Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,362
934
105
94
- Nghiên cứu chính sách giá của các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là
Thái Lan. Đây là một việc cần làm ngay vừa mang tính chất học hỏi, vừa
biết được các biện pháp áp dụng của đối thủ để có được những đối sách cạnh
tranh phù hợp. Nhằm giữ giá lúa không để sụt xuống quá thấp gây thiệt hại
cho nông dân, Chính phủ Thái Lan những năm qua đã có một số biện pháp
cụ thể là:
+ Một, công b
ố thông tin rộng rãi về lúa gạo trên các phương tiện thông
tin đại chúng và các trung tâm lúa gạo.
+ Hai, thực hiện biện pháp làm giảm cung lúa ra thị trường, cho nông
dân cầm cố (thế chấp) số lúa của mình chưa bán được do giá thị trường trong
nước xuống thấp để vay tiền của Ngân hàng hay của các tổ chức khác. Số
lượng thóc nhận thế chấp khá lớn, có năm lương thực lên tới hai triệu tấn.
Việc thế chấ
p vay tiền giữ lúa lại được quy định khá cụ thể về các điều kiện.
Ví dụ giá lúa để tính giá trị giá thóc thế chấp bằng 80% mức giá sàn được
công bố vụ lúa đó, quy đinh độ ẩm và những tiêu chuẩn khác về chất lượng,
mức vay tiền không quá 90% trị giá lúa cầm cố, quy định thời gian trả nợ
không quá 5 tháng, có kiểm tra, giám sát để ngăn ngừa người vay tiền bán
thóc thế chấp mà không trả
nợ, đến hạn trả nợ, nếu giá thị trường thấp hơn
giá lúa lúc vay thì nông dân được trả theo giá lúa thị trường lúc trả nợ, phần
chênh lệch giá do Nhà nước chịu, ngược lại, nếu khi trả nợ giá lúa thị trường
lên cao hơn giá lúc vay thì nông dân chỉ phải trả theo giá lúc vay.
+ Ba, Chính phủ áp dụng những biện pháp làm tăng cầu lúa gạo trên thị
trường. Một số biện pháp thường được áp dụng cho phép phòng ngoại
th
ương thuộc bộ Thương mại bán gạo “G_TO_G” ngay từ đầu vụ thu hoạch.
Ngân hàng cho các nhà máy xay và các nhà xuất khẩu gạo vay để mua lúa,
gạo với lãi suất thấp. Năm 2001, 20 tỉ bạt đã được cấp qua Ngân hàng
EXIMBANK để thu mua lúa cho việc xuất khẩu gạo.
Qua các biện pháp điển hình trên của Thái Lan chúng ta cần rút ra
những mặt tích cực để áp dụng vào hoàn cảnh cụ thể của xuất khẩu gạo Việt
Nam nh
ằm đạt hiệu quả tối ưu, nâng cao sức cạnh tranh của xuất khẩu gạo
nước ta trên thị trường thế giới.
3.2.2.3. Chính sách phân phối
Chính sách phân phối trong Marketing-mix phụ thuộc vào hai yếu tố:
sự yêu thích sản phẩm hàng và các kênh phân phối mà người sản xuất có thể
cung cấp. Để cho một kênh phân phối hoạt động cần tính đến nhu cầu và thái
95
độ của thị trường mục tiêu tiềm năng. Chúng ta cần có các biện pháp nâng
cao hiệu quả của chính sách phân phối trong giai đoạn tới. Cụ thể là:
* Tổ chức lại khâu mua.
Việc tổ chức tốt quá trình lưu thông phân phối gạo trên thị trường có ý
nghĩa đối với khâu mua gạo cho xuất khẩu đồng thời đảm bảo cho vấn đề an
ninh lương thực quốc gia.
- Tổ chức lạ
i mạng lưới lưu thông lương thực.
Hiện nay mạng lưới lưu thông lương thực chịu sự chi phối của thị
trường của thành phần tư nhân quá lớn, dẫn đến tình trạng chèn ép giá, cạnh
tranh không lành mạnh, đầu cơ, buôn lậu. Quá trình hình thành giá gạo trên
thực tế đã bị bóp méo do đội ngũ tư nhân mang tính độc quyền tại địa
phương. Để giảm bớt sự thua thiệt về
nhiều mặt cho người dân, gần đây
Chính phủ có các chính sách trợ giá nông sản song tác dụng rất hạn chế do
quy mô hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước có giới hạn. Báo cáo của
viện Nghiên cứu lúa cho thấy chỉ có khoảng 1,9% lượng lúa hàng hoá được
các doanh nghiệp Nhà nước thu mua trực tiếp từ nông dân. Vì vậy, nên điều
chỉnh quá trình lưu thông lương thực hàng hoá bằng cách yêu cầu các doanh
nghiệp Nhà nước đặt thêm hệ thống kho trung chuyển xu
ống các địa
phương để tổ chức mua gạo từ các cơ sở xay xát nhỏ chuyển về. Bên cạnh
đó, việc nâng cao năng lực của hệ thống tiêu thụ lúa gạo, đặc biệt là hệ thống
các chợ trung tâm lúa gạo (chợ đầu mối) là cần thiết và thúc bách. Chợ đầu
mối khác so với chợ thông thường ở các làng xã ở chỗ, chợ thông thường
chủ yếu làm chức nă
ng liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, còn ở chợ đầu mối,
các doanh nghiệp thương mại phải xây dựng giá, thông tin, kiểm soát an
toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường...
