Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,436
934
105
84
Nhà nước cho các nhà xuất khẩu. Hệ thống thông tin phải thật chính xác, cập
nhật để có những phản ứng linh hoạt trước những biến động của thị trường.
Xây dựng thị trường xuất khẩu gạo là một đòi hỏi mang tính cấp thiết
và chiến lược. Nhà nước cần tạo lập và đặt mối quan hệ thương mại với các
nước có nhu cầu lớn về xu
ất khẩu gạo, tranh thủ khai thác các mối quan hệ
để ký các hiệp định xuất khẩu gạo hoặc các bản thoả thuận phối hợp, hợp tác
với các nước để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động
đồng thời có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp tìm kiếm thị trường bên ngoài.
Trong quá trình xuất khẩu gạo, cần tranh thủ gây dựng uy tín thương mại
quốc t
ế đối với các bạn hàng, từng bước tạo thói quen ưa chuộng, tiêu dùng
gạo Việt Nam, từ đó đẩy mạnh xuất khẩu chiếm lĩnh thị trường.
Thứ hai: các thị trường mục tiêu.
Việc lựa chọn các thị trường mục tiêu cho xuất khẩu gạo trong những
năm tới là vấn đề khá nan giải. Điều quan trọng đối với Việt Nam hiện nay
là s
ắp xếp các phân đoạn thị trường xuất khẩu gạo theo thứ tự ưu tiên và
hiệu quả kinh tế, đầu tư vốn cho sản xuất, chế biến, xây dựng cơ sở hạ tầng
cho nông nghiệp, tạo tiền đề cho xuất khẩu gạo trong tương lai.
Những năm sắp tới, chúng ta tập trung xuất khẩu gạo vào những thị
trường tiêu biểu sau:
* Một, th
ị trường gạo phẩm cấp thấp. Đây là thị trường tập trung những
nước nghèo tiêu thụ gạo chất lượng thấp (tấm 25-35%) như Ấn Độ,
Philippin, các quốc gia châu Phi...
+ Thị trường ổn định gạo bao gồm các nước ASEAN như Philippin,
Malayxia... Đây là một thị trường quan trọng cần hướng tới. Về cơ bản giữa
nước ta và các nước ASEAN, cơ cấu hàng xuất khẩu t
ương tự như nhau. Tuy
nhiên ta cần khai thác những ưu thế và giá nhân công rẻ so với nhiều nước
trong khu vực địa lý, và trong tương lai nằm trên hệ thống đường bộ và
đường sắt xuyên Á và chế độ ưu đãi thuế quan trọng nội bộ các nước
ASEAN để tăng mức xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ vào thị trường này đặc
biệt là các mặt hàng nông sản như gạo. Mặc dù chúng ta gặp sự cạ
nh tranh
gay gắt với Thái Lan về gạo nhưng chúng ta có chỗ đứng tại các nước
Inđônêxia, Singapo, Philippin... Chúng ta đã có hướng đi đúng khi liên
doanh với các nước trồng lúa cao sản để cung cấp ổn định cho thị trường thế
giới với hiệu quả cao. Chúng ta nhận định rằng trong thời kỳ đến năm 2010
thì ASEAN vẫn là thị trường tiêu thụ gạo chủ yếu của Việt Nam.
85
+ Thị trường không ổn định là những thị trường nhập gạo của Việt Nam
với số lượng không đồng đều như Trung Quốc và các nước Châu Phi. Với số
dân 1,3 tỉ người và vị thế địa lý thuận lợi, Trung Quốc hứa hẹn là nước nhập
khẩu gạo lớn của Việt Nam. Tuy nhiên xuất khẩu gạo sang nước này gặp
nhiều khó khăn do sự đồng nhất v
ề mùa vụ. Những năm nhu cầu nhập khẩu
gạo của Trung Quốc lớn do mất mùa thì chúng ta không đáp ứng đủ với
nguyên nhân các tỉnh miền Bắc gặp thiên tai. Năm 1995, khi Trung Quốc
cần nhập nhiều lương thực nhất, nhưng chính phủ ta có lệnh cấm xuất khẩu
bằng đường tiểu ngạch qua biên giới vì khó khăn về lúa gạo ở miền Bắc.
