LUẬN VĂN: Vấn đề bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho học viên trường chính trị Hà Nam hiện nay
7,038
721
82
đạo của giai cấp công nhân - thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản, tin
tưởng vào
sức mạnh của quần chúng lao động. Có như vậy thì nước ta mới thực hiện thắng lợi
sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo quản lý
trong tỉnh nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm định hướng
cho
hoạt động nhận thức và thực tiễn tiếp theo.
Tổng kết thực tiễn là những kết luận chung được rút ra sau khi kết thúc, hoàn
thành xong một công việc nào đất. Trong đó người cán bộ phải thật khách quan,
khoa học
khi đánh giá kết luận, tìm ra những nguyên nhân thành công và thất bại ở mỗi
công việc.
Trên cơ sở ấy rút ra được những tri thức, hiểu biết mới tức là tri thức kinh
nghiệm để
định hướng cho hoạt động thực tiễn tiếp theo.
Có thể nói, hoạt động của con người nói chung và người cán bộ lãnh đạo quản lý
nói riêng rất cần tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm đã giúp cho người
cán bộ
trong thời gian qua giải quyết được nhiều vấn đề cụ thể, đơn giản đặc biệt là
đối với đội
ngũ cán bộ cơ sở. Nhưng chỉ dừng lại ở tri thức kinh nghiệm thì sẽ lại khó tránh
khỏi
lúng túng, bất lực thậm chí sai lầm khi giải quyết những vấn đề phức tạp trước
yêu cầu
của thời kỳ mới. Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý khi giải quyết công
việc phối
kết hợp nhuần nhuyễn, hợp lý giữa kinh nghiệm với lý luận khoa học, phải nắm
vững
nguyên lý, yêu cầu của thế giới khách quan, phải nắm bắt thực tiễn những vấn đề
cần
tổng kết, phân tích, tổng hợp, chắt lọc những thông tin cơ bản, chủ yếu để đút
rút ra bài
học kinh nghiệm kết hợp với tri thức lý luận khoa học nhằm giải quyết công việc
có hiệu
quả. Đó là nhiệm vụ thường xuyên mà người cán bộ lãnh đạo quản lý cần làm. Chỉ
trên
cơ sở thế giới quan duy vật biện chứng người cán bộ mới tổng kết thực tiễn đút
rút kinh
nghiệm một cách khoa học, kịp thời phát hiện ra cái mới, cái tiến bộ và tạo điều
kiện cho
chúng phát triển. Những kinh nghiệm được rút ra đó không chỉ phù hợp với thực tế
khách
quan phong phú và đa dạng mà nó còn có tác dụng mạnh mẽ điều chỉnh bổ sung cho
các
đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước nói chung và những chiến
lược,
sách lược cho địa phương mình phụ trách nói riêng.
Thứ tư: Thế giới quan duy vật biện chứng giúp cho người cán bộ lãnh đạo, quản
lý trau dồi và nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng.
Thế giới quan duy tâm và phản động phản ánh sau lệch hiện thực khách quan, bảo
vệ
lợi ích giai cấp bóc lột và đánh lạc hướng nhằm ngăn cản nhân dân lao động đấu
tranh tự
giải phóng mình. Ngược lại, thế giới quan duy vật biện chứng phản ánh đúng đắn
hiện thực
khách quan và bảo vệ lợi ích căn bản của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Nó là
vũ khí lý luận sắc bén, là kim chỉ nam soi đường cho giai cấp công nhân lãnh đạo
nhân
dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới đấu tranh giải phóng khỏi bị
bóc lột và
nô dịch, tiến lên xây dựng một xã hội văn minh và nhân đạo hơn: Xã hội cộng sản
chủ
nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Đó là xã hội mà quan hệ giữa người
với
người là hợp tác, bình đẳng, tương thân tương ái.
Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và thế giới quan duy vật biện chứng nói riêng
đã kế thừa tất cả những giá trị tư tưởng văn hóa của nhân loại đã có từ trước,
nó luôn luôn
gắn liền với thực tiễn của phong trào cách mạng, thực tiễn vận động của lịch sử,
của sự
phát triển của khoa học kỹ thuật với cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận chống lại
các học
thuyết tư sản, các loại chủ nghĩa cơ hội, xét lại, cải lương, chủ nghĩa sô vanh,
chủ nghĩa
dân tộc hẹp hòi. Nó cũng hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều xơ cứng. Nó là
học
thuyết về sự phát triển nhằm định hướng cho con người vươn tới cái tự do, thoát
khỏi sự
thống trị của tự nhiên và thống trị của con người với con người. Đó là tính nhân
văn cao
cả của thế giới quan duy vật biện chứng.
Mặt khác, thế giới quan duy vật biện chứng không chỉ là phương thức định
hướng con người trong thế giới, phương thức cải tạo hiện thực mà còn là phương
thức để
con người tự ý thức hoàn thiện về bản thân mình. Tự ý thức là sự đánh giá bản
thân và vị
trí của mình trong cuộc sống là điều kiện quan trọng nhất để con người phải dựa
vào ý
thức, hành động theo định hướng chung của xã hội và những quan niệm giá trị của
mình.
Nó là cơ sở để điều chỉnh các hành vi tích cực của mình trong các quan hệ xã
hội. Chính
tự ý thức là một nhân tố mà con người ngày một phát triển hoàn thiện nhân cách
và đạo
đức cá nhân.
Như vậy, đạo đức cộng sản, đạo đức cách mạng là một bộ phận không thể thiếu của
cán bộ, lãnh đạo do tự giáo dục và rèn luyện mà có. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói:
"Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện
bền bỉ
hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, càng luyện
càng trong" [34, tr. 327]. Từ đó, Người chỉ ra đạo đức cơ bản của người cán bộ
đó là:
Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề đạo đức phải đặc biệt quan tâm, nhất là đối với
cán bộ, đảng viên. Chúng ta vui mừng trước những thành tựu đạt được trong công
cuộc
đổi mới, tuy nhiên nền kinh tế thị trường, giao lưu mở cửa với bên ngoài thì mặt
trái của
nó đang đặt ra những vấn đề đạo đức bức xúc, cần giải quyết. Nền văn minh hiện
cũng
cần đạo đức tương ứng. Đạo đức ấy không tìm ở đâu khác, mà nền tảng của nó chính
là là
học tập thế giới quan duy vật biện chứng và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đẩy
lùi chủ
nghĩa cá nhân, bệnh kiêu ngạo, quan liêu, óc địa phương hẹp hòi, tham ô lãng
phí, hiếu
danh, chạy theo đồng tiền, bất chấp nhân phẩm con người... phải có trách nhiệm
với nhân
dân, với Tổ quốc, có như vậy mới được dân tin và lôi kéo họ vào sự nghiệp cách
mạng.
Yêu cầu của thời kỳ mới ở nước ta đòi hỏi người cán bộ phải có phẩm chất đạo
đức và trình độ năng lực tương ứng. Việc giáo dục, bồi dưỡng thế giới quan duy
vật biện
chứng sẽ giúp cho người cán bộ tin tưởng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, tin
vào sự nghiệp lãnh đạo của Đảng, của giai cấp công nhân và sức mạnh của toàn
dân, giúp
họ nâng cao năng lực nhận thức, hoạt động thực tiễn, đồng thời cũng hình thành ở
họ
những phẩm chất đạo đức mới, nhằm thực hiện thắng lợi giai đoạn cách mạng mới
đặt ra.
Muốn vậy, người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải học tập, nghiên cứu nguyên tắc,
phương
pháp luận khoa học của thế giới quan duy vật biện chứng, đồng thời Đảng phải
tăng
cường công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
1.2. Đặc điểm của thế giới quan của đội ngũ cán bộ tỉnh Hà Nam
1.2.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến thế giới quan của đội ngũ cán bộ ở Hà
Nam
1.2.1.1. ảnh hưởng của điều kiện địa lý, tự nhiên
Tự nhiên theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật chất khách quan. Xét về mặt
tiến
hóa, con người có nguồn gốc tự nhiên, là sản phẩm và là sản phẩm cao nhất của
quá trình
tiến hóa của thế giới vật chất. Chính môi trường tự nhiên là tiền đề cho sự tồn
tại và phát
triển của con người. C.Mác khẳng định: "Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con
người",
"đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên" [31,
tr. 135], hay nói
cụ thể hơn, môi trường tự nhiên, điều kiện địa lý có tác động mạnh mẽ đến đời
sống vật
chất và đời sống tinh thần của con người, tác động đến cách nhìn nhận thế giới
và
phương pháp tư duy của con người.