Những chợ đầu mối đầu tiên được tổ chức một cách có quy mô đã xuất
hiện tại châu Âu vào cuối thế kỷ XIX. Ngày nay, chợ buôn bán đầu mối đã
trở thành một phần không thể thiếu được trong mạng lướ
i phân phối lúa gạo
cho các đô thị lớn. Tại các quốc gia phát triển, các chợ buôn bán đầu mối đã
trở thành các trung tâm phân phối lúa gạo lớn. Ở Thái Lan, các trung tâm lúa
gạo là kênh tiêu thụ gạo quan trọng nhất vì mua tới 60% lúa do nông dân sản
xuất ra. Trung tâm lúa gạo là điểm tập trung của những người bán và mua
lúa, vừa tạo nên được một sự cạnh tranh khiến việc mua bán diễn ra công
bằng, khắc phục được tình trạng nông dân bị ép giá do không có thông tin v
ề
thị trường, tránh được gian lận trong cân đong và xác định chất lượng lúa.
96
Ngày 6/6/2001, Chính phủ đã có quyết định số 223/QĐ-TTg nhấn
mạnh việc hình thành các chợ trung tâm lúa gạo tại khu vực đồng bằng sông
Cửu Long. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang gấp rút chỉ đạo
Tổng công ty lương thực Việt Nam nghiên cứu các điều kiện cần thiết để có
thể nhanh chóng triển khai các chợ đầu mối tiêu thụ gạo tại Cai Lậy (Tiền
Giang), Thanh Bình (Đồng Tháp), Tân Thạnh (Long An). Bộ Thươ
ng mại
cũng có tờ trình số 263/1/2001/BTM ngày 9/7/2001 trình Chính phủ về việc
thành lập các trung tâm giao dịch nông sản hướng về xuất khẩu tại Việt
Nam.
Theo thiết kế, chợ lúa gạo đầu mối Thanh Bình (Đồng Tháp) bởi có ưu
thế thu hút lúa gạo của Đồng Tháp, An Giang và Kiên Giang. Chợ sẽ ưu tiên
xây dựng chính sách vật chất hạ tầng hiện đại theo mô hình của các chợ lúa
gạo đầu mối của Thái Lan và tổ chứ
c thêm nhiều loại dịch vụ phục vụ sản
xuất nông nghiệp. Chợ thứ hai được mở ở Phú Cường huyện Cai Lậy (Tiền
Giang), bao gồm: kho chứa, nhà máy xay xát, đánh bóng, chế biến. Chợ rất
thuận tiện cho giao thông thuỷ bộ. Phú Cường thường thu hút lúa gạo từ
Tiền Giang, Long An, Đồng Tháp về. Tại chợ, ngoài mua bán lúa gạo, công
ty lương thực Tiền Giang sẽ tổ chức thêm các loại dịch vụ
trọn gói cho bà
con nông dân như cung ứng và phân bón, máy nông nghiệp, xăng dầu, phụ
tùng xay xát, chế biến, các mặt hàng tiêu dùng, liên kết với ngân hàng mở tín
dụng ngay tại chợ. Chợ thứ ba sẽ được xây dựng ở Thạnh Đông huyện Tân
Thanh (Long An) với diện tích khoảng 3 ha sử dụng, vốn dự đoán là 11 tỉ
đồng.
Theo nhận định của các nhà kinh tế, chợ lúa gạo ra đời sẽ làm thay đổi
tập quán mua bán lâu đời của nông dân
đồng bằng sông Cửu Long. Tuy
đang ở trong giai đoạn thủ tục nhưng dự án rất mang tính khả quan nên đã có
chương trình hỗ trợ của nhiều doanh nghiệp. Trước mắt, ngân sách Nhà
nước sẽ hỗ trợ một phần (20-30% tổng vốn đầu tư) để xây dựng cơ sở hạ
tầng và cho vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp theo luật khuyến khích đầu tư
trong nướ
c. Dự kiến cuối năm 2002 các chợ lúa gạo trung tâm ỏ đồng bằng
sông Cửu Long sẽ đi vào hoạt động.
