Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,420
934
105
74
* Hai là, sức tăng trưởng nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Sản phẩm
quốc nội và các chỉ tiêu khác về phát triển không ngừng tăng trong những
năm qua. Mức tăng trưởng bao gồm cả sản xuất nông nghiệp (trung bình
5,8%/năm kể từ những năm đầu thập kỷ 90), nhanh hơn khu vực công công
nghiệp và dịch vụ.
* Ba là, việc sử dụng đất trồng và nhân công bị hạn chế do nhữ
ng vấn
đề về nhân khẩu học. Việc tăng dân số không ngừng dẫn tới phải giảm đáng
kể diện tích đất trồng do mở rộng làng xã, xây dựng cơ sở hạ tầng và đô thị
hoá.
3.1.1.2. Định hướng
Xuất phát từ thực trạng và mục tiêu trên, chúng ta cần lưu ý phát triển
sản xuất lúa gạo theo một số định hướng sau đây:
* Thứ nhất: t
ăng cường thâm canh tăng năng suất lúa gạo, kết hợp khai
hoang, tăng vụ ở những nơi có điều kiện trong đó tập trung vào định hướng
có tính chiến lược lâu dài là thâm canh tăng năng suất lúa. Đây là một định
hướng đề cập trong tất cả các đại hội Đảng thời gian gần đây vì nó xuyên
suốt quá trình phát triển nền kinh tế gắn với nông nghiệp của nước ta và sẽ
là
kế hoạch phát triển cho tương lai. Định hướng này cho phép chúng ta bảo
đảm mục tiêu lớn nhất là an ninh lương thực quốc gia, tăng sản lượng gạo
đồng thời có thể chuyển các loại lúa canh tác trong thời vụ hiệu quả nhằm
đem lại năng suất cao nhất.
* Thứ hai: đa dạng hoá trong sản xuất lúa gạo bao gồm chủng loại gạo,
phẩm chất các giống lúa gạo và người sả
n xuất lúa gạo cho xuất khẩu. Theo
định hướng này thì đa dạng hoá phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường trên
cơ sở nhu cầu và biến động của thị trường quốc tế để sản xuất. Cụ thể là
chủng loại gạo bao gồm gạo thường, gạo đặc sản phẩm cấp các loại gạo
được cung cấp phong phú với cùng một mặt hàng lúa gạo nh
ưng có nhiều
giống thuần chủng và siêu thuần chủng, nguồn sản xuất được định hướng
theo quy mô lớn, nhỏ khác nhau.
* Thứ ba: tích cực ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất
để vừa tăng năng suất và sản lượng lúa gạo cho tiêu dùng và cho xuất khẩu,
vừa không ngừng nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu đồng thời bảo vệ được
môi trường sinh thái. Yêu c
ầu bảo vệ môi trường sinh thái khi áp dụng khoa
học kỹ thuật là hoàn toàn cần thiết vì nếu không tính đến yếu tố này sẽ rất dễ
gây nên tình trạng ứng dụng không hợp lý các thành tựu công nghệ hiện đại,
75
tăng cao năng suất lúa nhưng phá hoại môi sinh môi trường, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống của con người, nhất là trong tương lai. Vì vậy
Chính phủ cần có những quy định cụ thể và chi tiết hơn.
Theo số liệu của bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, mục tiêu và
định hướng sản xuất lúa gạo năm 2000 được khái quát như bảng sau:
Bảng 3.1. Mục tiêu cụ thể của sản xuất gạo năm 2010
Chỉ tiêu Năm 2010
Diện tích đất 4,1 – 4,2 triệu ha
Diện tích đất trồng 7,5 triệu ha
Năng suất 50 – 55 tạ/ha
Sản xuất (quy thóc) 38 – 40 triệu tấn
Xuất khẩu (quy gạo) 4 – 4,5 triệu tấn
Nguồn: Báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
3.1.2. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo
3.1.2.1. Cơ chế mới
Theo quyết định 46/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ mới ban hành
về cơ chế xuất nhập khẩu các mặt hàng trong năm năm 2001 – 2002 có một
số thay đổi liên quan đến gạo xuất khẩu, cụ thể là:
- Chính phủ quyết định chính thức bãi bỏ cơ chế giao h
ạn ngạch xuất khẩu
gạo và việc quy định doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xuất khẩu. Doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được xuất khẩu gạo nếu có đăng ký
kinh doanh ngành hàng lương thực hoặc nông sản.