Ngược lại, năm 1997, khi chúng ta th
ừa gạo cần cho tiêu thụ, Chính phủ ta
đã cho phép địa phương được giao dịch để bán cho Trung Quốc nhưng
không thực hiện được. Điều đó chứng tỏ tính chất bấp bênh trong quan hệ
thương mại với Trung Quốc là thị trường lớn nhưng không ổn định. Chính vì
vậy, trong những năm tới chúng ta cần có những điều chỉnh thích hợp để
điều hoà thị trường
đầy tiềm năng này.
Tương tự như Trung Quốc, thị trường các quốc gia châu Phi rất có triển
vọng đối với gạo xuất khẩu của Việt Nam nhưng cũng gặp nhiều khó khăn.
Khu vực này luôn có những bất ổn định về chính trị, khó có khả năng thanh
toán nên lượng gạo nhập từ Việt Nam dù nhiều nhưng không ổn định. Tuy
nhiên khu vực vẫn là bạn hàng rất lớn c
ủa Việt Nam và chúng ta phải tập
trung khai thác trong những năm tới.
* Hai, thị trường gạo phẩm chất cao bao gồm các nước nhập khẩu gạo
chất lượng cao của Việt Nam bao gồm:
- Thị trường EU: hiện nay kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gạo của Việt
Nam vào thị trường này chưa lớn do có sự cạnh tranh gay gắt của gạo Thái
Lan. Tuy nhiên trong tương lai, khi chúng ta nâng cao được chất lượng gạo
thì đây là m
ột thị trường rất có tiềm năng. Các chuẩn mực kinh doanh của
EU đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải thật sự năng động, đảm bảo
chất lượng gạo và giữ chữ tín trong giao dịch, buôn bán, từng bước xuất
khẩu trực tiếp gạo Việt Nam vào khu vực này.
- Thị trường Mỹ: là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nhưng Mỹ
cũng có nhu c
ầu nhập khẩu. Năm 2001, Hiệp định Thương mại song phương
Việt - Mỹ được ký kết, các doanh nghiệp Việt Nam có thể hưởng quy chế tối
huệ quốc của Mỹ nên gạo của ta có thể tiếp cận và xâm nhập vào thị trường
này dễ dàng hơn. Trong tương lai, chúng ta cần mở rộng quan hệ để có mức
86
xuất khẩu gạo ổn định vào thị trường Mỹ nói riêng cũng như các nước châu
Mỹ nói chung.
- Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là nước tiêu thụ gạo đòi hỏi chất
lượng cao. Do vậy, các doanh nghiệp của ta cần nắm bắt xu thế này để đầu
tư trang thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm mới có thể có chỗ đứng trên
thị trường, nhấ
t là khi Nhật Bản giảm mức bảo hộ đối với mặt hàng gạo theo
quy định của WTO.
- Thị trường Trung Đông: đây là khu vực gồm những nước giàu có trên
thế giới, có nhu cầu cũng như khả năng thanh toán, giao dịch thương mại
quốc tế... Do chưa hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trường ở khu vực này
nên kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và các nước này không đáng kể
.
Bước đầu gạo Việt Nam đã có chỗ đứng và được ưa dùng tại Iran, Irac...
Trong tương lai, khu vực này sẽ mở ra nhiều cơ hội cho các nhà xuất khẩu
gạo của Việt Nam.
Nhìn chung, gạo chất lượng thấp của Việt Nam chiếm tỷ lệ khá cao với
thị trường châu Á và châu Phi rộng lớn nên cần khai thác mức độ tối đa. Bên
cạnh đó, Việt Nam tiếp tục thực hi
ện chính sách thúc đẩy đầu tư vào sản
xuất nâng cao chất lượng gạo, kết hợp với các chính sách Marketing thị
trường của Chính phủ để đưa mặt hàng cao cấp xâm nhập thị trường các
nước tiêu thụ loại hàng này với giá cao. Do vậy, chúng ta phải biết kết hợp
giữa việc giữ vững các thị phần đã xuất khẩu, chuyển dần sang sản xuất và
xuất khẩu gạo cao c
ấp và đặc sản để đi vào thị trường cao cấp, thu được giá
trị xuất khẩu cao hơn.