Việc xây dựng các chợ lúa gạo cần được thực hiện trên cơ sở tính toán
kỹ lưỡng nhu cầu giao dịch trên thị trường gồm cả nhu cầu về các dịch vụ
xay xát chế biến. Đặc biệt, không được coi việc hình thành các chợ đầu mối
là việc đầu tư
cơ sở hạ tầng để cho các cá nhân hay tổ chức thuê chỗ mà phải
coi đó là nơi các tổ chức, cá nhân đến để giao dịch, như vậy mới tránh được
97
tình trạng độc quyền vị trí. Bên cạnh đó, việc hình thành các chợ trung tâm
lúa gạo này cần phải được thực hiện dần dần từng bước, vừa giảm chi phí
đầu tư, vừa tạo điều kiện để người sản xuất cũng như các tổ chức kinh doanh
lúa gạo có điều kiện tiếp cận, làm quen với các phương tiện giao dịch hiện
đại. Ngoài ra, để các chợ lúa g
ạo trung tâm này hoạt động có hiệu quả thì
ngoài việc xây dựng cơ sở hạ tầng hiện đại, thuận lợi, thì cần thiết lập cơ chế
quản lý tốt, luật lệ giao dịch rõ ràng, với hiệu lực thi hành đảm bảo, có thoả
thuận mang tính hợp đồng với những tổ chức, cá nhân tham gia vào chợ, đào
tạo đội ngũ cán bộ quản lý và nhân viên có trình độ nghiệp vụ và trách
nhi
ệm cao.
- Tổ chức mua lúa hàng hoá kịp thời cho nông dân và tổ chức dự trữ
lương thực.
Trong những năm qua, Chính phủ đã áp dụng một số giải pháp tình thế
để tổ chức mua lúa hàng hoá một cách kịp thời theo từng vùng như lấy quỹ
bình ổn giá hỗ trợ các doanh nghiệp Nhà nước một phần trong lãi suất ngân
hàng hoặc có khi quỹ bình ổn giá trợ lãi suất toàn phần, đồng thời chỉ đạo h
ệ
thống ngân hàng cho các doanh nghiệp Nhà nước vay dưới hình thức tín
chấp để các doanh nghiệp có vốn mua lúa. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Nhà
nước rất ít tham gia mua lúa trực tiếp của nông dân, mà chủ yếu mua gạo
nguyên liệu hoặc thành phẩm của tầng lớp tư thương trung gian. Như vậy,
nông dân luôn gặp bất lợi do giá lúa quá rẻ tuy lúa hàng hoá được tiêu thụ
hết nhưng thu nhập của họ không tăng, bị buộc phải tái sản xuất lúa. Để giả
i
quyết vấn đề tiêu thụ lúa hàng hoá một cách cơ bản, khi chuẩn bị bước vào
kỳ thu hoạch lúa, Chính phủ có thể phân chia địa bàn cụ thể cho các doanh
nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh lương thực và Cục dự trữ quốc gia chịu
trách nhiệm chính trong việc thu mua lúa hàng hoá. Các đơn vị được phân
công xuống địa bàn mình phụ trách để ký kết hợp đồng nguyên tắc đối với
những người chuyên đi gom mua lúa. Khi có hợp đồng, các nhà cung ứng và
các doanh nghiệp đều lập phương án vay vốn và khi các doanh nghiệp tiêu
thụ được gạo thì phải tiến hành giao dịch thanh toán qua ngân hàng mà mình
vay vốn mua lúa, gạo nguyên liệu. Qua các giải pháp trên, lúa hàng hoá có
thể được bảo đảm mua kịp thời vụ, ổn định giá cả, đảm bảo cho nông dân
sản xuất lúa có lãi thoả đáng, nhờ sự phân công chuyên môn hoá hợp lý giữa
các thành phần tham gia.
Về vấn đề tổ chức dự trữ lương thực cần
được thực hiện tốt đảm bảo
cho yếu tố ổn định nguồn cung cấp lương thực trong chính sách an toàn
98
lương thực quốc gia. Trong cơ cấu mặt hàng dự trữ, đối với dự trữ quốc gia
tới hạn trung bình khoảng một năm và dự trữ của nông dân tại nơi sản xuất
thì dự trữ bằng lúa sẽ thích hợp hơn, còn dự trữ của các doanh nghiệp thông
thường từ một đến ba tháng nên có thể dự trữ gạo thành phẩm hoặc bán
thành phẩm thì bắt buộc ph
ải đảo kho, đưa lúa gạo cũ ra tiêu thụ và nhập lúa
gạo mới về để duy trì chất lượng sản phẩm luôn luôn tốt. Trong khi đó, lúa
cũ khoảng 6-12 tháng là nguyên liệu thích hợp để chế biến gạo xuất khẩu có
chất lượng tốt nhất, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của nhiều nước nhập gạo
trên thế giới. Như vậy, nếu Cục dự trữ quố
c gia kết hợp việc đảo kho lương
thực dự trữ bảo hiểm để cung ứng lúa gạo cho các doanh nghiệp xuất khẩu
sẽ góp phần rất tốt để ổn định nguồn cung ứng gạo xuất khẩu có chất lượng
cao, tăng đáng kể hiệu quả xuất khẩu gạo nói chung và hiệu quả dự trữ bảo
hiểm lương thực nói riêng.