Hà Nam là một tỉnh nằm ở phía tây nam đồng bằng Bắc Bộ, vào khoảng 20,41 độ
vĩ Bắc, 105,31 độ Kinh Đông, phía bắc giáp Hà Tây, phía nam giáp Nam Định, phía
đông
qua sông Hồng là Hưng Yên và Thái Bình, phía tây nam là Ninh Bình, phía Tây giáp
với
Hòa Bình, với diện tích tự nhiên là 840 km
2
bao gồm 5 huyện (Kim Bảng, Thanh Liêm,
Bình Lục, Lý Nhân, Duy Tiên) và thị xã Phủ Lý.
Địa hình của tỉnh chia làm hai khu vực rõ rệt: Khu vực miền núi và khu vực đồng
bằng. Vùng núi tỉnh Hà Nam được hình thành vào Nguyên đại Trung sinh, cuối kỷ
Trias
cách ngày nay khoảng 200 triệu năm. Theo tài liệu địa chất, do có sự tạo sơn ở
hai rìa sông
Nhị làm đứt gãy sông Hồng và sự sụt lún ở phần giữa bán bình Nguyên Trung sinh
mà
phần còn lại được hình thành những núi đồi sa phiến thạch hay đá hỗn hợp như núi
Đọi,
núi Điệp, kẻ Non và dải đất đồi Thanh Liêm cho tới tận núi An Lão (Bình Lục).
ảnh
hưởng của những đợt tạo sơn đã nâng ghềnh phía hạ lưu sông Hồng lên biển.
Ngày nay, khu vực miền núi Hà Nam bao gồm một phần đất của Kim Bảng và
Thanh Liêm nằm bên hữu ngạn sông Đáy, nối liền với khu vực rừng núi Hòa Bình.
Đây
là vùng tài nguyên khoáng sản đa dạng, phong phú với các dãy núi đá vôi có trữ
lượng
hàng tỷ mét khối. Trong các dãy núi này có nhiều loại đá quý hiếm đá trắng, đá
đen, đá
bích đào, đá vân vàng, đá màu da báo ở huyện Kim Bảng, ngoài các loại đá quý, Hà
Nam
còn có than bùn, đất sét trắng ở Thanh Liêm và Kim Bảng.
Bên phía tả ngạn sông Đáy đến giáp sông Hồng là vùng đồng bằng, trong đó 2/3
diện tích là đồng chiêm trũng, có nơi chỉ cao 0,3 m so với mặt nước biển.
Do điều kiện tự nhiên được chia làm hai vùng rõ rệt như vậy, làm cho lối sống và
tư duy của người dân có sự khác biệt, không tương đồng. Sống giữa núi non hùng
vĩ bao la,
với phương thức sản xuất lạc hậu, thiếu áp dụng của khoa học kỹ thuật làm cho
lối sống
của người dân ở vùng núi giản đơn, mộc mạc, phóng khoáng cùng với lối suy nghĩ
thần
bí, duy tâm, thiếu cơ sở khoa học. Còn đối với người dân sống ở đồng chiêm trũng
với
phương thức sản xuất nhỏ manh mún, cuộc sống bon chen đã tạo ra ở họ lối sống vị
kỷ, cục
bộ địa phương gắn với tư duy bảo thủ, trì trệ, tư tuy kinh nghiệm phát triển...
tất cả những
điều đó đã tác động không nhỏ đến việc hình thành, phát triển của thế giới quan
của
người dân Hà Nam từ ngày xưa cho đến ngày nay.