- Những hợp đồng xuất khẩu gạo sang một số thị trường có sự thoả thuận
của Chính phủ ta với Chính phủ các nước (hợp đồng Chính phủ), sau khi
trao đổ
i với Hiệp hội lương thực Việt nam được giao cho Bộ Thương mại
chỉ định và chỉ đạo doanh nghiệp làm đại diện giao dịch, kí kết hợp đồng.
- Việc xuất khẩu theo kế hoạch trả nợ, viện trợ của Chính phủ, thực hiện
theo cơ chế đấu thầu hoặc quyết định riêng của Thủ tướng chính phủ.
- Để đảm bảo l
ợi ích nông dân, ổn định sản xuất nông nghiệp và thị
trường trong nước, giảm bớt khó khăn đối với hoạt động sản xuất, lưu thông
lúa gạo và phân bón khi thị trường trong ngoài nước có biến động, Thủ
tướng Chính phủ sẽ xem xét, quyết định các biện pháp can thiệp có hiệu quả
vào thị trường lúa gạo.
76
Quy định trên của Thủ tướng Chính phủ đã mở rộng hướng đi cho các
nhà xuất khẩu. Không còn các đầu mối nên mọi thành phần kinh tế đều có
thể tự do ký kết hợp đồng với đối tác nước ngoài sau khi đã đăng ký kinh
doanh. Cơ chế mới đã thông thoáng hơn rất nhiều so với cơ chế ban hành
trước đây song cũng đặt ra nhiều vấn đề bức xúc, đòi hỏi m
ột sự quản lý
chặt chẽ, thường xuyên của các ngành, các cấp, tránh tình trạng tranh mua,
tranh bán, ép giá của các doanh nghiệp nhằm thao túng thị trường và thu lợi
cao nhất.
31.2.2. Định hướng và mục tiêu xuất khẩu gạo
Cơ chế mới ban hành trong thời điểm chúng ta bước sang thế kỷ mới
với những cơ hội và thách thức mới là một công cụ để thực hiện các mục
tiêu đặt ra với sản xu
ất gạo, tăng lượng gạo xuất khẩu, mở rộng thị trường và
nâng cao chất lượng đảm bảo hiệu quả hơn trong xuất khẩu. Thực chất mục
tiêu này hướng vào tăng số lượng, cải thiện chất lượng có nghĩa là tăng tổng
kim ngạch gạo xuất khẩu. Bên cạnh đó việc mở rộng thị trường cũng được
các nhà hoạch đị
nh chiến lược coi trọng vì thị trường là cái đích mà các nhà
xuất khẩu hướng đến. Ba mục tiêu trên được tiến hành song song đảm bảo
cho gạo sản xuất ra có thể xuất khẩu tạo thành một quá trình thông suốt đồng
thời phù hợp với các mục tiêu của sản xuất lúa và xu thế phát triển chung
của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn mới.
Cũng như trong sản xuất lúa gạo, trong xuấ
t khẩu để thực hiện các mục
tiêu đã đặt ra cần có các định hướng. Cụ thể là:
- Thứ nhất: đa dạng hoá chủng loại gạo cấp cao nhập khẩu đáp ứng nhu
cầu đa dạng của thị trường thế giới.
- Thứ hai: đa phương hoá thị trường tiêu thụ gạo trong đó tập trung vào
những thị trường tương đối ổn đị
nh về số lượng và chất lượng.