Như vậy, thị trường xuất khẩu gạo còn rộng mở, khả năng tham gia vào
thị trường gạo của Việt Nam ngày càng tăng. Trong những năm tới, chúng ta
cần thực hiện hoạt động xuất khẩu gạo sao cho có thể đem lại hiệu quả kinh
tế cao nhất trong n
ền kinh tế quốc dân.
3.2.2. Chiến lược Marketing-mix
Vai trò của xuất khẩu trong đó có xuất khẩu gạo đã được Đảng và Nhà
nước ta khẳng định trong văn kiện đại hội Đảng IX. Đó là mục tiêu quan
trọng, tạo điều kiện cho đất nước ta thực hiện CNH-HĐH và nhanh chóng
hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Để nâng cao vị thế của gạo Việt Nam, đáp
ứng những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế, chúng ta cần
có một chiến lược cụ thể nhằm đẩy mạnh, xúc tiến xuất khẩu gạo, tăng kim
ngạch là tiền đề quan trọng đáp ứng nhu cầu về vốn trong hoạt động đối
ngoại.
87
Đề ra các giải pháp theo quan điểm Marketing-mix hình thành hệ thống
các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu gạo là cần thiết để chiếm lĩnh thị trường
thế giới bao gồm chính sách sản phẩm, chính sách giá, chính sách phân phối
và chính sách xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh. Mục đích của các chính sách
này là tạo điều kiện cho xuất khẩu có thể cạnh tranh và có vị trí cao trên thị
trường nước ngoài với chi phí thấp nhất. Các đề xuất nâng cao hi
ệu quả xuất
khẩu gạo mang tính chiến lược dưới đây sẽ liên quan đến hầu hết các vấn đề
sản xuất, chế biến, dự trữ lưu thông lúa gạo trong những năm sắp tới.
3.2.2.1. Chính sách sản phẩm
Sản phẩm sản xuất ra phải đảm bảo thoả mãn nhu cầu của khách hàng.
Đối với sản phẩm xuất khẩu, khách hàng nước ngoài có những đặc tính về
văn hoá khác biệt nên yêu cầu càng khắt khe hơn. Chính sách sản phẩm của
gạo xuất khẩu được trình bày bao gồm các giải pháp trong khâu sản xuất,
chất lượng và chủng loại...
Tình hình sản xuất gạo của nước ta đã và đang được phát triển theo xu
hướng tốt cần được khai thác toàn diện về chiều rộng và chiều sâu.
* Thứ nhất, về giống lúa, từ ngàn xưa kinh nghiệm của ông cha để l
ại thì
giống lúa chỉ là yếu tố đứng thứ tư (sau ba nhân tố khác là nước, phân bón,
nhân công) nên không coi trọng vai trò của giống lúa đối với sản xuất.
Ngày nay, giải pháp về giống lúa cần đi trước một bước, kể cả nghiên
cứu, triển khai và việc áp dụng vào thực tiễn nhằm tạo ra những tiền đề cơ
bản cho các giải pháp kỹ thuật khác phát huy có hiệu quả. Khi nghiên cứu
cải tiế
n giống lúa hay nhập các loại giống mới phục vụ cho xuất khẩu cần
chú ý các yêu cầu như năng suất cao, có khả năng thích nghi với các vùng
địa lý, khí hậu của Việt Nam, đạt hiệu quả cao trong quá trình chế biến và có
khả năng thoả mãn nhu cầu của khách hàng thế giới. Thời gian từ khâu thử
nghiệm đến khâu sản xuất đại trà cần được rút ngắn nhưng đồng thời phải
gi
ữ được độ an toàn khi đưa các giống lúa này ra áp dụng. Cần đầu tư cho
khoa học, tập trung nhân giống mới chất lượng cao, giúp nông dân đẩy mạnh
xuất khẩu lúa thơm xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường, tăng tỷ
trọng giống lúa này lên cơ cấu xuất khẩu gạo trong những năm tới để đáp
ứng thị trường châu Âu, châu Mỹ và các quốc gia châu Á như Nhật Bản,
Hồng Kông, Đài Loan, Singapo... và số lượng đông đảo Việt kiều sống ở
nước ngoài. Trong thời gian tới nên tập trung các vùng chuyên canh sản xuất
các loại gạo đặc sản như Tám thơm, Nàng Hương, nếp cái hoa vàng... với
sản lượng lớn dành cho xuất khẩu. Bên cạnh đó cần khắc phục tình trạng
88
giảm sút về chất lượng của một số giống gạo đặc sản truyền thống nhằm
khôi phục hương thơm vốn có của chúng.