1.2.1.2. ảnh hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội
Theo quan điểm triết học Mác - Lênin, điều kiện địa lý và môi trường tự nhiên
mới
chỉ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến đời sống con người, còn yếu tố cơ bản
quyết định là
phương thức sản xuất, hoạt động kinh tế của con người. Do vậy, việc nghiên cứu
sự phát
triển kinh tế mà trước hết là trình độ của lực lượng sản xuất, trình độ phân
công lao động
sẽ cho ta chìa khóa để hiểu được ý thức xã hội nói chung và thế giới quan ở
người cán bộ
Hà Nam nói riêng.
Có thể nói, hàng trăm năm trước đây người dân Hà Nam chủ yếu làm nông
nghiệp, mặc dù có kết hợp đáng kể nghề thủ công và buôn bán nhỏ trong vùng. Đất
nông
nghiệp được gọi là đồng chiêm trũng ấy chiếm khoảng 2/3% diện tích tự nhiên của
tỉnh.
Đồng ruộng ở Hà Nam nằm sâu trong đất bùn, do các đồi núi và hệ thống đê đập che
chở
nước phù sa ít nên những vùng đất này bị úng triền miên, màu đất thường đen hoặc
nâu
nhạt, độ phì nhiêu kém, độ PH cao không thuận lợi cho phát triển sản xuất nông
nghiệp.
Vì vậy, vùng đất này được mệnh danh là "Sống ngâm da, chết ngâm xương". ở
mấy đình chùa ở Hà Nam người ta đã bắt gặp mấy câu thơ nói về vị trí quan trọng
của
nghề nông: "Dĩ nông vi bản" (nông nghiệp là cái gốc bền vững của mỗi quốc gia và
mọi
nhà).
"Khai hoang địa huấn nông trang, thiên niên sinh nghiệp dưỡng tế ngư, giáo
chức bạch, vạn thế điền gia" (mở đất hoang, dạy dân cày, ngàn năm lấy đó làm
nghề sinh
sống. Nuôi cá nhỏ, khuyên dệt vải, muôn đời cứ thể cảnh nhà nông).
Chính vì cái nền sản xuất nông nghiệp nhỏ như vậy, với lối làm ăn riêng lẻ, kỹ
thuật thô sơ kéo dài hàng nghìn năm đã ảnh hưởng sâu sắc đến nếp nghĩ, tình cảm,
phong
tục tập quán và cách làm ăn sinh sống của người dân Hà Nam. Nền sản xuất nhỏ ấy
làm
nền tảng cho sự duy trì lớn tư duy huyền thoại, lẻ tẻ manh mún,thiếu tri thức
khoa học mà
chủ yếu xuất phát từ tri thức kinh nghiệm rời rạc. Trong cuộc sống khổ cực nhân
dân phải
bám những ảo tưởng để an ủi, sự nghèo khổ đã biến những cái hiện thực thành
những
chuyện hoang đường, biến cái tự nhiên thành cái siêu tự nhiên. Bởi vậy, trước
cách mạng
mê tín dị đoan, sự thờ cúng, tôn giáo tín ngưỡng tồn tại và phát triển trong
người dân là
điều không tránh khỏi.
Điều kiện kinh tế - xã hội cũ đã đẻ ra những tư tưởng bảo thủ, tính tư hữu nhỏ
hạn chế tính tích cực sáng tạo, lối sống tự ti, lối sống "đèn nhà ai nhà ấy
rạng", "Ăn cây
nào rào cây ấy". Các Mác viết:
Phương thức sản xuất của người tiểu nông không làm cho họ liên hệ
với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau (...!). Trường hoạt động sản xuất
của họ, một miếng đất nhỏ bé không cho phép áp dụng một sự phân công lao
động nào cũ, một sự áp dụng khoa học nào cả. Do đó, cũng không cho phép
một sự phát triển nhiều màu, nhiều vẻ nào cả, một sự phân biệt tài năng nào
cả, cũng không cho phép có một sự phong phú nào về các quan hệ xã hội [30,
tr. 375].