- Thứ ba: đa dạng hoá hình thức tổ chức tham gia xuất khẩu gạo để có thể
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và phức tạp của khách hàng.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu gạo
3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô
3.2.1.1. Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất khẩu
Những năm g
ần đây, gạo Việt Nam đã có mặt trên 80 nước và Việt
Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới sau Thái Lan. Tuy nhiên, sản
xuất lúa gạo xuất khẩu còn thiếu quy hoạch, chưa đa dạng hoá chủng loại
hàng, hệ thống chế biến, bảo quản phục vụ xuất khẩu còn nhiều yếu kém, lại
77
phân bổ không hợp lý. Hệ thống nhà máy xay xát, đánh bóng còn ít, tập
trung chủ yếu tại TP Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Mỹ Tho. Đầu mối xuất khẩu
bó hẹp trong khu vực TP Hồ Chí Minh, làm tăng chi phí vận chuyển và các
chi phí trung gian. Bên cạnh đó, chúng ta vẫn chưa xác định được chiến lược
về thị trường và chiến lược sản phẩm rõ ràng, chưa thiết lập được hệ thống
thị trường, bạn hàng lớ
n ổn định và vẫn còn tình trạng bán qua trung gian,
tranh mua, tranh bán ở thị trường nước ngoài. Khâu điều hành xuất khẩu tầm
vĩ mô còn nhiều lúng túng, không kịp thời, gây khó khăn cho doanh nghiệp
xuất khẩu về nguồn hàng và ký kết hợp đồng.
Để nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế
giới thì vấn đề đặt ra hiện nay chính là hoàn thiện hệ thống tổ chức xuất
khẩ
u gạo. Năm 2001, với cơ chế bãi bỏ hạn ngạch và đầu mối xuất khẩu có
thể tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát huy được ưu thế của mình, giải
quyết được những vướng mắc trong vấn đề quản lý, tránh tình trạng độc
quyền nhưng cũng gây nhiều khó khăn mới cho các cơ quan chức năng về
kiểm soát lượng gạo xuất khẩu,
đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
Vì vậy, cùng với quyết định này cần đưa ra các giải pháp đồng bộ để
ngăn chặn những vướng mắc mới phát sinh. Cụ thể là:
* Thứ nhất: khi bãi bỏ đầu mối hạn ngạch các cơ quan có trách nhiệm
cần đánh giá sản lượng thóc để định hướng và công bố ngay tổng mức dự
định sẽ xuất khẩu ở nă
m sau từ cuối năm trước để doanh nghiệp dựa vào đó
xác định thời gian và tiến độ, chủ động điều tiết các hoạt động của mình cho
phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Chính phủ chỉ đạo giao cho Uỷ ban nhân dân
các tỉnh và các ngành có liên quan theo dõi, tạo điều kiện hỗ trợ về vốn, tổ
chức tốt hơn nữa việc mua lúa cho nông dân vào đúng thời điểm thu ho
ạch
nhằm có những biện pháp bảo quản hàng hoá tốt và ngăn chặn không cho
giá xuống.
* Thứ hai: vì không còn hạn ngạch và đầu mối, số lượng doanh nghiệp
tham gia xuất khẩu sẽ tăng. Nhà nước cần có biện pháp sắp xếp một cách
hợp lý, khuyến khích những doanh nghiệp có đủ khả năng, hạn chế sự ồ ạt
quá mức của các doanh nghiệp còn non kém về kinh nghiệm, yếu về tài
chính. Nhà n
ước có thể quy định một số quy định đối với doanh nghiệp được
kinh doanh xuất khẩu gạo như phải có giấy phép kinh doanh, phải có số vốn
tối thiểu quy định, có kho hàng đủ điều kiện và thuận tiện cho xuất khẩu và
việc cho kiểm tra của các cơ quan thuế, cơ quan thương mại, đồng thời có
một lượng tồn kho nhất định thường xuyên.