Trong thời gian tớ
i, Chính phủ cần nâng mức dự trữ gạo lên 2 triệu tấn
và thực hiện ngay trước khi thời vụ Đông-Xuân bắt đầu, một nửa trong số đó
là mua hàng hoá của Chính phủ, một nửa còn lại thực hiện theo cơ chế tạm
trữ do các doanh nghiệp thực hiện như lâu nay. Con số 2 triệu tấn nói trên là
căn cứ vào tình hình thực tế hai năm 2000 và 2001, con số thực tế các năm
sau này phả
i căn cứ vào tình hình sản xuất, khả năng xuất khẩu và diễn biến
chỉ số giá hàng tiêu dùng. Chúng ta cần đứng trên quan điểm chung để mạnh
dạn xử lý, không nên quá dè dặt, bỏ lỡ những cơ hội tốt xảy ra.
* Tổ chức khâu xuất khẩu.
Nhà nhập khẩu nước ngoài thường tiếp xúc trực tiếp với nhà xuất khẩu
gạo hoặc qua trung gian Việt Nam để nhập khẩ
u gạo. Thời gian thường kéo
dài từ 22 đến 30 ngày. Đôi khi thời gian này tăng lên do những thủ tục về
giấy tờ. Ví dụ như một nhà xuất khẩu được phép xuất 30.000 tấn gạo muốn
xuất 10.000 tấn tại cảng Cần Thơ và 20.000 tấn tại cảng TP Hồ Chí Minh thì
phải xuất trình chứng từ ở cả hai cảng. Khi hàng hoá đã sẵn sàng vẫn phải
đợi giấy phép của B
ộ Thương mại và mất rất nhiều thời gian để giải quyết.
Theo kinh nghiệm của những nhà xuất khẩu trước kia, cần có những
chuyên gia giỏi để giải quyết các vấn đề trên. Họ có khả năng làm nhanh
chóng các thủ tục hành chính liên quan đến xuất khẩu gạo. Khâu trung gian
có thể giải quyết những chi tiết quan trọng. Ngay cả các doanh nghiệp xuất
khẩu gạo với số lượng lớn c
ũng sử dụng các dịch vụ trung gian quốc tế đối
với một số thị trường. Những doanh nghiệp này biết cách hoàn thành những
thủ tục phức tạp. Xu hướng hiện nay của các nhà xuất khẩu là phát triển các
99
kênh trực tiếp. Tuy nhiên, cần có thời gian để xác lập quan hệ giữa người
sản xuất và người tiêu dùng ở dạng kênh này.
Việc phân phối hàng hoá bao gồm vận chuyển và dự trữ hàng hoá trong
suốt thời gian thực hiện kênh phân phối. Hiện nay, chi phí gửi hàng ở Việt
Nam khá cao, cơ sở hạ tầng cầu cảng không tốt là những bất lợi của Việt
Nam so với các nước xuất khẩu khác. Cụ thể
là chi phí cảng, chi phí bốc dỡ
xếp hàng và các chi phí liên quan tại cảng Sài Gòn khoảng 40.000 USD/tàu
công suất 10.000 tấn (chiếm 1,6% giá gạo xuất khẩu) trong khi chi phí này ở
Bangkok chỉ bằng một nửa. Ngoài chi phí cảng, tốc độ bốc dỡ rất chậm, so
với Băngcốc ta chậm hơn 6 lần (nghĩa là tại Sài Gòn bốc dỡ được 1.000
tấn/ngày thì Băngcốc là 6.000 tấn/ngày). Chậm trễ do sửa chữa và bốc xếp
hàng thường làm t
ốn thêm khoảng 6.000 USD/ngày. Những hạn chế nói trên
làm mất cơ hội về giá và đương nhiên người trồng lúa phải chịu dưới hình
thức giá FOB thấp hơn.
Những bất lợi của ta về vận chuyển, bốc dỡ không thể khắc phục trong
thời gian ngắn được, nhưng chúng ta cần nhận thức sâu sắc về điều đó để
tìm ra những giải pháp hợp lý nhất để nâng cao s
ức cạnh tranh của mặt hàng
gạo Việt Nam trên thị trường thế giới. Hiện tại, các tàu đến cảng Sài Gòn
không thể xuất phát sau 3 giờ chiều và đến trước 9 giờ sáng, gây bất tiện và
tốn kém cho các tầu nếu không cập cảng trong thời gian trên. Chúng ta có
thể cho các tàu chạy trong đêm kênh chở gạo từ cảng này đến bờ biển Trung
Quốc, hạn chế phần nào những bất lợi về cơ s
ở hạ tầng mà chúng ta chưa
khắc phục được.
