Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,375
934
105
64
Trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, mặt hàng gạo của
Việt Nam đang vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt của các nước xuất khẩu
khác. Nói đến cạnh tranh là phải nói đến vấn đề chất lượng, mẫu mã, vệ
sinh, giá cả... Trong những vấn đề này, điều dễ được người nhập khẩu quan
tâm nhất là giá cả. Trên thị trường người mua thường so sánh giá c
ả mặt
hàng cùng loại để đi đến quyết định mua hay không. Như vậy, giá cả là nội
dung đầu tiên mà các doanh nghiệp phải quan tâm. Một mặt hàng được coi
là có khả năng cạnh tranh nếu như giá trong nước không lớn hơn trong nền
kinh tế cạnh tranh. Cụ thể là mặt hàng gạo có khả năng cạnh tranh khi giá
gạo tiêu thụ không lớn hơn giá của gạo cùng loại trên thị trường thế giới.
Lợ
i thế cạnh tranh của gạo có thể đo bằng hệ số chi phí nguồn lực nội
địa (DRC), là tỷ lệ giữa các chi phí nguồn lực trong nước và các yếu tố đầu
vào trung gian bất khả thương (tính bằng giá mờ) cho việc sản xuất trong
một sản phẩm nhất định so với ngoại tệ ròng thu được do sản xuất lúa gạo
trong nước.
Qua phân tích tình hình xuất khẩu gạo trong thời gian gần
đây, ta có
được sơ đồ nói lên sự biến động hệ số chi phí nguồn lực nội địa (DRC) của
gạo như sau:
Nă
m 1
995
1
996
1
997
1
998
1
999
DR
C
0,500
0,
4
7
4
0,500
0,
4
00
0,500
Trong tất cả các năm phân tích, DRC đều nhỏ hơn 1 và tương đối ổn
định chứng tỏ nền kinh tế nước ta đã tiết kiệm được ngoại tệ thông qua sản
xuất gạo ở trên cả hai mặt trận: xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Điều đó
cũng nói lên chi phí cơ hội của các tài nguyên trong nước và các yếu tố sản
xuất khác được sử dụng để tạ
o ra mặt hàng gạo nhỏ hơn so với ngoại tệ thu
được. Hệ số chi phí nguồn lực nội địa không phát huy tối đa hiệu quả vì tính
cạnh tranh của gạo Việt Nam vẫn không cao so với các quốc gia xuất khẩu
gạo khác.
Nói chung, Việt Nam có khá nhiều lợi thế cơ bản trong sản xuất và xuất
khẩu lúa gạo. Tuy nhiên, để biến những điểm mạnh này thành sức cạnh tranh
củ
a gạo Việt Nam trên thị trường thế giới cần rất nhiều sự cố gắng, nỗ lực
của tất cả các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất khẩu gạo ở nước
ta.
2.3.2. W - Điểm yếu
65
2.3.2.1. Cơ chế, chính sách
Cơ chế hiện hành dù đã được chỉnh sửa và có nhiều tiến bộ nhiều năm
qua song nhìn chung vẫn tồn tại những hạn chế, phần nào làm giảm khả
năng xuất khẩu gạo Việt Nam được biểu hiện cụ thể trên các mặt sau:
* Thứ nhất: việc duy trì đầu mối xuất khẩu trước năm 2001 nhiều khi
làm lỡ mất thời cơ
xuất khẩu, nhất là khi tham gia đấu thầu các hợp đồng
mua gạo của các đối tác nước ngoài. Chỉ những đầu mối mà Chính phủ chỉ
định mới được tham gia đấu thầu cung cấp gạo. Điều kiện đó không tạo xu
hướng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, dễ dẫn đến các tiêu cực trong công
tác quản lý. Năm 1998-1999, nhiều đầu mối do Chính phủ chỉ định tham gia
đấu thầu đã thấ
t bại, gây tổn thất đáng kể cho tổng kim ngạch xuất khẩu gạo
của Việt Nam.