78
* Thứ ba: đối với một số hợp đồng nhất là hợp đồng mua bán gạo cấp
Chính phủ nên duy trì trong cơ chế quy định khuyến khích doanh nghiệp
tham gia đấu thầu và chỉ định tham gia đấu thầu khi cần thiết. Đối với các
trường hợp doanh nghiệp phải dừng hoặc hủy hợp đồng để đảm bảo lợi ích
của quốc gia thì nên có các hỗ trợ về tài chính khi có thiệt hại.
* Thứ tư: Chính phủ cần quản lý chặt chẽ các gian lận trong xuất khẩu
gạo bằng cách phối hợp các ngành có liên quan. Hiện nay, gian lận thương
mại được giấu dưới các hình thức tinh vi có sự phối hợp giữa các bên đối tác
nhằm mục đích kiếm lời. Việc hạn chế này sẽ đảm bảo chênh lệch giá gạo
xuất khẩu của Việt Nam và thế giới.
* Thứ nă
m: tích cực xúc tiến hình thành các trung tâm giao dịch và xuất
khẩu gạo để hỗ trợ cho việc điều hành xuất khẩu không theo đầu mối tạo
điều kiện nâng cao trình độ xuất khẩu gạo, là cơ sở để Nhà nước điều tiết các
hoạt động này.
Các giải pháp hoàn thiện hệ thống tổ chức trên mới chỉ bao quát được
tình hình quản lý xuất khẩu của Chính phủ ta trong giai đo
ạn mới. Thực hiện
các giải pháp trên đòi hỏi sự cố gắng nỗ lực của các ngành các cấp đồng thời
phải có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ nhằm đạt được hiệu quả tối ưu nhất.
3.2.1.2. Các giải pháp về luật pháp, chính sách
Để hướng tới một ngành gạo xuất khẩu đồng bộ, ổn định trong tương
lai gần, chúng ta cầ
n có một hệ thống luật pháp với các quy định được ban
hành cụ thể rõ ràng tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh với khả năng
cạnh tranh cao của mặt hàng. Cụ thể là:
* Thứ nhất: thủ tục hành chính trong lĩnh vực xuất nhập khẩu như xin
giấy phép xuất khẩu, các thủ tục hải quan, thuế... cần được cải cách triệt để,
tránh phiền hà sách nhiễu, tạo sự thông thoáng trong hoạ
t động và các bước
đi của các doanh nghiệp, giảm thiểu thời gian, chi phí không cần thiết và các
hiện tượng tiêu cực khác. Cần quy định rõ chức năng, quyền hạn của các cán
bộ quản lý các cấp từ Trung ương tới địa phương, nâng cao chất lượng làm
việc trong các cơ quan nhà nước, xoá bỏ tệ hách dịch, cửa quyền trong xuất
nhập khẩu, đồng thời đẩy mạnh công tác trau dồi trình độ chuyên môn và
ngoạ
i ngữ cho cán bộ công chức hành chính Nhà nước trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu cũng như đạo đức và trách nhiệm trong công việc.
* Thứ hai: hướng dẫn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới
tham gia xuất khẩu gạo tham gia ký kết các hợp đồng kinh doanh gạo, tránh
tình trạng bị giá quy định quá cao hoặc quá thấp.