Ở chương 2, chúng ta đã nghiên cứu các kênh phân phối gạo xuất khẩu
của Việt Nam. Trong những năm tới, chúng ta có thể giảm bớt những bất
cập của kênh phân phối hiện tại bằng cách áp dụng mô hình sau:
100
Sơ đồ 3.1. Mô hình phân phối gạo đề xuất
Sơ đồ trên có thể chia hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam làm hai
khâu. Ở khâu mua, gạo được đưa đến nhà máy chế biến bằng 3 cách: trực
tiếp, qua tư thương và qua các trạm thu mua của Nhà nước. Với khâu mua
này, chúng ta có thể phát triển mua gạo chế biến bằng cả hai cách trực tiếp
và gián tiếp qua trung gian nên người sản xuất chủ động và linh hoạt hơn
trong việc bán gạo, tránh tình trạng bị
ép giá dẫn đến bán giá rẻ. Tuỳ từng
khu vực cụ thể mà ta nên khuyến khích cách thu mua nào cho phù hợp và
đạt hiệu quả cao nhất.
Ở khâu xuất khẩu chúng ta vẫn vận dụng các kênh cơ bản của
Marketing-mix qua kênh cấp 1,2,3,4 tuỳ từng thị trường cụ thể. Tuy nhiên,
gạo xuất khẩu Việt Nam từ trước đến nay vẫn phụ thuộc quá nhiều vào trung
gian nước ngoài, đặc biệt ở thị trường rất có ti
ềm năng của ta là châu Phi gây
thiệt hại cho ta nhiều về giá gạo. Trong tương lai gần, chúng ta phải hạn chế
những nhược điểm này, có thể ký kết hợp đồng trực tiếp với các nước nhập
N
g
ười sản xuấ
t
Tư thươn
g
T
r
ạ
m thu mua
Nhà má
y
chế biến
Nhà xuất khẩu
Nhà nh
ập
khẩu-nhà
p
hân
p
hối
Bán buôn
Bán lẻ
N
g
ười tiêu dùn
g
101
khẩu gạo và chú trọng sử dụng giá CIF để linh hoạt hơn cho sự lựa chọn
mức giá của các nhà nhập khẩu. Chúng ta cần tránh những kênh phân phối
quá nhiều trung gian mà tập trung vào các kênh trực tiếp hoặc sử dụng ít
trung gian để hạ thấp chi phí, giảm giá bán và tăng số lượng gạo xuất khẩu.
Trong những năm tới, cần bổ sung các đại lý tại nước ngoài, đặc biệt là các
nước nhập khẩ
u gạo chủ yếu của Việt Nam để thuận tiện hơn cho các giao
dịch về gạo và đạt được hiệu quả cao nhất.
* Các kênh phân phối gạo của Thái Lan
Đặt trong bối cảnh khu vực và quốc tế, cần thấy rằng các kênh phân
phối của Việt Nam còn chưa được Nhà nước quản lý một cách chặt chẽ. Các
tư thương và doanh nghiệp Nhà nước còn chưa có sự phối hợp hài hoà trong
việ
c đưa gạo từ người sản xuất đến người tiêu dùng nước ngoài. Chúng ta có
thể tham khảo mô hình khâu mua của Thái Lan.
Biểu đồ 3.2. Hệ thống lưu thông phân phối gạo ở Thái Lan khâu mua
Nguồn: Agricultural Marketing Improvement in Thailand
Kasetsat University Bangkok 9.1994
Thương nhân
cấp huyện
Thương nhân
cấp làng xã
Cơ sở xay
xát huyện
ho
ặctỉnh
Chương trình
mua lúa của
Chính phủ
Thương nhân
cấp tỉnh
Các
đại lý
Nông
dân
Các nhà
xuất khẩu
102
Qua mô hình trên, có thể nhận thấy sự quản lý chặt chẽ trong khâu mua
gạo xuất khẩu ở Thái Lan. Các kênh phân phối đều là cấp 4 thể hiện được sự
phân công lao động hợp lý, chuyên môn hoá cao, tạo hiệu quả tối ưu cho các
nhà xuất khẩu Thái Lan tung gạo ra thị trường thế giới.
3.2.2.4. Chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường khả năng cạnh tranh
trong điều kiện thị trườ
ng ngày nay, ngành xuất khẩu gạo Việt Nam không
còn có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đẩy mạnh chính sách xúc tiến và hỗ
trợ kinh doanh. Trong những năm tới, ngành gạo Việt Nam còn tập trung
vào những nhiệm vụ chính:
* Làm tốt công tác nghiên cứu thị trường cũng như thị hiếu khách hàng.
Nắm vững các yếu tố của thị trường, hiểu biết về quy luật vận động của
chúng sẽ giúp chúng ta đưa ra được những quyết định đúng đắn kịp thời. Để
đẩy mạnh xuất khẩu gạo, một giải pháp cần thiết là khơi thông tin cho doanh
nghiệp vì thông tin thị trường quốc tế là rất cần thiết phục vụ cho doanh
nghiệp và Chính phủ trong việc l
ập kế hoạch và thực hiện các hoạt động
thương mại và xúc tiến thương mại. Trong bối cảnh hiện nay, các doanh
nghiệp ngày càng phải quan tâm đến thông tin thị trường gạo quốc tế.