Như vậy, nghề nông nghiệp là hoạt động kinh tế chủ yếu của người dân Hà Nam,
với cơ sở kỹ thuật thủ công lạc hậu, phân công lao động có tính chất tự nhiên,
truyền
thống, gieo trồng thời vụ đã làm cho họ luôn phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên,
thiếu tính
chủ động và khi sản xuất không được rộng, phát triển thì cũng không có nhu cầu
khách
quan cho tư duy khoa học nảy nở. Khoa học tự nhiên, kỹ thuật, khoa học thực
nghiệm
hầu như không được nghiên cứu, không được giảng dạy. Do đó, nghề nông nghiệp lạc
hậu
ấy không thúc đẩy việc hình thành phát triển tư duy trừu tượng, tư duy lôgíc mà
chủ yếu
là tư duy cảm tính, tri thức kinh nghiệm. ở họ chỉ thấy hiện tượng mà không thấy
bản
chất, chỉ thấy lợi trước mắt mà không thấy lợi ích lâu dài. Họ hoài nghi cái lạ,
dè dặt với
cái mới, trong phương pháp suy nghĩ của họ nặng về tình cảm, nhẹ về lý trí. Từ
đó, họ dễ
mắc bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm, bệnh chủ quan duy ý chí, dễ rơi vào ảo tưởng.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến đầu những năm 80, kinh tế Hà Nam đã
có thay đổi nhưng về cơ bản vẫn mang nặng tính chất của một nền sản xuất nhỏ,
kinh tế
tự nhiên. Do lực lượng sản xuất rất thấp kém, sự phân công lao động chưa đáng
kể, nền
kinh tế hàng hóa chưa phát triển, chủ yếu là tự cung cấp. Trong những năm 50 và
đầu
những năm 60 của thế kỷ XX, tư bản nước ngoài và trong nước có lác đác tiến hành
đầu
tư một số cơ sở sản xuất kinh doanh nhưng quy mô và tốc độ chưa phát triển đáng
kể.
Đến khi Hà Nam và Nam Định được sát nhập thành tỉnh Nam Hà (năm 1965) thì từ đó
trở đi nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là công nghiệp vật liệu xây
dựng như một
số nhà máy xi măng, nhà máy đá thuộc nhà nước và tư nhân đã phát triển khá mạnh.
Những cơ sở này tập trung chủ yếu ở các vùng có điều kiện khai thác và thuận lợi
về giao
thông. Chính sự đầu tư phát triển kinh tế vào các vùng này đã kéo theo quá trình
đô thị
hóa, di cư tập trong ở đây đã ngày một đông đủ, buôn bán đã ngày một phát triển,
hình
thành lên các thị trấn, thị tứ. Quá trình này đã tạo nên sự cách biệt tương đối
rõ rệt về đời
sống vật chất, tinh thần giữa thành thị và nông thôn - ở những nơi vùng sâu,
vùng đồng
chiêm trũng, làm cho ý thức xã hội nói chung và thế giới nói riêng tương đối
khác nhau.
Thực hiện công cuộc đổi mới của đất nước (1986) đến nay, nhân dân tỉnh Hà
Nam đã nỗ lực phấn đấu, tổ chức lại phương thức sản xuất, xây dựng cơ sở vật
chất, kỹ
thuật, từng bước cải thiện đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân. Trên cơ sở
những lợi
thế vốn có, Hà Nam đã xác định cơ cấu kinh tế là: Công - nông nghiệp và dịch vụ,
tốc độ
tăng trưởng kinh tế (GDP) năm 2003 là 8,9%, GDP bình quân đầu người đạt
3.800.000đ,
không còn hộ đói, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 12%. Các nhà máy xi măng như: Bút Sơn,
Nội Thương, X77 đã giải quyết hàng ngàn lao động có việc làm, thúc đẩy mạnh phát
triển
kinh tế - xã hội. Các khu công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn các
huyện
cũng đang hình thành phát triển, khu du lịch sinh thái Ba Sao đang xây dựng…
Với việc phát triển quy mô các khu công nghiệp, dịch vụ đã dẫn đến sự đa dạng
hóa trong phân công lao động, một bộ phận dân cư trực tiếp làm việc trong các
nhà máy,
xí nghiệp và sinh sống ở đây có điều kiện tiếp thu trí tuệ, khoa học công nghệ
hiện đại,
nâng cao trình độ nhận thức, năng lực tư duy lý luận - nhân tố có ý nghĩa quan
trọng đối
với sự phát triển thế giới quan duy vật biện chứng. Mặt khác, chính sự phát
triển kinh tế
đòi hỏi người cán bộ phải nâng cao hơn nữa trình độ văn hóa, kiến thức về khoa
học công
nghệ hiện đại, về quản lý kinh tế, xã hội... đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác
của mình
trong thời kỳ mới.