79
* Thứ ba: tích cực có những chính sách hỗ trợ và khuyến khích các doanh
nghiệp xuất khẩu gạo mà hỗ trợ tín dụng xuất khẩu là biện pháp hữu ích
nhất. Hiện nay, Nhà nước đã có quy định về quy chế hỗ trợ tín dụng xuất
khẩu qua quyết định số 133/TTG của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động
cho vay vốn lưu động, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp
đồng... của
Quỹ về mặt nghiệp vụ giống như các Ngân hàng thương mại nhưng với lãi
suất cho vay là lãi suất ưu đãi (lãi cho vay vốn lưu động bằng 80% lãi suất
tín dụng đầu tư phát triển) trong thời gian 720 ngày. Gạo xuất khẩu là mặt
hàng khuyến khích xuất khẩu, đặc biệt trong trường hợp xuất sang thị trường
mới hoặc để duy trì thị trường truyền thống theo quy
định của Thủ tướng
Chính phủ. Quỹ cho vay vốn dưới hai hình thức là cho vay trước khi giao
hàng và cho vay sau khi giao hàng. Đối với cho vay trước khi giao hàng, các
doanh nghiệp được vay vốn ngắn hạn mua gạo để thực hiện hợp đồng xuất
khẩu với mức vay không quá 80% giá trị L/C hoặc không quá 70% giá trị
hợp đồng xuất khẩu. Việc cho vay sau khi giao hàng được thực hiện sau khi
đơn vị đã có hối phiếu hợp lệ với mức cho vay t
ối đa bằng 90% trị giá. Để
cho vay trước khi giao hàng, các doanh nghiệp phải có tài sản cầm cố, thế
chấp trị giá tối thiểu 30% số vốn vay. Đối với cho vay hối phiếu hợp lệ, đơn
vị phải xuất trình hối phiếu kèm theo bộ chứng từ hàng xuất. Năm 2000 vừa
qua, nghiệp vụ cho vay trước khi giao hàng đã phải chịu rủi ro khi Chính
phủ giao cho các ngân hàng cho vay dự trữ 1 triệu tấn l
ương thực, khi kiểm
tra mới thu mua có 66%, doanh nghiệp đóng ở Hà Nội, nhưng thu mua ở
khắp mọi nơi, tận đồng bằng sông Cửu Long. Chính vì vậy, trong hoạt động
năm tới cần phải quản lý đảm bảo chặt chẽ, hạn chế rủi ro ở mức độ tối đa.
Trên tổng thể, Nhà nước vẫn cần hỗ trợ để đảm bảo cho doanh nghiệp xuấ
t
khẩu gạo cạnh tranh và chiếm lĩnh được thị trường trong và ngoài nước.
* Thứ tư: Nhà nước cần hoàn thành luật thuế về kinh doanh lương thực
đảm bảo bình đẳng trong nghĩa vụ nộp thuế giữa các doanh nghiệp kinh
doanh trên thị trường phải tuân thủ, tránh trốn thuế và đầu cơ gây các cơn
sốt lương thực trên thị trường. Khi trong nước ta đã đảm bảo được an ninh
lương thự
c thì có thể cho rằng xuất khẩu càng nhiều gạo càng tốt. Chúng ta
chấp nhận giá gạo trong nước tăng lên một chút để khuyến khích sản xuất
lúa gạo, giảm bớt được phần nào chênh lệch giữa thu nhập của nông dân và
thành thị vì chi tiêu về lương thực chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong chi tiêu đời
sống hàng ngày của dân thành thị. Trong tương lai không xa, chúng ta có thể
80
bãi bỏ thuế xuất khẩu gạo vì cho dù thuế có làm tăng thu ngân sách nhưng
vẫn cản trở thương mại tự do.