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo thường quan tâm đến hai
loại thông tin. Một là thông tin về thị trường các nước nhập khẩu với các số
liệu thống kê dân số, ngoại thương, thuế quan, các biện pháp kiểm soát xu
ất
nhập khẩu và ngoại lệ và các thủ tục cấp phép xuất nhập khẩu, các quy định
về vệ sinh và an toàn, đại lý quyền và nhãn mác... Hai là thông tin về sản
phẩm, đặc biệt là những cơ hội bán hàng cụ thể. Ví dụ như những yêu cầu về
gạo của người nhập khẩu, các thống kê về thương mại, sản xuất và tiêu thụ
trên thế giới đối với mặt hàng g
ạo, dự báo nhu cầu ngắn, trung, dài hạn cũng
như thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, năng lực, hoạt động,
nhãn hiệu, thị phần khách hàng, kỹ thuật kinh doanh. Bên cạnh đó, các
doanh nghiệp cũng quan tâm đến các mức giá gạo bán trên các thị trường cụ
thể, hệ thống và các tập quán buôn bán và phân phối trên phạm vi quốc gia
và quôc tế, các kênh tiếp thị, các điều kiện mua bán, cộng giá, giảm giá, các
thông tin về
các nhà nhập khẩu, các đại lý, những người mua trực tiếp, các
điều kiện thương mại quốc tế, thông tin về vận tải và kỹ thuật xúc tiến xuất
khẩu.
Như đã phân tích, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam hiện nay
đều thiếu thông tin về thị trường gạo quốc tế, trong khi thông tin đang bùng
103
nổ mạnh. Nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được đầy đủ
tầm quan trọng của nền kinh tế thị trường nên chưa thực sự quan tâm đến
công tác thông tin thị trường gạo quốc tế. Hầu hết các doanh nghiệp, kể cả
doanh nghiệp xuất khẩu gạo lớn đều chưa tổ chức hoặc chưa có cán bộ
chuyên trách về thông tin. Chi phí cho công tác thông tin, kể cả tiền mua
thông tin không đáng kể
, thậm chí không có.
Qua đó, cần có các giải pháp để đưa thông tin từ thị trường quốc tế về
cho các doanh nghiệp qua các phương tiện thông tin đại chúng, các cơ quan,
các tổ chức dịch vụ. Những người cung cấp thông tin về gạo biết rõ nhu cầu
về thông tin của doanh nghiệp, biết xử lý và phân tích nguồn thông tin, đầu
tư cho công tác thông tin và mua thông tin nguồn, tránh cung cấp những
thông tin không cần thiết cho doanh nghiệp. Các tổ chức cung ứng thông tin
phải hoạ
t động theo cơ chế vừa cạnh tranh vừa hợp tác. Chính phủ nên hỗ
trợ, tạo môi trường thuận lợi trong việc cung cấp và tiếp cận thông tin, hỗ trợ
đào tạo nguồn nhân lực, hỗ trợ về tài chính cho doanh nghiệp được cung cấp
thông tin, mua thông tin về gạo và Chính phủ cũng cần hỗ trợ bằng cách trực
tiếp cung cấp thông tin cho doanh nghiệp. Trên cơ sở các thông tin thu được,
các doanh nghiệp sẽ tiến hành ch
ọn lọc, phân tích rút ra nhận xét, kết luận để
làm cơ sở xây dựng các kế hoạch chiến lược, phương án kinh doanh.
* Xây dựng hệ thống thị trường và tăng cường đầu tư cho hoạt động tuyên
truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm.
Thị trường xuất khẩu gạo là vấn đề cần tập trung ở tầm vĩ mô và vi mô.
Vì vậy, bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước trong vấn đề thị trường, các doanh
nghiệp phải chủ động tìm bạn hàng và phương thức kinh doanh thích hợp để
xâm nhập, duy trì và mở rộng chỗ đứng trên thị trường gạo thế giới. Các
doanh nghiệp cần đa dạng hoá khách hàng và tận dụ
ng cả những hợp đồng
có khối lượng không lớn đồng thời cũng có thể thiết lập quan hệ với các tập
đoàn xuyên quốc gia là những tổ chức kinh tế vững mạnh có tầm hoạt động
rộng, sự am hiểu về thị trường và khả năng về vốn lớn để đảm bảo thị trường
xuất khẩu ổn định.
Hoạt
động tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm gạo cũng đóng
vai trò quan trọng trong kinh doanh nhằm xúc tiến nhanh chóng việc bán
hàng, góp phần quyết định vào sự thành công hay thất bại của hoạt động
xuất khẩu gạo. Quảng cáo sản phẩm này nhằm mở ra những thị trường mới,
củng cố uy tín, nhãn hiệu hàng hoá, doanh nghiệp và là công tác không thể
thiếu được trong xuất khẩu gạo hiện nay. Các doanh nghiệp cần quan tâm
104
đầu tư ngân sách cũng như tuyển dụng những người có năng lực, các chuyên
gia giỏi cho quảng cáo vì hoạt động này muốn có hiệu quả lớn thì không
phải là vấn đề đơn giản, đặc biệt là khi đối tượng tiếp nhận lại là các khách
hàng nước ngoài.