Diện tích chuyên sản xuất lúa hàng hoá xuất khẩu cũng cần được quy
hoạch cụ thể. Để có vùng chuyên canh lúa xuất khẩu ổn định cần thực hiện
theo nguyên tắc: vùng không phải đánh thuế đất, thóc sản xuất ra phải được
tiêu thụ
hết với lợi nhuận ít nhất phải bằng trồng lúa hàng hoá tiêu thụ trong
nước. Muốn vậy phải có sự ràng buộc chặt chẽ, cụ thể về pháp lý và kinh tế
giữa cơ quan chức năng với người dân. Với các cơ quan khoa học và khuyến
nông là chất lượng giống và quy trình thâm canh, với các cơ quan quản lý
Nhà nước là giám sát và xử lý các sai phạm trong quá trình thực hiện. Trên
nguyên tắc đó, khâu giống phải do các Viện và phân vi
ện, các trung tâm
khoa học kỹ thuật nông nghiệp các vùng đảm nhận và họ phải chịu trách
nhiệm trước Nhà nước, trước khâu tuyển chọn, du nhập và phổ biến các quy
trình kỹ thuật thâm canh cho người dân. Để các cơ quan khoa học kỹ thuật
làm tốt các chức năng này cần đầu tư ngân sách cho họ và kết quả của công
tác này phải được xem là tiêu chuẩn quan trọng trong nhiệm vụ chính trị của
họ. Đông thờ
i, Nhà nước cần có các chính sách vừa có tính chất khuyến
khích vừa có tính chất bắt buộc các doanh nghiệp làm chức năng xuất khẩu
tham gia vào công tác nghiên cứu và chuyển giao giống lúa chất lượng cao
cho dân. Những đơn vị có nhiều đóng góp trong công tác này sẽ được
khuyến khích, khen thưởng một cách hợp lý.
* Thứ hai, về phân bón, đây là giải pháp kỹ thuật cần phải được tiến hành
đồng bộ với giải pháp về giống lúa do vai trò của phân bón đố
i với năng suất
lúa và chất lượng gạo. Chúng ta cần duy trì các loại phân hữu cơ truyền
thống bón lúa vì giá thành rẻ, phù hợp với điều kiện kinh tế của nông dân
Việt Nam và không gây ô nhiễm môi trường. Bên cạnh đó, theo xu thế
chung ở các nước nông nghiệp các trình độ tiên tiến, chúng ta có thể tăng
dần tỷ trọng hai loại phân hữu cơ công nghiệp và vi sinh, giảm dần phân bón
hoá học kết hợp với nhập kh
ẩu các loại phân hoá học tổng hợp. Nhà nước
cần tăng cường quản lý một cách chặt chẽ đảm bảo cung cấp phân bón có
chất lượng cho dân sản xuất, bảo vệ lợi ích cho họ cũng như hiệu quả kinh tế
- xã hội của hoạt động sản xuất và xuất khẩu gạo.
* Thứ ba, về vấn đề cải tiến kỹ thuật canh tác lúa.
