Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,435
934
105
44
Nhìn chung, tính chu kỳ của giá lúa gạo và lượng xuất khẩu hàng tháng
có mối quan hệ tương quan chặt chẽ với nhau. Giá xuất khẩu tăng sau khi
lượng xuất khẩu biến động hoặc giá xuất khẩu giảm trước, sau đó lượng xuất
khẩu giảm theo. Thông thường khi tồn kho trong nước giảm xuống thấp thì
áp lực phải xuất khẩu gạo giảm. Lúc đó giá trong nước lên cao, các nhà xuất
khẩu không muốn bán ra thị
trường bên ngoài tạo sự mất cân bằng giữa
cung-cầu gạo xuất khẩu, ảnh hưởng tới uy tín trong kinh doanh của gạo Việt
Nam.
Khả năng thanh toán của các nước nhập khẩu và ảnh hưởng của thị
trường lương thực thế giới
Việt Nam thường xuất khẩu gạo sang các nước đang phát triển ở châu
Á và châu Phi. Khả năng thanh toán bằng ngoại tệ của nhữ
ng nước này
thường bị hạn chế nhất là khi có những khó khăn về kinh tế như khủng
hoảng tiền tệ năm 1997, lạm phát... Tình hình đó ảnh hưởng trực tiếp đến
biên độ cung cầu về gạo. Giá các loại gạo phẩm cấp trung bình, có tỷ lệ tấm
cao thường bị ảnh hưởng.
2.2.2.4. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây
K
ết quả xuất khẩu gạo của chúng ta so với những năm đầu thập kỷ 90
thật đáng tự hào. Tuy nhiên vấn đề bất cập nhất đối với các nhà xuất khẩu
gạo Việt Nam vẫn là giá gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việt Nam thường xuất khẩu gạo theo điều kiện FOB là chính. Chúng ta
ít có các kênh trực tiếp xuất khẩu gạo gạo đến tậ
n tay khách hàng mà phần
lớn phải tái xuất khẩu qua một số nước như Singapo vì không tìm được thị
trường. Tính chất mùa vụ của sản xuất cũng ảnh hưởng tới xuất khẩu vì
mang đặc điểm từng chuyến, từng đợt nên khó có thể thoả mãn được nhu
cầu của khách hàng một cách thường xuyên, ổn định. Thời gian 12 năm
tham gia xuất khẩu gạo là một quá trình tương đối dài như
ng so với các
nước có truyền thống thì trong lĩnh vực này, Việt Nam vẫn còn là một nước
non trẻ. Kinh nghiệm sản xuất, chế biến gạo của nước ta còn nhiều yếu kém
về chất lượng nên thường bị thua thiệt và chèn ép về mặt giá cả. Các kênh
thông tin không đủ hiện đại để cung cấp cho các doanh nghiệp đầy đủ và cập
nhật tình hình lương thực trên thế giới nên dễ dẫn đến hiệ
u quả kém trong
việc nắm bắt và ra quyết định xuất khẩu, dẫn đến giá gạo xuất khẩu của Việt
Nam thường thấp hơn giá của các nước đối thủ cạnh tranh.
Qua phân tích trên, chúng ta thấy được việc giá gạo xuất khẩu của Việt
Nam thấp hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của các nhà xuất khẩu nước ta.
45
Chúng ta không tự động hạ giá để có sức cạnh tranh cao trên thị trường mà
buộc phải chấp nhận mức giá khá cách biệt với thị trường thế giới. Nguyên
nhân chủ yếu vẫn là do chúng ta không đáp ứng được đầy đủ những đòi hỏi
nghiêm ngặt của gạo xuất khẩu nói chung, về quy cách chất lượng, cơ sở hạ
tầng phục vụ cho sản xuất và chế biến, n
ăng suất bốc xếp và việc cung ứng
hàng.
Nhìn chung, giá xuất khẩu bình quân của gạo Việt Nam từ năm 1989
tới nay có tăng nhưng không ổn định. Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu -
Bộ Thương mại, giá gạo bình quân trong những năm gần đây biến động khá
phức tạp, đặc biệt khi so sánh với giá gạo bình quân của thế giới
Nguồn: Vụ Xuất nhậ
p khẩu – Bộ Thương mại
Như vậy, mức giá cao nhất là vào năm 1996 (285 USD/MT). Thời kỳ
từ 1991 đến 1994 giá gạo xuất khẩu tương đối ổn định. Từ năm 1995 đến
1998 giá tăng, đồng thời số lượng gạo tăng nên tổng kim ngạch lớn. Từ năm
1999, dù xuất khẩu nhiều nhưng giá cả giảm mạnh nên tổng giá trị xuất khẩu
không cao. Giá cả bắ
t đầu suy giảm từ năm này kéo dài đến nay.