105
KẾT LUẬN
Gạo đã trở thành mặt hàng chủ lực trong lĩnh vực xuất khẩu của Việt
Nam. Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu gạo, đặc biệt của khu vực đồng
bằng sông Cửu Long, đã được khẳng định bằng các số liệu trong những năm
gần đây. Để khai thác tiềm năng vốn có, cần có những giải pháp hợp lý,
đúng hướng để tham gia vào thị trườ
ng thế giới trên cơ sở tận dụng các cơ
hội, khắc phục các hạn chế và phát huy các lợi thế.
Với việc sử dụng công cụ Marketing-mix để phân tích, đề tài này nhằm
mục đích tìm ra các giải pháp mang tính khả thi cho xuất khẩu gạo Việt
Nam. Hiện nay, các nhà hoạch định chiến lược phải đối mặt với nhiều vấn
đề quan trọng về chính sách nông nghiệp như khả năng duy trì s
ản xuất lúa
gạo, bảo vệ sản xuất trong nước trước những biến động của thị trường thế
giới. Trong các vấn đề quan tâm, cần đặc biệt chu ý đến chất lượng, giá cả
và thị trường để có thể nâng cao uy tín của gạo Việt Nam, đưa hạt gạo đến
với tất cả các nước có nhu cầu nhập khẩu trên thế giới.
Sản xuất và xu
ất khẩu gạo của Việt Nam đã phát triển tương đối ổn
định với kim ngạch và khối lượng tăng khá cao tuy vẫn còn gặp phải nhiều
khó khăn, hạn chế chưa khắc phục được. Sau khi nghiên cứu, phân tích, đề
tài rút ta một số kết luận sau:
Về sản phẩm: Nhìn chung, gạo xuất khẩu Việt Nam có chất lượng
không cao, phần lớn được xuất ra các thị tr
ường như châu Phi, châu Á
và châu Mỹ La tinh, phần còn lại khó có thể cạnh tranh được với Thái
Lan, Mỹ trên các thị trường nhập gạo cấp cao như Nhật Bản và châu
Âu. Nguyên nhân cơ bản vẫn là do chưa có nhiều giống lúa cho chất
lượng tốt, công nghệ thu hoạch, chế biến và bảo quản của Việt Nam
còn lạc hậu, chưa đáp ứng được các yêu cầu chuyên môn hoá sản xuất
gạo xuất khẩu.
Về giá xuất khẩu: Chính những nguyên nhân về chất lượng sản phẩm
đã kéo theo những yếu kém về giá gạo Việt Nam trên thị trường thế
giới. Vì chỉ có thể xâm nhập vào những thị trường bình dân hoặc
thường bị ép giá trên những thị trường gạo cấp cao nên giá gạo nhìn
chung khá thấp so với giá gạo cùng loại của các nước xuất khẩu khác.
Trong thời gian gần đây, giá gạo của Vi
ệt Nam đã tăng đáng kể, một
dấu hiệu tốt cho xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Về vấn đề phân phối: Các kênh phân phối gạo hiện tại của Việt Nam
còn quá nhiều trung gian, có những bất cập trong khâu thu mua và
khâu xuất khẩu gây những hạn chế không nhỏ cho việc quản lý, phân
phối gạo đến tay người tiêu dùng nước ngoài.
106
Về vấn đề xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh: Hiện tại, xuất khẩu gạo của
Việt Nam còn thiếu nguồn thông tin cả từ phía các doanh nghiệp xuất
khẩu lẫn khách hàng muốn mua sản phẩm gạo của Việt Nam. Các
hoạt động quảng cáo, giới thiệu vẫn còn hạn chế và thiếu tính quy mô.
Nhằm phát huy lợi thế vốn có và hạn chế các tồn tại, Nhà nước cần đề
ra các chính sách mang tính vĩ mô, trong đó cần đặc biệt quan tâm đến nâng
cao chất lượng, đẩy mạnh và mở rộng quan hệ đối ngoại để tạo điều kiện cho
việc thâm nhập và mở rộng thi trường, hoàn thiện tổ chức.
Do chỉ nhìn nhận xuất khẩu gạo theo góc độ của Marketing-mix nên đề
tài còn thiếu tính tổng quát. Hơn nữa, thời gian hoạt động thực tế và điều
ki
ện nghiên cứu còn nhiều hạn chế, tài liệu tổng kết và thống kê chưa đầy đủ
cùng với sự hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân chưa nhiều nên khóa luận
không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của độc giả.
Hà Nội, tháng 12 năm 2001
Sinh viên
Phạm Thị Thu Hiền
107
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Nhật Dũng: “Nâng cao khả năng cạnh tranh, vấn đề sống còn đối
với doanh nghiệp Việt Nam tham gia AFTA”, Tạp chí Nghiên cứu kinh
tế số 281 tháng 10/2001, trang 47,48,49.