Việc Chính phủ Việt Nam xác định đầu mối và phân bổ hạn ngạch chỉ
dựa vào tỷ lệ và khối lượng gạo xuất khẩu năm trước của các đơn vị mà
không phân biệt lượng xuất khẩu uỷ thác so với lượng xuất khẩu thực sự của
các đơ
n vị đó là bao nhiêu, nên vẫn còn hiện tượng một số đầu mối bán
quota và xuất khẩu uỷ thác để được hưởng một tỷ lệ xuất khẩu nhất định trên
giá trị kim ngạch xuất khẩu gạo, phát sinh nhiều tiêu cực trong việc mua bán
quota. Hơn nữa, các doanh nghiệp rơi vào thế bị động trong việc ký kết và
thực hiện hợp đồng xuất khẩu gạo khi Chính phủ phân bổ h
ạn ngạch trọn gói
cả năm nên sẽ không dự đoán được tương đối chính xác sản lượng gạo xuất
khẩu. Hậu quả là những lúc giá gạo trên thị trường thế giới tăng mạnh thì
lượng xuất của ta không tăng hoặc tăng không đáng kể, ngược lại khi giá
giảm thì chúng ta lại tăng lượng xuất. Tuy nhiên đến năm 2001, khi Chính
phủ bỏ hạn hạn ngạch và
đầu mối xuất khẩu gạo lại gây tâm lý lo lắng cho
các doanh nghiệp do băn khoăn không biết cơ chế điều hành mới có thuận
lợi hay lại ngăn trở, gây khó khăn dưới hình thức khác.
* Thứ hai, cơ chế được quy định chỉ có hiệu lực trong thời hạn một
năm, do đó doanh nghiệp luôn ở trong thế bị động, thiếu ổn định, không
muốn đầu tư dài h
ạn.
* Thứ ba, cơ chế quy định đòi hỏi Chính phủ phải theo dõi sít sao hoạt
động của các doanh nghiệp, làm mất khả năng chủ động của các doanh
nghiệp trong việc giải quyết các vấn đề, vụ việc trong kinh doanh, dễ lỡ thời
cơ ký kết các hợp đồng có lợi nhuận lớn. Bên cạnh đó, Chính phủ cũng phải
ra quyết định với quy mô nhỏ làm mất thời gian và công sứ
c của nhân viên
các cấp.
Từ năm 2001, Chính phủ thực hiện bỏ đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu
gạo. Để thực hiện điều này, các cơ quan chức năng gồm Bộ Thương mại, Bộ
66
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn... phải xây dựng một cơ chế mới về
điều hành xuất khẩu gạo trình Chính phủ. Cơ chế điều hành phải giải quyết
được mục tiêu: nông dân có lợi, doanh nghiệp xuất khẩu có hiệu quả, bình
ổn giá lương thực và giữ an ninh lương thực quốc gia.
Khi bỏ đầu mối xuất khẩu, nhiều doanh nghiệp trước kia không xuất
khẩu gạo sẽ tham gia vào ho
ạt động này. Hơn nữa, gạo luôn là mặt hàng chủ
lực của Việt Nam, khi số doanh nghiệp tăng lên sẽ tạo tình trạng tranh mua,
bán, làm giảm hiệu quả xuất khẩu gạo nhưng cũng sẽ tăng sức cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp, tránh tình trạng độc quyền xuất khẩu của các đầu
mối như tình trạng trước đây.
2.3.2.2. Quản lý giá cả
Tuy đã áp dụng cơ chế
và chính sách mới và có nhiều chấn chỉnh để
thích ứng với tình hình hiện tại của nền kinh tế. Song trên thực tế, hệ thống
tổ chức của ta vẫn còn nhiều hạn chế trong công tác quản lý giá cả. Giá mua
lúa gạo nội địa do Ban vật giá Chính phủ hướng dẫn bằng cách căn cứ vào
giá thành sản xuất để quy định giá sàn và giá trần sao cho đảm bảo được
quyền lợi của nông dân, còn giá xuất khẩ
u gạo do Bộ Thương mại căn cứ
vào diễn biến, tình hình thị trường thế giới để đưa ra khung giá tối thiểu cho
từng mặt hàng và khống chế hợp đồng xuất khẩu gạo của các doanh nghiệp
đã đạt được mức giá tối thiểu này trở nên thì mới được cấp giấy phép xuất
khẩu. Do sự không thống nhất với nhau trong quy định vế giá như trên
thường d
ẫn đến việc giá gạo của Việt Nam không thích ứng được với giá
trên thị trường quốc tế làm phát sinh giá cả nội địa cao hơn mặt bằng giá gạo
quốc tế. Hơn thế, khung giá quy định của các cơ quan Chính phủ thường
cứng nhắc, thiếu độ nhạy bén với biến động trên thị trường, gây khó khăn
không ít cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Bộ Thương mại
ban hành giá chậm thay
đổi nên các doanh nghiệp không thể ký hợp đồng vì
không được cấp giấy phép khi giá thị trường thấp hơn khung giá quy định.