Ở hầu hế
t các địa phương, công tác khuyến nông đã được chú trọng
nhằm hướng dẫn nông dân các kỹ thuật canh tác tiên tiến, nhưng nhìn chung
hiệu quả còn hạn chế vì lực lượng khuyến nông còn mỏng, mạng lưới nông
89
dân tham gia khuyến nông còn quá ít. Việc cơ giới hoá sản xuất tiến hành rất
khó khăn do quy mô sản xuất còn nhỏ. Trong những năm tới, Nhà nước cần
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn bao gồm:
thuỷ lợi, tăng diện tích đất canh tác, cung cấp điệ
n phục vụ sản xuất nông
nghiệp và phát triển giao thông nông thôn.
* Thứ tư, về các khâu sau thu hoạch.
Hiện nay chúng ta vẫn chủ yếu sấy thóc bằng năng lượng mặt trời và
có tỷ lệ gãy nát cao lúc xay xát, không đảm bảo chất lượng. Vì vậy, để khắc
phục tình trạng này, cần nghiên cứu trang bị những thiết bị sấy có quy mô
phù hợp và tận dụng các loại nhiên liệu có sẵn tại địa phương. Công ngh
ệ
xay xát và chế biến cần được trang bị hiện đại hơn, có công suất phù hợp,
tăng tỷ lệ gạo thu hồi với chất lượng cao. Mục tiêu trong những năm tới sẽ là
lắp đặt thêm những trung tâm chế biến gạo nhằm khắc phục những khó khăn
trong tái chế theo cách đối phó hiện nay. Chúng ta nên chú trọng chọn lựa và
trang bị máy xay xát nhỏ có công nghệ tốt tăng tỷ trọ
ng thu hồi, chất lượng
gạo tốt phục vụ nhu cầu ngày càng cao của nhân dân và các cơ sở tái chế để
xuất khẩu.
Cải tiến kỹ thuật công nghệ và hệ thống kho dự trữ bảo quản việc cất
giữ, hạn chế những ảnh hưởng của điều kiện thời tiết khí hậu nước ta là
những biện pháp để nâng cao chất lượng gạ
o xuất khẩu. Cụ thể, chúng ta cần
sắp xếp lại hệ thống kho chứa, bố trí một cách hợp lý và khắc phục những
kho chưa đạt tiêu chuẩn quy định, đặc biệt là các kho dự trữ xuất khẩu và
xây dựng thêm những kho mới, hiện đại ở một số trọng điểm, tạo điều kiện
thuận lợi cho cất trữ, bảo quản lúa g
ạo. Bên cạnh đó, chúng ta phải áp dụng
các công nghệ bảo quản tiên tiến: bảo quản kín gạo, sát trắng, gạo lật bằng
cách sử dụng màng PVC trong khí CO
2
hoặc khí Nitơ trong các kho dự trữ
quốc gia và dự trữ kinh doanh, bảo quản mát thóc gạo ở một số cụm kho dự
trữ quốc gia hiện đại, đòi hỏi vốn đầu tư lớn để có thể cạnh tranh với các
nước xuất khẩu gạo khác, sản xuất và áp dụng một số chế phẩm vi sinh vật,
các chế phẩm từ thực vật có tác dụng diệt côn trùng mà không gây
độc hại
cho người và gia súc, không làm nhiễm bẩn môi trường để bảo quản lương
thực trong kho tập trung và phương tiện cất trữ ở gia đình.
Với những đầu tư về sản xuất như trên, trong những năm tới, chất
lượng gạo của Việt Nam sẽ thay đổi, đạt được hiệu quả cao trong sản xuất và
xuất khẩu. Đây là một yếu tố quan tr
ọng có thể quyết định được tương lai
90
của ngành gạo Việt Nam vì một trong những nhược điểm lớn của chúng ta là
chất lượng gạo. Khắc phục được yếu điểm này sẽ giúp chúng ta tăng được
giá bán, thu hút nhiều khách hàng mua với số lượng lớn, qua đó tăng được
kim ngạch xuất khẩu gạo. Các giải pháp về sản phẩm gạo cần phải thực hiện
một cách thống nhất, toàn bộ và đạt
được hiệu quả tối ưu.