Về mặt xã hội, ở Hà Nam vào khoảng cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công
nguyên, khi lực lượng sản xuất đã phát triển, từng bộ phận dân cư Việt cổ, chủ
nhân của
nền văn hóa Đông Sơn đã rời hang động qua thượng lưu các con sông lớn xuôi dần
về
phía hạ lưu, cư trú trên các đồi đất cao ven sông Hồng, sông Đáy thuộc các huyện
Thanh
Liêm, Kim Bảng, Duy Tiên và một phần của huyện Bình Lục.
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, tổ chức làng xã cổ ở Hà Nam tụ cư theo
huyết thống hoặc tụ cư theo ngành nghề. Theo thống kê, trước cách mạng tháng
8/1945,
dân số Hà Nam có khoảng 410.000 người. Tính đến ngày 1/4/2002 toàn tỉnh có
801.328
người, bình quân đầu người 955 người/km
2
, dân số nông thôn chiếm 91,5%, ở thành thị
là 8,5%.
Mặc dù địa hình Hà Nam được phân chia thành hai vùng: đồng bằng và miền núi
rõ rệt, nhưng khoảng cách giàu nghèo giữa hai vùng không lớn lắm đều có cùng một
dân
tộc kinh, không có tính chất xen cư các dân tộc. Chính vì vậy tạo ra sự tương
đồng các
yếu tố về lối sống, tập quán, tính chất kinh nghiệm sản xuất, về văn hóa, tâm lý
truyền
thống giữa các vùng, miền. Đây là điều kiện thuận lợi trong công tác lãnh đạo,
quản lý
của người cán bộ Hà Nam khi phải giải quyết những sự việc liên quan đến vấn đề
dân
tộc; và chính sự tương đồng giữa các vùng miền đó cũng đã tạo cơ hội tốt cho
việc truyền
bá và tiếp thu thế giới quan của người dân Hà Nam nói chung và người cán bộ nói
riêng.
Như vậy, sự phát triển kinh tế - xã hội ở Hà Nam đã từng bước xóa bỏ nền kinh tế
tự nhiên, nâng cao đời sống vật chất cho người dân, từng bước xóa bỏ những quan
niệm, lối
sống duy tâm, lạc hậu, xác lập quan niệm duy vật khoa học, củng cố và nâng cao
niềm tin
của người dân đối với Đảng. Bên cạnh đó những yếu tố tiêu cực của cơ chế thị
trường
như lối sống chạy theo đồng tiền, thực dụng, không thiết tha, quan tâm đến chính
trị, tư
tưởng đã đang tác động đáng kể đến công tác bồi dưỡng cũng như việc tiếp thu thế
giới
quan duy vật biện chứng đối với người dân và đội ngũ cán bộ ở Hà Nam.
1.2.1.3. ảnh hưởng của văn hóa, giáo dục - đào tạo, khoa học - kỹ thuật và
công nghệ
Cùng với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội thì văn hóa, giáo dục -
đào
tạo, khoa học - kỹ thuật có ảnh hưởng không nhỏ đến sự tiếp thu, phát triển thế
giới quan
duy vật biện chứng.
Từ xa xưa Hà Nam đã là nơi cư trú của người Việt cổ. ở vùng núi Đọi (Huyện
Duy Tiên) là nơi phát hiện được nhiều sọ chủ nhân nền văn minh Đông Sơn nguyên
vẹn
nhất cả nước với quan tài gỗ hình thuyền cách đây hơn 2000 năm đã di đến và cư
trú trên
các đồi đất cao ven sông Hồng. Trong các ngôi mộ cổ, các nhà khoa học đã tìm
thấy
nhiều công cụ sản xuất (cuốc gỗ, rìu đồng, dao gặt lúa, cày chìa vôi); các đồ
binh khí
(giáo đồng, khóa đồng, rìu xéo, dao găm đồng); đặc biệt là các đồ dùng sinh hoạt
(chậu
đồng, bát gỗ, khuyên tai bằng đá).