Ngược lại, khi giá thị trường cao hơn khung giá quy định dẫn đến tình trạng
các doanh nghiệp tự ý hạ thấp miễn là vẫn đảm bảo cao hơn giá Nhà nước
nhằm bán được cho nhà nhập khẩu số lượng lớn gạo làm giảm hiệu quả xuất
khẩu chung. Chính từ sự yếu kém c
ủa các doanh nghiệp và khâu quản lý giá
dẫn đến việc khách hàng nước ngoài lợi dụng, ép giá nhằm có lợi tối đa cho
họ. Khi trên thị trường thế giới giá có xu hướng giảm thì họ tìm cách trì
hoãn việc nhận hàng, cam kết thanh toán, gây tâm lý lo lắng cho các nhà
xuất khẩu nước ta, sau đó mới đề nghị đàm phán lại điều khoản giá cả của
67
hợp đồng và mới đồng ý đi nhận hàng. Ngược lại, khi xu hướng giá trên thị
trường thế giới tăng lên thì họ ép ta phải ký kết hợp đồng và giao hàng ngay
nhằm đạt được lợi nhuận cao nhất, gây thiệt hại cho các nhà xuất khẩu gạo
Việt Nam.
2.3.2.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng của các cảng khẩu
Gần như phần lớn số lượng gạo xuấ
t khẩu của Việt Nam giao tại cảng
Sài Gòn - thành phố Hồ Chí Minh (70%), có xuất xứ từ đồng bằng sông Cửu
Long. Tuy nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ các khâu chuyên chở, kho tàng bảo
quản, thiết bị bốc xếp còn nhiều yếu kém và đang trở thành đáng quan tâm.
Hơn nữa, cảng Sài Gòn luôn bị tắc nghẽn, và số lượng gạo xuất khẩu được
xuất cảng lại chịu trách nhiệ
m về phí vận chuyển gạo rất cao trên mức đề
xuất. Quốc lộ 1A đoạn thành phố Hồ Chí Minh đến Cần Thơ tuy đã được
hoàn thành về cơ bản việc nâng cấp nhưng chưa đủ rộng để cho phép hàng
đoàn xe tải nặng đi lại thường xuyên. Cảng Cần Thơ ở giữa khu vực đồng
bằng sông Cửu Long - khu vực dư thừa gạo chính củ
a cả nước - đang nhanh
chóng mở rộng các hoạt động nhưng vẫn bị hạn chế nghiêm trọng bởi thiếu
đầu tư để nâng cấp giao thông đường thuỷ. Cảng này có năng lực bốc xếp
theo thiết kế là một triệu tấn/năm. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, trong 3
năm trở lại đây, công suất bốc xếp hàng năm của Cảng chỉ khoảng 40.000
tấn/năm. Cảng ch
ưa đủ điều kiện để đón và phục vụ tàu viễn dương có trọng
tải trên 10.000 tấn, mặc dù cảng chỉ cách cửa biển 20km.
Cơ sở hạ tầng yếu kém không phải là cản trở duy nhất. Giá vận chuyển
cao ở Việt Nam gắn liền với sự chậm trễ trong quá trình chất và vận chuyển
hàng chậm dọc theo các kênh nối giữa cảng Sài Gòn với phía Nam biển
Trung Qu
ốc phần nào giải thích sự giảm giá hơn nữa của gạo Việt Nam trên
thị trường quốc tế. Mặc dù những chi phí này do các nhà nhập khẩu gạo trả
vì hầu hết xuất khẩu gạo nước ta tính theo giá FOB nhưng chi phí này được
tính vào giá bán của gạo xuất khẩu. Điều này giải thích thực tế rằng giá FOB
của gạo Việt Nam thấp từ 13-15% so với các đối thủ cạnh tranh khác như
Thái Lan.