* Thứ năm: Nhà nước tích cực áp dụng các quy chế thưởng xuất khẩu cho
các doanh nghiệp làm tốt công tác này nhằm mục đích động viên khuyến
khích những thành tích xuất sắc và hiệu quả cao. Căn cứ theo tiêu chuẩn của
Quy chế quản lý và sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu, các doanh nghiệ
p xuất
khẩu gạo có thể được khen thưởng theo hai tiêu chuẩn: mở rộng thị trường
xuất khẩu đã có hoặc mở thêm thị trường mới có hiệu quả với mức tăng
trưởng kim ngạch xuất khẩu năm sau so với năm trước là 20% và mức tăng
trưởng tuyệt đối từ 500.000 USD trở lên (tiêu chuẩn 5.2); mặt hàng gạo xuất
khẩu đạt chất lượng quố
c tế (tiêu chuẩn 5.3). Đây là những tiêu chuẩn khá
cao, để đạt được cần sự nỗ lực của doanh nghiệp. Trước năm 2001, khi còn
quy định về đầu mối, hạn ngạch thì gạo xuất khẩu không được xét thưởng,
nay bỏ cơ chế này thì gạo được coi như các mặt hàng khác và có thể được
xét thưởng nếu đạt những thành tích cao trong xuất khẩu. Việc tổ chức khen
thưởng hàng năm đượ
c thực hiện một cách công khai, công bằng và đúng
với những quy định tại các quyết định, quy chế đã ban hành. Việc lấy ý kiến
của công luận trên các phương tiện thông tin đại chúng phối hợp với cơ quan
hải quan của hội đồng xét thưởng khi kiểm tra hồ sơ phải đảm bảo không để
xảy ra sai sót đáng tiếc. Có những doanh nghiệp xuất khẩu gạo vẫn chưa
hiể
u đúng, thậm chí chưa biết những nội dung cơ bản trong Quy chế do việc
hướng dẫn thông tin còn chưa thật đầy đủ. Chính vì vậy, Quy chế thưởng
xuất khẩu thời gian tới vẫn cần có sự bổ sung, hoàn thiện để phát huy mạnh
mẽ hơn nữa, tác dụng động viên khuyến khích doanh nghiệp, phù hợp với cơ
chế mới về xuất nhập khẩu gạo đã có s
ự thay đổi.
Nhìn chung, Nhà nước nên nhất quán chính sách, có biện pháp khuyến
khích mọi thành phần kinh tế trong sản xuất và xuất khẩu gạo, tăng cường
khả năng cạnh tranh, khả năng thích ứng linh hoạt với thị trường gạo thế giới
của doanh nghiệp Việt Nam.
3.2.1.3. Các giải pháp về đầu tư
Cũng như tất cả các ngành nghề khác trong nền kinh tế, ngành sản xuất
và xuất khẩu g
ạo Việt Nam muốn phát triển cần có chính sách đầu tư thoả
mãn, hợp lý. Hơn nữa, gạo là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, vì vậy cần
được đầu tư xứng đáng với vị trí chiến lược của nó trong nền kinh tế hiện
nay của đất nước ta.
81
Để tăng cường đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo trong những năm
tới, Nhà nước cần tập trung đầu tư trong các lĩnh vực sau:
* Thứ nhất, đầu tư cho hệ thống cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất. Đây
là điều kiện tiên quyết để sản xuất có thể hiệu quả. Hệ thống này cần phải
được trang bị hiện đại, đồng bộ, phù hợp với môi trường môi sinh, đảm bảo
cho sức cạnh tranh của lúa gạo. Cơ sở hạ tầng cần được chú trọng nhất ở các
khâu sản xuất, chế biến bằng việc lắp đặt, sử dụng các máy móc mới, công
suất cao, cải tiến hệ thống điện nước, hệ thống cơ sở vật chất ph
ục vụ công
tác quản lý chất lượng gạo.
* Thứ hai, đầu tư phát triển nguồn nhân lực phục vụ sản xuất lúa gạo. Các
nhà khoa học, kỹ sư nông nghiệp và nông dân trực tiếp sản xuất chính là
những người quyết định sự phát triển ngành lúa gạo của nước ta nên cần có
chính sách đầu tư một cách hợp lý, đội ngũ này về cả chất lượng và số
lượng. Nhà nướ
c cũng cần hỗ trợ giáo dục đào tạo trong ngành nông nghiệp
để có được những cán bộ có trình độ, tâm huyết với nghề, đem kiến thức của
mình vận dụng trong nghiên cứu khoa học, cung cấp thường xuyên cho họ
những sách báo, tạp chí khoa học, những thông tin cập nhật về các thành tựu
khoa học mới ở trong và ngoài nước, tạo điều kiện cho họ nâng cao kiến
thức, tiếp cận v
ới nền sản xuất lúa gạo của các nước có kỹ thuật tiên tiến.