3.2.2.2. Chính sách giá
Chính sách giá là chính sách khó đưa ra nhất trong Marketing-mix.
Định giá cho hàng bán nội địa đã khó, định giá cho hàng xuất khẩu đặc biệt
cho những hàng nông sản luôn biến động như gạo lại càng khó hơn. Chính
sách giá quyết định tổng kim ngạch xuất khẩu và lợi nhuận. Ngay cả khi chất
lượng gạo tốt, có phương pháp xúc tiến xuất khẩu đúng và giá bán đúng thị
trường song giá không thích hợp thì những nỗ
lực trong các chính sách khác
cũng không mang lại nhiều kết quả. Vì lẽ đó, chính sách giá trong
Marketing-mix có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Muốn có chính sách giá gạo xuất khẩu đúng đắn, cần tiến hành nghiên
cứu tình hình thị trường, phân tích chi phí sản xuất và chi phí Marketing. Có
nhiều yếu tố cần phải cân nhắc trước khi đi đến thiết lập giá xuất khẩu trong
đó có yếu tố kiểm soát được và những yếu tố không thể kiểm soát.
* Tình hình chung
Như đã phân tích, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam dù có xu hướng tăng
trong thời gian gần đây nhưng vẫn thấp hơn so với giá gạo cùng loại của các
nước khác như Thái Lan, Mỹ...
Nguyên nhân của tình trang trên do nhiều yếu tố khách quan và chủ
quan từ phía Nhà nước và người sản xuất lúa gạo.
- Về khách quan: thị trường gạo thế giới và khu vực đã xuất hiện xu
hướng cung lớn hơ
n cầu. Đặc biệt vào cuối năm 2000, đầu năm 2001 xu
hướng trên càng trở nên phổ biến, số lượng lúa gạo sản xuất tăng và nhu cầu
tiêu thụ giảm. Sản lượng nhập khẩu của các nước Inđônêxia, Philippin giảm
từ 50% đến 70% so với năm 1999. Còn ở các khu vực khác như Trung
Đông, châu Phi thì nhu cầu nhập khẩu gạo cũng không tăng do mức tiêu
dùng gạo có xu hướng giảm dần. Trong lúc đó, s
ản lượng sản xuất lúa gạo
của các nước có nhiều diện tích lúa như Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan,
Bănglađét, Inđônêxia, Thái Lan, Philippin đều có xu hướng tăng hoặc ổn
định. Hai nước Lào và Campuchia không chỉ tự túc đủ lương thực mà bước
đầu có dư thừa để xuất khẩu gạo.
91
- Về chủ quan: sản xuất gạo tuy có nhiều tiến bộ vượt bực nhưng nhìn
chung đến nay vẫn chưa thoát khỏi tình trạng tự phát, tự cấp, tự túc và phân
tán theo quy mô hộ gia đình. Tập quán sản xuất gạo để tiêu dùng và bán ra
thị trường trong nước khi thừa vẫn còn rất nặng nề trong nhiều hộ nông dân
ỏ miền Bắc và miền Trung. Công tác quy hoạch và định hướng của Nhà
nước nhiều khi chỉ d
ừng lại ở các chủ trương, chưa được cụ thể hoá bằng các
giải pháp kinh tế tài chính, nên chưa có tác dụng tích cực cho sản xuất lúa
gạo. Thông tin kinh tế, thông tin thị trường gạo vừa thiếu, vừa chậm nên
không có tác dụng định hướng cho người nông dân. Vai trò của Nhà nước về
cung cấp thông tin thị trường lúa gạo chưa phát huy tác dụng tích cực. Vai
trò của các doanh nghiệp, các chủ trang trại và các hộ nông dân trong sản
xuất lúa gạ
o đến nay vẫn còn mờ nhạt. Khuyết điểm phổ biến của người
nông dân là chạy theo năng suất và số lượng, ít quan tâm đến chất lượng vệ
sinh môi trường và giá cả. Do vậy, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu nước
ta vần còn thấp so với sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực và
trên thế giới. Đầu ra cho lúa gạo vẫn chưa có một chiến lược rõ ràng, lâu dài
mà chỉ
có tính chắp vá nhất thời nên chưa ổn định. Việc Chính phủ dùng
biện pháp hỗ trợ lãi suất tín dụng để mua lúa gạo tạm trữ tuy có tác dụng tích
cực nhưng việc thực hiện cũng rất khó khăn và chưa có tính bền vững. Vì
vậy, đã đến lúc cần có một chiến lược giá cả phù hợp và hiệu quả hơn cho
gạo xuất khẩu. Việc định giá là cần thiết và
được tiến hành lần lượt theo
từng bước.