2.3.2.4. Về phía các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo
Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu lúa gạo Việt Nam cũng tồn tại
nhiều điểm yếu thể hiện trên các mặt sau:
* Thứ nhất, bộ máy quản lý của phần lớn các doanh nghiệp chưa đồng
bộ, chưa có sự thống nhất với nhau về cách làm việc. Công tác quản lý còn
nhiều yếu kém, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữ
a các phòng ban, đặc biệt
68
trong các doanh nghiệp Nhà nước còn hiện tượng chỉ làm cho đủ số giờ mà
không đảm bảo hiệu quả công việc. Đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập
khẩu ở một số nơi còn yếu kém về trình độ, năng lực, bề dày kinh nghiệm
nên hiệu quả không cao. Nhiều doanh nghiệp có thói quen ỷ lại, không tích
cực tìm kiếm bạn hàng, nguồn hàng mà coi Chính phủ là một tác nhân quan
trọng đến hiệu quả kinh doanh của họ
nên nỗ lực để có càng nhiều ưu tiên,
giấy phép, hạn ngạch trợ cấp và bảo hộ xuất khẩu.
* Thứ hai, các doanh nghiệp trong cả hai lĩnh vực tư nhân và Nhà nước
đều bị hạn chế nghiêm trọng trong việc tiếp cận nguồn vốn cần thiết để tiến
hành các hoạt động mua bán, tích trữ tài chính và cấp vốn đầu tư cho sản
xuất. Theo tính toán, yêu cầu về vốn ở th
ời điểm cao nhất bằng khoảng 5 lần
mức vốn nhận được của các doanh nghiệp Nhà nước và 10 lần so với các
doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù trong các năm vừa qua, các thiết bị vận
chuyển và chế biến đã được đầu tư một cách đáng kể nhưng không đáp ứng
hết nhu cầu. Do đó, cần phải nâng cao vốn phát hành hiện tại và bổ sung vốn
đầu tư
vào cơ sở vật chất (máy móc, nhà máy và các phương tiện vận
chuyển) cũng như nguồn vốn nhân lực có qua đào tạo, tiếp thị quản lý chất
lượng và tài chính vì với lượng vốn hạn hẹp, các doanh nghiệp không thể
cấp tín dụng thương mại cho khách hàng cũng như không có khả năng mua
dự trữ nên không thể chủ động kỳ hạn bán ra theo hướng thị trường có lợi,
bỏ lỡ
nhiều cơ hội, ảnh hưởng đến khả năng thực hiện hợp đồng của các
doanh nghiệp.
Sự tồn tại nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp cũng không có nghĩa là
Chính phủ phải bao cấp các doanh nghiệp toàn bộ nguồn vốn đầu tư mà tạo
điều kiện để tiếp thị tín dụng, cung cấp môi trường cho công việc này và cho
phép các thành viên trong các doanh nghiệp đóng góp đầu tư c
ủa họ về dự
trữ, chế biến và vận chuyển lúa gạo.
Tất cả những điểm yếu trên đã và đang làm giảm thế mạnh trong
thương mại quốc tế và khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trước những
biến động gay gắt trên thị trường thế giới.
2.3.3. O - Cơ hội và T - Thách thức
Trong những năm vừa qua, Việt Nam đ
ã thực hiện chính sách mở cửa
nền kinh tế và bước đầu đã hoà nhập được với nền kinh tế thế giới. Sau một
loạt những sự kiện quan trọng trong hợp tác phát triển như bình thường hoá
quan hệ với Mỹ, gia nhập ASEAN, ký kết hiệp định thương mại Việt- Mỹ…
và sắp tới sẽ gia nhập Tổ chức kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC),
Tổ chức thươ
ng mại thế giới (WTO), chúng ta sẽ có những cơ hội để phát
triển thị trường, đưa sản phẩm của ta sánh ngang với các nước khác về chất
lượng và đẩy mạnh nền kinh tế... Vì quy mô nhỏ, đề tài chỉ xin đề cập đến
cơ hội của gạo xuất khẩu Việt Nam khi Hiệp định Việt - Mỹ đi vào thực thi
69
và khi chúng ta chính thức tham gia vào khu vực tự do thương mại ASEAN
(AFTA) vào năm 2003.
