Luận văn tốt nghiệp: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ”
4,003
851
92
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
1
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn là điều kiện tiên quyết đối với bất kỳ doanh nghiệp nào trong
việc đảm bảo tiến trình sản xuất kinh doanh được liên tục, hiệu quả. Không
chỉ có nhu cầu vốn trung và dài hạn để đổi mới công nghệ, nhà xưởng, máy
móc, các doanh nghiệp luôn có nhu cầu vay vốn ngắn hạn để bổ xung cho
nhu cầu thiếu hụt vốn tạm thời khi gặp khó khăn trong việc thanh toán với
khách hàng, trả lươ
ng cho công nhân, mở rộng sản xuất trong mùa vụ…
Đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế nước ta chưa phát triển, các doanh
nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ - dễ gặp phải khó khăn về vốn ngắn
hạn mà không có khả năng giải quyết - do đó nhu cầu vay vốn ngắn hạn,
đặc biệt là nguồn vay từ ngân hàng là rất cao.
Chính vì sự quan trọng của tín dụng ngắn hạn đố
i với hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp như vậy, đồng thời với chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta hiện nay, nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp có quy
mô nhỏ mở rộng sản xuất, kích thích tính năng động sáng tạo của chúng,
các NHTM đặc biệt là các ngân hàng trên địa bàn Hà Nội đã có những biện
pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn nhằm giúp các doanh nghiệp
này.
Là mộ
t chi nhánh còn khá non trẻ nhưng NHNo&PTNT Láng Hạ đã
đạt được khá nhiều thành tích đáng ghi nhận. Tuy nhiên vấn đề đặt ra cho
Chi nhánh trước tình hình hiện nay là tỷ trọng cho vay ngắn hạn tại Chi
nhánh rất nhỏ và có xu hướng giảm. Trong khi đó, địa bàn Hà Nội là nơi
đông dân cư và tập trung nhiều doanh nghiệp quy mô nhỏ với nhu cầu vốn
ngắn hạn cao. Do đó, bức xúc hiện nay của Chi nhánh là làm thế nào để mở
rộng hoạt động tín d
ụng ngắn hạn, từng bước giúp các doanh nghiệp mở
rộng sản xuất, từ đó góp phần phát triển kinh tế, xã hội.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
2
Nắm bắt được yêu cầu cấp thiết trên, sau thời gian thực tập tại phòng
Tín dụng NHNo&PTNT Chi nhánh Láng Hạ, em đã mạnh dạn đi sâu
nghiên cứu đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại
NHNo&PTNT Việt Nam Chi nhánh Láng Hạ”.
Theo đó, luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận cấu gồm 3 phần
chính:
Chương I
: TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG NGẮN HẠN TẠI CÁC NHTM.
Chương II
: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN HẠN TẠI
NHNo&PTNT VIỆT NAM CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
Chương III: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN TẠI CHI NHÁNH LÁNG HẠ.
Để hoàn thành luận văn này, em xin chân thành cảm ơn thầy Hoàng
Xuân Quế và các anh chị cán bộ phòng Tín dụng tại NHNo&PTNT Việt
Nam Chi nhánh Láng Hạ đã tận tình quan tâm chỉ bảo, giúp đỡ em trong
suốt quá trình thực tập và làm luận văn.
Hà Nội, 6 - 2003
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
3
CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN
DỤNG NGẮN HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1. Một số vấn đề cơ bản về ngân hàng thương mại
1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại.
Cùng với sự phát triển của sản xuất lưu thông hàng hoá ngân hàng
thương mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế
hoạt động một cách nhịp nhàng thông suốt. Ngân hàng thương mại đã hình
thành và tồn tại như một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh
tế hàng hoá. Sản xuất lưu thông hàng hoá càng phát triển nhu cầu giao lư
u
giữa các vùng càng tăng, tuy nhiên do sự khác biệt giữa các vùng về tiền tệ
cũng như sự khác biệt về địa lý làm nhu cầu đổi tiền cũng như gửi tiền và
thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện. Và cũng chính nhờ hoạt động
nhận tiền gửi và thanh toán hộ mà những người giữ tiền đã nắm trong tay
một khối lượng tiền lớn từ đó họ
dễ dàng thực hiện hoạt động cho vay do
tính vô danh của tiền tệ. Ngân hàng thương mại đã ra đời từ đó cùng với
những nghiệp vụ cơ bản của nó, đến nay trải qua bao thăng trầm của nền
kinh tế hoạt động của Ngân hàng thương mại đã mở rộng không chỉ quy
mô, chất lượng mà số lượng, loại hình các dịch vụ cũng ngày càng mở
rộng đ
áp ứng nhu cầu của khách hàng. Từ đó Ngân hàng thương mại đã trở
thành một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế, hoạt động của Ngân
hàng thương mại ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế.