* Các bước định giá hàng xuất khẩu
- Bước một: xác định mục tiêu cho việc định giá.
Chiến lược định giá hàng xuất khẩu phải phù hợp với mục tiêu tổng thể.
Với ba mục tiêu đã nêu trên của xuất khẩu gạo thì giá cả đưa ra cũng phải
theo sát nhằm đảm bảo sự nhất quán trong các chính sách của Nhà nước ta.
- Bước hai: phân tích tình hình thị trường và hành vi của người nhập
khẩu gạo.
Dựa trên thị trường gạ
o thế giới, chúng ta có thể thiết lập các loại giá
phù hợp với chủng loại và chất lượng gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó, cần đánh
giá tình hình cạnh tranh của gạo Việt Nam đối với các nước xuất khẩu khác.
Muốn cạnh tranh được phải dựa vào các biến số Marketing khác để làm cho
gạo Việt Nam tốt hơn các loại gạo cùng loại của đối thủ cạnh tranh như ch
ất
lượng, dịch vụ phân phối và xúc tiến bán hàng.
- Bước ba: tính chi phí.
92
Chi phí sản xuất gạo là nhân tố cơ bản trong việc định giá, đòi hỏi phải
tinh thông về nghiệp vụ tính toán và bám sát các hoạt động sản xuất và
Marketing. Những nhân tố cơ bản cần phải bám sát là chi phí sản xuất lúa
gạo, chi phí xay sát chế biến, vận chuyển, phân phối... Tuy nhiên, vai trò của
việc phân tích chi phí không phải để xác định giá gạo xuất khẩu mà để giúp
cho việc thiết lập một khung giá theo điều kiệ
n thị trường.
- Bước bốn: thiết lập các khung giá mục tiêu.
Để đưa ra một khung giá mục tiêu, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo nên
cố gắng xác định cơ hội thị trường với khả năng giành lợi nhuận bằng cách
xem xét lại những phạm vi giá đã đưa ra và được thị trường chấp nhận, đồng
thời xem xét phần chi phí và trên cơ sở đó đưa ra một giá đúng cho từng lo
ại
gạo xuất khẩu.
Giá gạo xuất khẩu cũng liên quan chặt chẽ tới các kênh phân phối được
sử dụng, hình thức bán hàng và các dịch vụ sau bán hàng, khả năng giao
hàng nhanh hay chậm và mức thuế quy định ở từng nước.
- Bước năm: báo giá.
Dựa vào khung giá đã được định ra, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ
làm báo giá cụ thể gửi cho nhà nhập khẩu theo yêu cầu cụ thể của h
ọ. Trong
báo giá này, nhà xuất khẩu cần cung cấp chi tiết về giá chính xác của gạo và
các điều kiện cụ thể về việc cung cấp gạo.
* Các chính sách giá cụ thể
- Chính sách giá mua.
Giá mua là nền tảng quan trọng cho việc định giá bán. Chính sách giá
mua cũng đồng thời nhằm mục đích nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo
Việt Nam trên trường thế giới và thúc đẩy sản xuất. Dựa trên cơ chế giá thị
trường, chúng ta cần nghiên cứu các giải pháp sau:
+ Một, cần giảm thiểu chi phí sản xuất.