2.3.3.1. Hiệp định Việt - Mỹ
Khi thực hiện Hiệp định Thương mại, Mỹ sẽ áp dụng thuế suất phù hợp
với quy định của WTO (ước tính thuế nhập khẩu trung bình của hàng hoá
Việt Nam vào Mỹ sẽ giảm từ 40% xuống còn 4%), loại bỏ các hàng rào phi
thuế quan, các hạn chế định lượng và mở đường cho gạo Vi
ệt Nam thâm
nhập và cạnh tranh bình đẳng trên thị trường Mỹ. Hiệp định Thương mại
Việt Mỹ không những thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam vào một
trong những thị trường lớn nhất thế giới, mà còn tạo thêm động lực cho tăng
trưởng kinh tế của Việt Nam.
Thị trường Mỹ là một trong những thị trường tiêu thụ nông sản nhiều
nhất trên thế
giới, có tính đa dạng và tiềm năng rất lớn. Nhập khẩu nông
nghiệp của Mỹ hàng năm lên tới 38 tỷ USD. Tuy nhiên, so với các thị trường
có mức thu nhập và tiêu dùng bình quân đầu người tương đương như Mỹ và
Nhật Bản thì xuất khẩu gạo của Việt Nam vào thị trường Mỹ còn chiếm tỷ lệ
khiêm tốn. Vì thuế nhập khẩu trung bình đối với các mặt hàng gạo của các
thị trường này cao hơn rất nhiều so với Mỹ, nên khi Hiệp định Thương mại
được thi hành thì xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Mỹ sẽ có cơ hội
tăng đáng kể. Giá trị xuất khẩu gạo trên đầu người của Việt Nam vẫn còn
thấp so với Thái Lan và khả năng sản xuất vẫn còn mạnh, do đó tiềm năng
xuất khẩu gạo củ
a Việt Nam vào thị trường Mỹ còn rất lớn.
* Cơ hội
Tác động của hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đến xuất khẩu gạo của
Việt Nam có thể thông qua các hướng sau:
- Thứ nhất, việc giảm hàng rào thuế quan và tiến tới loại bỏ các hàng
rào phi thuế quan của cả Mỹ và Việt Nam sẽ tạo điều kiện cho gạo tiếp cận
thị trường dễ dàng hơn và do đó sẽ thúc đẩy thương mại hai chiề
u.
- Thứ hai, khả năng tiếp cận thị trường Mỹ dễ dàng hơn, cùng với
những điều kiện ưu đãi về đầu tư vào sản xuất gạo sẽ làm tăng đầu tư của
Mỹ và các nước khác vào ngành này của Việt Nam để xuất khẩu sang thị
trường Mỹ.
- Thứ ba, Hiệp định Thương mại sẽ tạo điều kiệ
n cho xuất khẩu gạo
Việt Nam phát triển hơn nữa theo chiến lược mới: tăng khả năng cạnh tranh
của gạo Việt Nam, hình thành nền sản xuất hành hoá mạnh, giúp cho gạo
Việt Nam thay đổi cơ cấu theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong thương
mại quốc tế (trước hết là đối với Mỹ), tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế trong và ngoài nước tham gia rộng rãi hơn vào các hoạ
t động sản xuất,
kinh doanh cũng như xuất khẩu gạo.