Trải qua thời gian tương đối dài với những biến động của nền kinh
tế, rất nhiều khái niệm về Ngân hàng thương m
ại đã được hình thành. Ta
thấy rằng Ngân hàng thương mại được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác
như:
ở Việt Nam theo sắc lệnh 018CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của
chính quyền Sài Gòn cũ cho rằng: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
4
công hay tư lập, kể cả những chi nhánh hay phân cục ngân hàng ngoại quốc
mà hoạt động thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín
dụng, chiết khấu, tài chính với tiền ký thác của tư nhân hay chi nhánh hay
chi nhánh công quyền.
Hay một cách tiếp cận Ngân hàng thương mại dựa trên những dịch
vụ mà ngân hàng mang lại như Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức
tài chính tiền tệ cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhấ
t
đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh tế nào trong
nền kinh tế.
Theo pháp lệnh ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác
định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán.
Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng
thương mại có các đặc trưng :
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của công chúng với trách
nhiệm hoàn trả.
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các
nghiệp vụ tài chính khác.
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng th
ương mại là một loại hình doanh
nghiệp đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục
đích thu lợi nhuận.
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ ngân
hàng ngày càng được hiện đại hoá. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác,
hoạt động ngân hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc
gia mà hoà nhập trong toàn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội m
ới cho các
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
5
ngân hàng trong việc phát triển sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng
tạo ra rất nhiều thách thức cho các ngân hàng trong sự cạnh tranh.
Không những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn
có rất nhiều loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc
doanh, ngân hàng cổ phần, liên doanh, ngân hàng nước ngoài ở Việt
Nam… góp phần đa dạng hoá các loại hình ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó
thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một cách lành mạnh, giúp các ngân hàng từng
bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng hoạt động kinh doanh.
1.2. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó các
hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi
nhuận. Để đạt được mụ
c tiêu này Ngân hàng thương mại trong quá trình
phát triển đã không ngừng đổi mới, không chỉ nâng cao chất lượng sản
phẩm dịch vụ sẵn có mà còn thường xuyên nghiên cứu nhằm cung cấp các
sản phẩm dịch vụ mới phục vụ nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, một
Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3 nghiệp vụ cơ bản :
Huy động vốn
Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt độ
ng “đầu vào” của
ngân hàng, ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi
tạm thời trong nền kinh tế.
Thông thường ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, ngân hàng cần có một
lượng vốn nhất định là vốn tự có. Lượng vố
n này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong
tổng vốn sử dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Đây
là cơ sở thu hút tiền gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi
gặp phải trong kinh doanh và là chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý
Ngân hàng thương mại.
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
6
Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt
động ngân quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán.
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành
bại của ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các ngân hàng.
Chính vì vậy đây cũng là hoạt động chứ
a nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro
tín dụng xảy ra, việc quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ,
đặc biệt với món vay lớn, thời hạn cho vay dài. Từ đó ngân hàng phải phân
chia tín dụng ra nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường
xuyên của ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc
sinh lờ
i thấp nhưng tính lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó ngân
hàng phải duy trì tài sản này ở mức độ hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính
thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh lời.
Ngoài ra ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng
khoán trên thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng
thanh toán cho ngân hàng.
Hoạt động trung gian
Hoạt độ
ng trung gian là việc ngân hàng cung cấp cho khách hàng
một loạt các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng
thông qua các hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành
séc, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, môi giới mua bán chứng
khoán, quản lý hộ tài sản, tư vấn cho doanh nghiệp…
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động ngân
hàng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các ngân hàng
tiến tới hoạt động đ
a năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác
nhau. Vì vậy các dịch vụ cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng
thêm như: kinh doanh ngoại hối, bảo lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán,
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
7
dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm an toàn vật có giá, nghiệp vụ thuê
mua,…Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ nhau một mặt
thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang lại lợi nhuận cho ngân
hàng.
2. Tín dụng ngân hàng.
2.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng.
Tín dụng ngân hàng là một phạm trù kinh tế tồn tại qua các hình thức
xã hội khác nhau. Tín dụng là nghiệp vụ chính cơ bản nhất của các NHTM
chính vì vậy những về tín dụng đã được các nhà kinh tế tìm hiểu từ rất lâu.
Tuỳ theo các cách tiếp cận khác nhau mà người ta đưa ra những khái niệm
khác nhau về tín dụng.
Theo cách hiểu thông thường, tín dụng là mối quan hệ giao dịch giữa
hai chủ thể dựa trên nguyên tắ
c tin tưởng nhau. Trong đó một bên chuyển
giao tiền hoặc tài sản cho bên kia sử dụng trong một thời gian nhất định,
đồng thời bên nhận tiền hay tài sản cam kết hoàn trả theo thời gian thoả
thuận. Hay nói một cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một
lượng giá trị dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ từ người sở hữu sang người
sử dụng, sau đó hoàn trả t
ại một thời điểm nhất định trong tương lai với
một lượng giá trị lớn hơn.
Theo luật NHNN, tín dụng được định nghĩa như sau: “Cấu thành một
nghiệp vụ tín dụng là bất cứ động tác nào qua đó người đưa hay người hứa
đưa vốn cho người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này
như đảm bảo, bảo chứng hay bảo lãnh có thu tiền”.