Với người nông dân, cần chuyển giao đến từng hộ những thông tin về
kỹ thuật, kinh tế, tạo điều kiện cho họ học hỏi, nâng cao dân trí. Các cấp
huyện, xã cần tổ chức giới thiệu giông lúa mới, cách gieo cấy, chăm sóc có
hiệu quả, tránh tình trạng chỉ áp dụng kinh nghiệm lâu năm trong nghề trồng
lúa mà coi nh
ẹ những ứng dụng khoa học công nghệ mới. Bên cạnh đó, Nhà
nước cần có chính sách hỗ trợ vốn cho nông dân vì để sản xuất lúa gạo xuất
khẩu có chất lượng cao cần tuân thủ quy trình kỹ thuật ngặt nghèo và tốn
kém. Hỗ trợ vốn dưới hình thức tín dụng sẽ bắt người nông dân phải hoàn lại
vốn dưới hình thức lãi suất ưu đãi nên buộc họ phải nă
ng động sáng tạo, tìm
cách để kinh doanh có hiệu quả cao để hoàn trả lại số vốn đi vay, xoá bỏ thói
quen ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước như khi hỗ trợ cho họ dưới hình thức trợ
cấp.
* Thứ ba, đầu tư vào nghiên cứu các ứng dụng khoa học công nghệ. Cũng
như tất cả các ngành khác, trong sản xuất lúa gạo, khoa học công nghệ là
lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư
để trở thành động lực mới cho sự phát triển,
trong đó cần đầu tư cho việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu về công
nghệ sinh học gắn với nghiên cứu chuyển giao để giúp nông dân tiếp cận và
82
sử dụng được những thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại về giống,
phân bón, thuốc trừ sâu... nhằm có được những sản phẩm có chất lượng cao,
sức cạnh tranh với các loại gạo của Thái Lan, Mỹ... trên thị trường thế giới.
Chúng ta cần khắc phục những khó khăn về vấn đề kinh phí cho nghiên
cứu khoa học để phát triển, tránh nguy cơ tụt hậu quá xa so v
ới các nước
khác. Nhà nước cần phát huy vai trò chỉ đạo của các cơ sở nghiên cứu chính
là các viện, các trường đại học, đồng thời huy động mọi lực lượng khác tham
gia nghiên cứu trong đó có các doanh nghiệp, nông trường... Mặt khác, Nhà
nước cần khuyến khích đầu tư xây dựng các hệ thống trang trại nghiên cứu -
thực nghiệm triển khai về giống, thuỷ nông, bảo vệ thực vật, cải tạo đất
ở
các khu vực sản xuất.
* Thứ tư, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng và các dịch vụ phục
vụ xuất khẩu gạo.
- Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng bến cảng cho xuất khẩu.
Đồng bằng sông Cửu Long là nơi cung cấp nguồn gạo chủ yếu cho xuất
khẩu của nước ta hiệ
n nay. Gạo được thu mua và xuất sang nước ngoài qua
các cảng khẩu. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng phục vụ cho xuất khẩu ở vùng này
nói riêng và cả nước nói chung có rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy, chi phí
vận chuyển gạo của nước ta bị đẩy lên cao. Dù chi phí này thường do khách
hàng trả vì giá gạo tính theo giá FOB nhưng lại bị trừ trong giá sản phẩm
nên người chịu thiệt thòi cuối cùng vẫn là các doanh nghiệp xuất khẩu. Gạo
xu
ất khẩu thường tập trung về Sài Gòn, nơi diễn ra hoạt động xuất, nhập của
rất nhiều loại hàng nên dễ dẫn đến sự ùn tắc. Vấn đề đặt ra cần tạo sự thông
suốt về vận tải, khâu cuối cùng của xuất khẩu gạo. Cảng Sài Gòn là cảng
quan trọng nhất nên cần được đầu tư, nâng cấp, cải tiến lại hệ thống kho bãi,
phương tiện bốc dỡ để đáp ứng nhu cầu vận chuyển xuất khẩu gạo đúng thời
gian và tiến độ.