* Thách thức
70
Bên cạnh những lợi ích tạo ra, việc thực thi Hiệp định Việt - Mỹ cũng
đem lại những thách thức lớn đối với Việt Nam. Các doanh nghiệp xuất
khẩu gạo trước đây được hưởng lợi từ sự bảo hộ của một nền kinh tế đóng
thì nay sẽ gặp nhiều khó khăn. Những thách thức mà các doanh nghiệp Việt
Nam phải đối mặt gồ
m có:
- Thứ nhất, Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ sẽ mở cửa cho gạo của
Mỹ vào thị trường Việt Nam. Đây không phải là lo lắng hàng đầu vì khả
năng tiêu dùng gạo Mỹ sẽ không nhiều, do giá cao và chỉ phù hợp với một
bộ phận nhỏ dân cư cu trú tại các đô thị lớn. Tuy nhiên, số lượng các doanh
nghiệp Mỹ và các nước khác đầu tư vào thị trườ
ng Việt Nam sẽ tăng lên
nhằm xuất khẩu gạo sang thị trường Mỹ hay khai thác thị trường nội địa, do
đó sẽ gây áp lực tới các doanh nghiệp sản xuất lúa gạo trong nước. Nhà nước
ta đã cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư xuất khẩu gạo nên các doanh
nghiệp của Mỹ cũng có thể tham gia. Nếu không có những chuẩn bị cần thiết
thì các doanh nghiệp trong nước đặc biệt là các doanh nghiệp qu
ốc doanh sẽ
gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh.
- Thứ hai, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo sẽ phải đối mặt với sự canh
tranh của các đối thủ trên thị trường Mỹ. Chúng ta đã biết rằng Mỹ là một
nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới nên khi gạo Việt Nam thâm nhập vào
Mỹ sẽ vấp phải những rào cản về số lượng và ch
ất lượng gạo của Mỹ. Hơn
thế nữa, mặc dù các doanh nghiệp Việt Nam sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với thị
trường Mỹ so với trước đây nhưng lại có sự cạnh tranh gay gắt từ các nước
xuất khẩu gạo truyền thống như Thái Lan, nước đã có chỗ đứng trên thị
trường Mỹ từ lâu hoặc Trung Quốc, quốc gia đã ký Hiệ
p định với Mỹ năm
1999 và vừa gia nhập WTO cũng sẽ là thách thức đối với các doanh nghiệp
Việt Nam.
- Thứ ba, muốn xuất khẩu gạo Việt Nam sang Mỹ, các doanh nghiệp
phải tìm hiểu những quy định về thương mại và hải quan vốn rất phức tạp
của Mỹ. Luật pháp Mỹ quy định tất cả mọi vấn đề có liên quan đến việc
nhập khẩu hàng hoá t
ừ nước ngoài vào đều thuộc thẩm quyền của Chính
phủ liên bang. Bộ Thương mại, văn phòng đại diện thương mại, uỷ ban
thương mại quốc tế và cụ thể nhất là Hải quan Mỹ là những cơ quan có
trách nhiệm đối với vấn đề này. Ngoài các thủ tục hải quan còn có các quy
định thương mại liên quan đến luật như chống độc quyền, chống bán phá
giá trách nhiệm sản phẩ
m, thương mại thống nhất...
2.3.3.2. Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA)
Tham gia khu vực tự do thương mại ASEAN là bước khởi động đầu
tiên, có ý nghĩa đối với quyết định đối với quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp
Việt Nam nói riêng. Theo lộ trình gia nhập AFTA thì từ nay đến năm 2006,
71
Việt Nam phải từng bước cắt giảm thuế xuống đối với các mặt hàng. Khi đó
sự bảo hộ thuế quan và phi thuế quan đối với hàng hoá sản xuất trong nước
sẽ không còn tác dụng, câu hỏi đặt ra là liệu gạo Việt Nam có thể cạnh tranh
với gạo các nước khác tại thị trường trong nước lẫn thị trường ASEAN được
không?
Đối với sản xuất và xuất khẩu g
ạo, ảnh hưởng lớn nhất trong bối cảnh
quốc tế hiện nay sẽ là quá trình tự do hoá thương mại trong khuôn khổ
AFTA của Việt Nam và tác động của cắt giảm thuế quan, phi thuế quan tới
khả năng cạnh tranh của ngành gạo xuất khẩu. Sự tăng trưởng sản xuất và
xuất khẩu gạo Việt Nam trong những năm qua cho thấy thế mạnh và tiềm
năng có thể tham gia vào th
ị trường thế giới và khu vực các nước ASEAN,
kể cả các trong các điều kiện thương mại quốc tế có sự tự do hoá. Vì gạo là
một mặt hàng thiết yếu đối với nhu cầu tiêu dùng, đặc biệt là các nước trong
khu vực, các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu gạo của Việt Nam không
nhiều, chủ yếu là Thái Lan và một số nước xuất khẩu tiềm năng có tác động
tích c
ực đến ngành sản xuất lúa gạo và ngành công nghiệp xay xát của nước
ta.
