là một tấm gương trong sáng về phẩm chất đạo
đức
và tác phong làm việc, đó là: trung thực, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư; yêu
thương, quý trọng con người, sống giản dị, lành mạnh, khiêm tốn, say sưa nghiên
cứu,
học tập... kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực như: chủ nghĩa cá
nhân, vị
kỷ, cơ hội, tham quyền cố vị, tham ô lãng phí, độc lập, chuyên quyền, tự phụ...
Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng nói: "Công việc thành công hay thất bại do cán bộ có đạo đức
tốt
hay kém" [34, tr. 273] và người dạy: "Nhiệm vụ của các cô giáo, thầy giáo rất
nặng nề
nhưng rất vẻ vang. Muốn làm tròn nhiệm vụ đó thì phải gương mẫu về mọi mặt,
không
ngừng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lập trường chính trị, phải ra sức đoàn kết
nhau
cùng tiến bộ" [34, tr. 616]. Đạo đức và tác phong ấy phải được bộc lộ ra bằng
công việc,
hành động cụ thể, chứ không chỉ bằng những câu nói, bằng những lời hoa mỹ...
Lênin đã
từng viết: "Xét đoán một con người không nên căn cứ vào lời người đó nói hoặc
nghĩ về
bản thân người đó như thế nào, mà phải căn cứ vào hành động của người đó" [26,
tr.
265]. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, những tiêu cực của kinh tế thị trường
đã, đang
ảnh hưởng không nhỏ đến đạo đức xã hội. Vì vậy, xây dựng đạo đức cách mạng của
đội
ngũ trí thức nói chung và cán bộ giảng viên nói riêng là việc làm cấp thiết.
Thực tế cho