Một giải pháp nữa cho sự tắc nghẽn là Chính phủ nên tập trung đầu tư,
xây dựng, cải tạo lại một số cảng ở đồng bằng sông Cửu Long theo phương
pháp dàn trải, tránh tập trung vào một cảng như hiện nay. Cần có những sửa
chữa, nâng cấp để biến một số cảng như Long An, Mỹ Tho, Cần Thơ... thành
những cảng có chất lượng tốt, có thể là cảng chuyên dùng cho xuất khẩu.
Đặc biệt là cảng Cần Thơ, một cảng khẩu có vị trí chiến lược, nếu được đầu
tư xây dựng sẽ tác động tích cực đến sản xuất lúa gạo đồng bằng sông Cưu
Long, đẩy nhanh tiến độ
CNH - HĐH khu vực này, tạo sự lưu thông lúa gạo
thuận tiện cho vùng sản xuất lúa và cho xuất khẩu, đồng thời chi phí vận
83
chuyển từ đồng bằng lên cảng Sài Gòn sẽ giảm đáng kể. Ngoài ra, cần nâng
cấp các cảng khẩu ở khu vực miền Bắc nhằm phục vụ cho gạo xuất khẩu ở
đồng bằng sông Hồng, tránh tình trạng phụ thuộc quá nhiều vào khu vực
phía Nam.
Song song với các cầu cảng, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần ký kết
hợp đồng với các cơ quan của bộ giao thông vận t
ải, bảo đảm đúng tiến độ
vận chuyển từ nơi sản xuất, dự trữ và xuất khẩu.
- Phát triển dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải phục vụ xuất khẩu gạo.
Hiện tại, giá gạo bán của ta cho các nhà nhập khẩu là giá FOB, tạo cho
chúng ta tâm lý an toàn khi xuất khẩu, tránh những rủi ro có thể xảy ra trên
đường vận chuyển. Tuy nhiên chúng ta không phát triển được độ
i hàng hải
và bảo hiểm, giá lại cao so với CIF. Vì vậy cần đưa ra giải pháp đẩy mạnh
dịch vụ bảo hiểm và vận tải hàng hải bằng cách liên doanh với các hãng bảo
hiểm danh tiếng quốc tế tạo tâm lý yên tâm, tín nhiệm với khách hàng, phát
triển khả năng vận tải hàng hải. Mục tiêu của Chính phủ đến năm 2010 là
xây dựng một đội tàu quốc gia đủ sức chở 99% khối lượ
ng hàng nội địa,
40% khối lượng hàng nhập khẩu và tham gia chở thuê cho nước ngoài. Với
những thế mạnh trên, nhà xuất khẩu gạo của Việt Nam có thể chào hàng
theo giá CIF và thu được lợi nhuận từ những dịch vụ bảo hiểm, hàng hải
đồng thời tạo điều kiện phát triển ngành nghề, giải quyết công ăn việc làm
cho nhân công trong ngành trên.
3.2.1.4. Các giải pháp về thị trường
Thứ nhất: nghiên c
ứu và xây dựng thị trường.
Thị trường là yếu tố quyết định đầu ra của sản phẩm. Nghiên cứu thị
trường là nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam. Công tác
nghiên cứu thị trường cần được tổ chức tập trung, khách quan và khoa học.
Vì vậy, chúng ta có thể hiểu biết về các đặc tính, thói quen tiêu dùng, thị
hiếu của các khu vực thị trường cũng như nắm b
ắt thông tin về các biến
động trên thị trường, đồng thời cho phép đánh giá tiềm năng và quy mô thị
trường. Từ đó thực hiện xâm nhập và thích ứng với thị trường, tạo thế cạnh
tranh để mở rộng thị phần của mình.
Để nghiên cứu thị trường gạo - mặt hàng có thị hiếu tiêu dùng đa dạng-
Nhà nước cần hình thành các trung tâm chuyên trách cho ngành gạo để khai
thác, cung cấp thông tin về giá cả thị
trường, tình hình hoạt động của các
thành viên trong và ngoài nước, phổ biến kịp thời các chính sách mới của