Khi Việt Nam thực hiện AFTA, thuế nhập khẩu hàng hoá vào nước ta
sẽ giảm xuống đáng kể (5%). Trong trường hợp thương mại hoá hoàn toàn,
gạo Thái Lan nhập khẩu vào Việt Nam có thuế xuất bằng 0%. Tuy vậy, gạo
Thái Lan cũng không có khả năng chiếm lĩnh phần lớn thị trường của Việt
Nam do:
* Thứ nhất, gạo Thái Lan là m
ặt hàng có chất lượng cao nên giá cao.
Khi xâm nhập vào Việt Nam, gạo Thái Lan chỉ có thể tiêu thụ ở những khu
vực có mức sống và thu nhập của người dân cao như ở các đô thị, khách sạn,
nhà hàng... Hiện nay trong các siêu thị Việt Nam đã có bán nhiều gạo Thái
Lan song doanh số không cao do người dân thành thị vẫn chưa tiêu dùng loại
gạo mới này. Ở các khu vực nông thôn, nơi có mức thu nhập thấp, giá gạo
cao không phù hợp với khả năng và nhu cầ
u của người dân. Khu vực này
chiếm tới 80% dân số của cả nước nên khả năng gạo Thái Lan chiếm lĩnh thị
trường là gần như khó có thể xảy ra. Nhìn chung, kể cả khi vào AFTA, Việt
Nam vẫn có lợi thế so sánh về sản xuất gạo hơn so với Thái Lan.
* Thứ hai, như đã đề cập, những năm gần đây, sản lượng lương thực
đặc biệt là lúa gạo c
ủa Việt Nam tăng dù bị ảnh hưởng của thiên tai, đặc biệt
là bão lũ ở hai vùng đồng bằng sản xuất lúa chính. Khi vào thị trường Việt
Nam, gạo Thái Lan chỉ có thể phát huy lợi thế một cách tối đa trong trường
hợp cung gạo Việt Nam không đủ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước.
Tuy nhiên, khả năng thiếu lương thực trong những năm tới là không thể xảy
ra, vì sản xuất lúa được
đảm bảo, diễn ra trên địa bàn khá rộng, nếu có mất
mùa cũng chỉ là cục bộ, không ảnh hưởng lớn đến thu hoạch của cả nước.
72
Bên cạnh đó, tính bền vững trong sản xuất lúa rất cao khi chúng ta đã đảm
bảo được an toàn lương thực một cách vững chắc.
* Thứ ba, tác động trong ngân sách. Trong những năm tới khi tham gia
vào AFTA, chúng ta sẽ nhập khẩu gạo chất lượng từ Thái Lan để phục vụ
nhu cầu gạo của các tầng lớp dân cư có mức sống cao. Vì khối lượng nhập
loại gạo này sẽ không nhiều do đặc tính tiêu dùng củ
a người dân Việt Nam
nên việc cắt giảm thuế sẽ không ảnh hưởng đến nguồn thu ngân sách. Hiện
nay, chúng ta đang tiến hành đặt lịch trình giảm thuế khẩn trương đã chuẩn
bị cho các bước thực hiện AFTA.
Qua các nguyên nhân trên, có thể khẳng định lịch trình cắt giảm thuế
quan nhập khẩu đối với mặt hàng gạo Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị
trường khu vực ASEAN. Quá trình thực hiện AFTA s
ẽ giúp Việt Nam hạn
chế được sự bảo hộ gạo ở các nước nhập khẩu gạo Việt Nam như Inđônêxia,
Philippin, Malaixia. Việt Nam có thể cạnh tranh với Thái Lan trên thị trường
này do yếu tố giá thấp hơn và chất lượng gạo đang dần được cải tiến. Mặt
khác, chúng ta đang áp dụng một cơ chế khuyến khích bảo hộ xuất khẩu, hạ
thuế su
ất xuống 0% khi giá quốc tế giảm để các doanh nghiệp duy trì xuất
khẩu, lúc bình thường để 1% và khi giá gạo trên thị trường thế giới tăng
mạnh thì thuế suất được điều chỉnh lên 3% để vừa tăng thu ngân sách quốc
gia và hạn chế việc xuất khẩu quá mức có thể làm ảnh hưởng xấu đến tình
hình cân đối lúa gạo trong nước. Việc giảm miễn thuế cũng được áp dụ
ng
cho từng nhóm hàng, như đầu năm 1996 thuế suất xuất khẩu gạo là 3%, đến
giữa năm do gạo cấp thấp chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu nguồn hàng và có
nguy cơ bị ứ đọng nhiều nên Chính phủ đã miễn hoàn toàn thuế suất với loại
gạo 25% tấm trở lên trong khi vẫn giữ mức thuế suất 1% đối với loại gạo 5-
20% tấm.