2. Một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu
thụ sản phẩm nông nghiệp, Nghị quyết Chính phủ, 15/6/2000.
3. Đặng Kim Sơn, Phạm Quang Diệu: “Tác động của Hiệp định Thương
mại Việ
t - Mỹ đến ngành nông nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
kinh tế số 277 tháng 6/2001, trang 15,16,17.
4. Hồ Khánh: “Chợ trung tâm lúa gạo, dự án đột phá cho ĐBSCL”, Thời
báo kinh tế Việt Nam số 96, thứ tư, 8/8/2001, trang 5.
5. Hưng Văn: “Gạo tạm trữ: dao hai lưỡi”, Thời báo kinh tế Việt Nam số
98, thứ tư, 15/8/2001, trang 5.
6. Hoài Linh: “Giá gạo tăng vững”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 37, thứ
sáu, 23/3/2001, trang 1.
7. An Yên: “Nâng cấp gạo, cà phê”, Th
ời báo kinh tế Việt Nam số 39, thứ
sáu, 30/3/2001, trang 1.
8. Anh Thi: “Lao đao gạo xuất khẩu”, Thời báo kinh tế Việt Nam số 33, thứ
sáu, 9/3/2001, trang 1.
9. Nguyễn Thế Nghiệp: “Tiêu thụ gạo đạt mức kỷ lục”, Thời báo kinh tế
Việt Nam số 24, thứ sáu, 23/2/2001, trang 14.
10. Thạc sỹ Đỗ Thị Loan: “Định giá trong Marketing xuất khẩu”, Tạp chí
Thương mại số 11/2001, trang 44,45.
11. Võ Hùng Dũng: “Xuất khẩu lươ
ng thực: Thành tựu, thách thức và chính
sách”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 278, tháng 7/2001, trang 3,4,5,6,7.
12. Phạm Văn Chung: “Hiện trạng và xu thế phát triển sản xuất lúa gạo ở
Việt Nam”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 5/2001,
trang 281, 282.
13. Hoàng Sơn: “Nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, một đòi hỏi của thực
tế sản xuất”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển nông thôn số 8/2001,
trang 519, 520.
14. Duy Hiếu, Thanh Hải: “Sản xuấ
t và xuất khẩu gạo trong thời gian qua ”,
Tạp chí Thương mại số 4/200, trang 7.
15. Thuý Nga: “Mậu dịch gạo thế giới thời gian gần đây và triển vọng”, Tạp
chí Thương mại số 4/2000, trang 9.
108
16. Phạm Minh Trí: “Nâng cao khả năng cạnh tranh của xuất khẩu nông sản
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn số 4/2001, trang 200, 270.
17. Thạc sỹ Nguyễn Thiện Đức: “ Về cơ chế xuất khẩu gạo”, Tạp chí
Thương mại số 14/2000, trang 11, 12.
18. Đoàn Cung: “Giá gạo khởi sắc nhưng giảm nhẹ trong 3 tháng tới”, Tạp
chí Thương mại số 17/2001, trang 17.
19.
Nguyễn Đức Hy: “Doanh nghiệp tham gia đầu tư năng cao khả năng cạnh
tranh của thóc gạo miền Bắc trên thị trường”, Tạp chí Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn số 2/2001, trang13.
20. Thanh Hải: “Chính sánh gạo 2000/02 của Thái Lan”, Tạp chí Ngoại
thương 21/1-10/2/2001, trang 13.
21. V.Trân: “Thị trường gạo thế giới”, Tạp chí Ngoại thương 21/4-30/4 2001,
trang 5.
22. Anh Thi: “Khơi thông nguồn tin cho doanh nghiệp”, Thời báo Kinh tế
Việt Nam số 124, thứ hai 7/10/2001, trang 12.
23. PGS.TS Nguy
ễn Sinh Cúc: “Giá nông sản Việt Nam, nguyên nhân và
giải pháp”, Tạp chí Nông thôn mới tháng 4/2001, trang 13,14.
24. Vương Hoàng Sơn: “Thị trường đầu mối bán buôn sản phẩm, động lực
hỗ trợ cho nông nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn số 9/2001, trang 596, 597.
25. “ Sản xuất, lưu thông, xuất khẩu gạo của Thái Lan và Việt Nam, những
chính sách và biện pháp quản lý có liên quan”, Vụ xuất nhập khẩu , Bộ
Thương mại, 12/5/2000.
26. TS. Nguyễn Trung Vãn: “Lươ
ng thực Việt Nam thời đổi mới, hướng xuất
khẩu”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1998.
27. PGS,TS Nguyễn Bách Khoa, Thạc sỹ Phan Thu Hoài: “Marketing thương
mại quốc tế”, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 1999.
28. Giáo trình Marketing đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản thống kê,
Hà Nội 4/2000.