Trong vùng đất chiêm trũng huyện Bình Lục, người ta còn tìm thấy hiện vật cổ
quý giá là trống đồng Ngọc Lũ và 20 chiếc trống đồng cổ khác. Trống đồng Ngọc Lũ
đã
trở thành biểu tượng của văn hiến Việt Nam (năm 1995, nhân dịp kỷ niệm 50 năm
thành
lập Liên hợp quốc, chủ tịch nước Lê Đức Anh đã trao tặng phẩm của Việt Nam
(phiên
bản trống đồng Ngọc Lũ) cho ngài Tổng thư ký Liên hợp quốc Butơrốt Gali tại New
York
- Hoa Kỳ).
Những hiện vật cổ quý đó đã chứng minh rằng có một nền văn minh Sông Hồng,
văn minh lúa nước của dân Việt cổ ở Hà Nam đã phát triển tới trình độ khá cao và
với
một đời sống tinh thần phong phú. Họ thể hiện trong tư duy và sáng tạo nghệ
thuật. Đặc
biệt, họ đã làm chủ được nghệ thuật nhịp điệu trong trang trí, biểu hiện trong
tính đối
xứng chặt chẽ của các mô típ hoa văn, điều này cho thấy sự phát triển nhận thức
hình học
và tư duy chính xác nhờ hoạt động sản xuất nông nghiệp và kỹ thuật chế tạo đá,
đúc
đồng.
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa không thể thiếu đối với người dân Hà
Nam. Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về nhân dân trong tỉnh và những người con xa quê
hương tấp nập đi trẩy hội trong các đình, chùa, đền, nhà thờ họ, kính cẩn dâng
hương,
dâng hoa để tưởng nhớ tổ tiên mình và những bậc công thần khai quốc, khai sáng
quê
hương như lễ hội truyền thống ở Lảnh Giang, ở chùa Đọi (Duy Tiên); đình Công
Đồng,
từ đường Nguyễn Khuyến (Bình Lục)…
Trong các lễ hội như võ vật Liễu Đôi, lễ hội đu thuyền Kim Bảng, các hình thức
tôn giáo được kết hợp hài hòa với các hoạt động văn hóa dân gian như: hát Chầu
văn, hát
Trống quân, hát Dậm... đã thể hiện một vùng văn hóa dân gian đậm đà bản sắc quê
hương,
tình người. Trong sự gian truân ấy người dân Hà Nam đã biết động viên nhau, khơi
dậy
niềm tự hào, tinh thần thượng võ quê hương để xua tan nỗi cực nhọc ở cái vùng
đồng
chiêm trũng nước ngập quanh năm.
"Một vùng rộng xẻ làm ba
Tiếng con gà gáy nghe ba huyện cùng"
"Ngàn năm võ vật đua tài
Vạn năm sông rộng, núi dài tổ tiên"
Từ khi đạo Phật du nhập vào nước ta, sự giao lưu văn hóa giữa các vùng, miền
trong tỉnh càng thêm phong phú và đa dạng. Đạo phật truyền bá vào Hà Nam tương
đối
sớm, khoảng thế kỷ XI dưới triều Lý. Nhờ biết kết hợp giữa tâm linh tín ngưỡng
của
cộng đồng người Việt trồng lúa nước với đạo Phật, đã tạo nên bản sắc riêng của
mình. ở
Hà Nam có khoảng hơn 400 chùa, miếu. Số lượng tăng ni phật tử không nhiều lắm
nhưng
người dân theo đạo Phật ở Hà Nam rất nhiều, họ đều là những người giàu lòng yêu
nước,
yêu quê hương.
Nếu như ở tháp sùng Thiện Diên Linh (ở Duy Tiên) với ý niệm cầu thiện mong
cho cuộc sống bình yên, tuổi thọ kéo dài thì ở chùa Bà Đanh (Kim Bảng) lại thờ
Tứ