Những nh
ận định trên cho thấy, việc dỡ bỏ hàng rào thuế quan là cơ hội
tốt cho sản xuất lúa gạo Việt Nam tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường.
Chính vì vậy, ta có thể khẳng định việc Việt Nam thực hiện AFTA nói
chung và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế như APEC, WTO trong thời
gian tới là những cơ hội lớn đối với việc phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu
gạo Vi
ệt Nam. Chúng ta phải tận dụng những thuận lợi khách quan từ bên
ngoài, phát huy tối đa nội lực quốc gia để tạo đà cho ngành sản xuất và xuất
khẩu gạo ngày càng có những kết quả to lớn hơn nữa.
73
CHƯƠNG 3. CHIẾN LƯỢC ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO.
3.1. Định hướng và mục tiêu của sản xuất và xuất khẩu gạo.
3.1.1. Mục tiêu và định hướng sản xuất lúa gạo.
3.1.1.1. Mục tiêu
Sản xuất lương thực nói chung và sản xuất lúa gạo nói riêng luôn là
ngành quan trọng bậc nhất của nông nghiệp nhằm thực hiện ba mục tiêu cơ
bản mà Đảng và Chính phủ đã vạch ra:
* Thứ nhất: Bảo đảm vững chắc và an toàn lương thực quốc gia, t
ăng
thêm khối lượng dự trữ, thoả mãn nhu cầu lương thực cho tiêu dùng trong
bất cứ tình huống nào.
* Thứ hai: Bảo đảm đủ nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
* Thứ ba: Tăng khối lượng xuất khẩu với hiệu quả cao.
Ba mục tiêu trên khẳng định sự cần thiết của ngành sản xuất lúa gạo là
phải bảo đảm an ninh lương thực, vấn đề có tính quan trọng hàng đầ
u đối
với sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia, đặc biệt với một nước nông
nghiệp như Việt Nam. Nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu
cũng là mục tiêu hướng tới, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta có
thể khẳng định rằng đã và đang thực hiện tốt vấn đề an toàn lương thực trên
phạm vi toàn quốc.
Phát triển ngành s
ản xuất lúa gạo thường liên quan tới nhiều thành phần
khác như nghiên cứu, triển khai, các yếu tố sản xuất (hệ sinh thái, luật pháp,
nhân công, vị trí địa lý, các yếu tố đầu vào và tài chính) và các yếu tố để
thương mại hóa sản phẩm (thị trường tiêu thụ, hệ thống kho chứa, các
phương tiện vận chuyển...). Những thay đổi lớn của Việt Nam trong những
năm gần đây đã có tác
động trực tiếp tới sản xuất lúa của cả hai vùng đồng
bằng sông Hồng và sông Cửu Long được thể hiện trên 3 khía cạnh sau:
* Một là quá trình tự do hoá kinh tế đang tiến triển và ngày càng sâu
sắc của nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay gần như không còn những kiểm soát
chặt chẽ của Nhà nước vì giá gạo sản xuất và các yếu tố đầu vào. Trên thị
trường gạo, việc cân hàng và chuyển gạo t
ừ vùng thừa gạo sang các khu vực
thiếu hụt cũng không gặp nhiều vướng mắc đáng kể. Năm 2001, Chính phủ
bỏ đầu mối xuất khẩu và hạn ngạch càng thể hiện việc giảm nhẹ những kiểm
soát gắt gao quá trình tự do thương mại, tạo thế chủ động cho các nhà xuất
khẩu.