2.2.
Đặc điểm tín dụng ngân hàng.
Như vậy, dù cách này hay cách khác, quan điểm về tín dụng đều thể
hiện các nội dung sau:
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
8
- Người cho vay sẽ chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị
nhất định. Lượng giá trị này có thể dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật như
hàng hoá, máy móc, thiết bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một khoảng thời gian
nhất định sau khi hết hạn theo thoả thuận phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá tr
ị được hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay hay
nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lợi tức.
Như vậy ở đây - tiền không được bỏ ra để thanh toán hay để bán mà là
để cho vay, tiền chỉ được nhượng đi với điều kiện là nó sẽ quay lại điểm
xuất phát sau một thời gian nhất định - đó là đặc trưng thuộc về bản chất
của ngành ngân hàng. Ngoài ra sự hoàn trả không chỉ phải bảo tồn về mặt
giá trị mà còn cần có phần tăng thêm dưới hình thái lợi tức. Lợi tức về tín
dụng là thu nhập người cho vay nhận được từ khoản cho vay, nó là giá cả
của hàng hoá cho vay.
2.3. Phân loại tín dụng.
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại
lợi nhuận chủ yếu cũng như rủi ro cho các ngân hàng. Chính vì v
ậy, các
nhà ngân hàng luôn phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ
dàng quản lý, kiểm tra từ đó phòng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu
thức khác nhau ta có thể phân loại tín dụng như sau:
Căn cứ vào thời gian của khoản vay:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo
hai loại: tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thườ
ng có thời hạn dưới
một năm và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như
phục vụ cho thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh toán
ngoại thương.
Tín dụng trung, dài hạn:
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
9
Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có thời hạn từ một đến
năm năm. Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải tiến máy móc,
trang thiết bị, đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các máy
móc trang thiết bị này cần có thời hạn khấu hao không quá dài, hay dự án
kinh doanh cần có kế hoạch thu hồi vốn sớm, để có thể kịp thời trả vốn cho
ngân hàng.
Tín dụng dài hạn: Đây là các khoản tín dụng được cấp có thời hạn từ 6o
tháng trở lên và cũng thường được sử dụng với mục đích xây nhà xưởng,
đầu tư dây chuyền sản xuất lớn, những dự án có thời hạn thu hồi vốn dài.
Tuy nhiên thời gian cho vay không quá thời hạn hoạt động còn lại theo
quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đơn vị, pháp nhân và không
quá 15 năm đỗ
i với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Căn cứ theo hình thức bảo đảm:
Tín dụng không có bảo đảm bằng tài sản: trong trường hợp này ngân
hàng cấp tín dụng cho khách hàng mà không cần có tài sản thế chấp, cầm
cố hay bảo lãnh mà dựa vào uy tín của khách hàng. Những khách hàng
được cấp tín dụng loại này thường là những khách hàng quen, đã có uy tín
với ngân hàng về việc trả đúng và đầy đủ các kho
ản nợ của mình từ trước
tới nay.
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: ngân hàng cấp tín dụng cho khách
hàng dựa trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng
để thế chấp cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các
trang thiết bị hay các tài sản hình thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ
có giá. Ngoài ra, để đảm bảo cho khoản vay có thể được thự
c hiện bằng sự
bảo lãnh của bên thứ ba được ngân hàng chấp nhận.
Căn cứ vào mục đích sử dụng:
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
10
Cho vay sản xuất kinh doanh: các khoản vay này thường được sử dụng
để tài trợ vốn lưu động của doanh nghiệp hay tài trợ cho việc xây dựng nhà
xưởng, mua sắm máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu
Cho vay tiêu dùng: chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm tiêu dùng
của các hộ gia đình và cá nhân như mua nhà cửa, xe máy, ô tô và các
phương tiện cần thiết khác.
Căn cứ vào phương thức cho vay:
Cho vay theo hạn mức tín d
ụng: theo hình thức này ngân hàng và khách
hàng thoả thuận và ký kết một hợp đồng hạn mức tín dụng duy trì theo thời
hạn nhất định hoặc theo chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay từng lần: đây là hình thức tín dụng mà ngân hàng và khách
hàng thoả thuận và ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách
hàng có nhu cầu. Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết
hợp đồng sẽ được thực hiện lại từ đầ
u.
Cho vay từng dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn
để thực hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn: đối với những khoản vay lớn, một ngân hàng không
đủ khả năng hay không được phép cho vay đòi hỏi một nhóm các TCTD
cùng cho vay. Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầ
u mối dàn
xếp, phối hợp các TCTD khác để cho vay.
Cho vay trả góp: khi vay vốn ngân hàng và khách hàng xác định và
thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ
thành nhiều kỳ trong hợp đồng vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: ngân hàng cam kết bảo đảm
cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tuy
nhiên nhiều trường hợp khách hàng cần một lượ
ng vốn lớn hơn, do đó ngân
hàng và khách hàng thường thoả thuận một hạn mức tín dụng dự phòng lớn