Chi phí sản xuất gạo phụ thuộc vào nhiều yếu tố như phân bón, giống,
nhân công, năng suất lúa... Hiện nay, chi phí sản xuất lúa gạo Việt Nam nhìn
chung thấp hơn so với các nước chân Á, đặc biệt là so với Thái Lan, đối thủ
cạnh tranh chính của chúng ta do điều kiện tự nhiên thuận lợi, mức độ đầu tư
phân bón thấp nhưng có năng suất tương tự như các nước khác, chi phí nhân
công rẻ...
Chính vì vậy, trong những năm tới chúng ta cần phát huy lợi thế này,
tiếp tục giảm thi
ểu chi phí sản xuất, yếu tố quyết định giá gạo xuất khẩu ra
thị trường thế giới.
93
+ Hai, chính sách giá mua.
Gạo Việt Nam được sản xuất theo thời vụ trong khi nhu cầu của các
nước nhập khẩu thì thường không đổi trong suốt cả năm. Do đó, giá gạo
trong khâu mua thường xuyên biến động, tăng cao khi khan hiếm và giảm và
vụ thu hoạch. Sự không ổn định đó về giá kéo theo nguy cơ mất lợi nhuận,
gây tâm lý lo lắng cho người nông dân. Chính vì vậy, cần có những biện
pháp ổn định giá mua trong đó có mô hình giá bảo hộ gián ti
ếp. Với mô hình
này, Chính phủ không can thiệp trực tiếp vào cơ chế thị trường nhưng áp
giá sàn để kiểm soát sự biến động của thị trường gạo. Việc Chính phủ mua
gạo tạm trữ là một ví dụ để điều tiết giá. Tuy nhiên, cần tính toán một cách
hợp lý, tránh tình trạng tạm trữ gạo trở thành “con dao hai lưỡi”, tạm trữ khi
giá xuất khẩu tăng cao rồi sau đó lỗ v
ốn khi bán ra với giá thấp. Nhà nước
nên quản lý lúa gạo và đảm bảo an ninh lương thực thông qua điều tiết thuế.
Khi giá lúa xuống quá thấp hay giá xuất khẩu tăng cao, có thể cần thiết cho
một số doanh nghiệp có năng lực, có đơn đặt hàng được vay ưu đãi bằng
nguồn quỹ hỗ trợ phát triển, hỗ trợ xuất khẩu trong thời hạn nhất định,
không nhất thiết ph
ải đưa ra giá sàn để căn cứ vào đó mà ngân hàng, ngành
thuế tính mức ưu đãi, bởi vì giá cả luôn biến động theo thị trường thế giới.
- Chính sách giá xuất khẩu.
Ở Việt Nam, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp kéo theo việc giá gạo
xuất khẩu giảm đáng kể so với gạo cùng chất lượng của các nước xuất khẩu
khác. Do đó, cần phải có một chính sách giá chung giữa các nhà xuất khẩu
Việt Nam. N
ăm 1992, Hiệp hội các doanh nghiệp xuất khẩu gạo ra đời
nhưng không đảm nhiệm được vai trò của mình. Hơn nữa, lúa gạo là một sản
phẩm sản xuất theo thời vụ, phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên trong khi
nhu cầu luôn ổn định nên chúng ta cần phải dự báo những thay đổi của thị
trường dựa trên những thông tin chính xác để đưa ra một mức giá hợp lý cho
gạo xu
ất khẩu.
Giá bán của gạo còn phụ thuộc vào các điều kiện và phương thức thanh
toán. INCOTERM 2000 do Phòng thương mại quốc tế đã định nghĩa một
cách chính xác tới điểm giao hàng và việc phân chia trách nhiệm giữa người
bán và người mua. Các nhà xuất khẩu của Việt Nam do thiếu kinh nghiệm
nên thường bán gạo theo giá FOB để giảm các trách nhiệm liên quan nên đã
mất đi nhiều lợi ích đáng kể. Hiện tại, Việ
t Nam đang là một nước xuất khẩu
gạo lớn trên thế giới nên cần phải thay đổi cách thức bán hàng và chọn giá
phù hợp đồng thời có thể mang lại lợi nhuận tối đa cho đất nước.