Những năm gần đây, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo lớn, có
năm chỉ sau Thái Lan, nước luôn chiếm vị trí hàng đầu trong xuất khẩu gạo
trên thị trường thế giới. Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam qua các năm có xu
hướng ngày càng nhích gần với giá cả quốc tế. Dù đã thu nhỏ hơn nhưng
khoảng chênh lệch giữ
a giá xuất khẩu của Thái Lan với giá cùng loại của
Việt Nam vẫn còn tồn tại.
BiÓu ®å 2.3: So s¸nh gi¸ g¹o trung b×nh cña thÕ giíi vμ
ViÖt Nam
225
230
235
268
321
345
340
329
289
226
207
204
214
266
285
242
265
221
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
N¨m
GÝa g¹o (USD/tÊn)
Gi¸ thÕ giíi
Gi¸ ViÖt Nam
46
Bảng 2.5. So sánh giá gạo cùng phẩm cấp giữa Việt Nam và Thái Lan
Đơn vị tính: USD/tấn
Chênh lệch
Năm
Giá quốc tế FOB
Bangkok 5% tấm
Giá xuất khẩu của Việt Nam
quy theo giá 5% tấm
Số tiền Tỷ lệ (%)
1989 320 245 75 23,4
1990 287 224 63 22,0
1991 290 234 56 193
1992 280 233 47 16,8
1993 268 230 38 14,2
1994 295 265 30 10,2
1995 338 314 24 7,1
1996 362 342 20 5,5
1997 265 245 20 7,5
1998 285 270 15 5,2
1999 240 232 8 3,3
2000 198 188 10 5,0
Nguồn: FAO – Facsimil Transmission BOT-OMIC Bangkok
Vụ Xuất nhập khẩu-Bộ Thương mại
Qua bảng trên cho thấy, khoảng cách giữa hai giá gạo cùng loại của
Thái Lan và Việt Nam đang dần thu ngắn lại. Đây là một dấu hiệu đáng
mừng cho giá gạo Việt Nam. Từ chênh lệch với tỷ lệ cao nhất vào năm 1989
là 23,4%, chúng ta đã hạ xuống mức thấp nhất là 3,3% năm 1999. Đặc biệt
năm 2001, giá gạo 5% t
ấm của Việt Nam tăng so với mức tăng của gạo Thái
Lan cùng loại. Cuối tháng 5/2001, giá gạo 5% tấm của Thái Lan và Việt
Nam lần lượt là 164 USD/tấn và 159 USD/tấn nhưng đến đầu tháng 9, chênh
lệch chỉ còn 1 USD/tấn với giá là 174 USD/tấn và 173 USD/tấn. Đặc biệt
những ngày đầu tháng 11/2001, giá gạo 5% tấm của Việt Nam đã lên tới 194
USD/tấn, cao hơn gạo Thái Lan 24 USD/tấn - một dấu hiệu đáng mừng cho
giá loạ
i gạo này của Việt Nam. Tuy nhiên, vào thời điểm này, cung gạo của
Việt Nam lại khan hiếm, chỉ tập trung chủ yếu vào những hợp đồng nhỏ đã
ký (những hợp đồng xuất khẩu sang châu Phi, Ai Cập, Inđônêxia và Nga.
Bên cạnh đó, trong cơ cấu chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam, các loại
gạo cấp thấp và trung bình chiếm tỷ trọng cao, ngược lại đối v
ới Thái Lan,
các loại gạo cao cấp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu gạo xuất khẩu nên nhìn
47
một cách tổng thể, giá gạo bình quân của ta vẫn thấp hơn nhiều so với giá
gạo bình quân của Thái Lan. Ví dụ năm 1990, giá gạo xuất khẩu trung bình
của Việt Nam là 186,3 USD/tấn chỉ bằng 68,7% so với giá gạo xuất khẩu
trung bình của Thái Lan là 271 USD/tấn, thấp hơn 31,3%. Đến những năm
gần đây, khoảng cách giữa hai loại giá trên đã được thu ngắn và có những
dấu hiệu đáng mừng cho giá gạo Việ
t Nam.
2.2.3. Phân phối
Đối với sản phẩm gạo xuất khẩu, việc nghiên cứu thị trường gạo thế
giới và các đối thủ cạnh tranh để đưa ra một loại gạo phù hợp với chính sách
giá hợp lý thôi chưa đủ mà còn phải xem xét nên đưa gạo ra thị trường bên
ngoài như thế nào, bằng những hình thức nào cho có hiệu quả nhất.
Chính sách phân phối có vai trò vô cùng quan trọng trong chính sách
Marketing gạo xuất khẩu. Theo quan đi
ểm của Marketing-mix, việc xây
dựng một chính sách phân phối không chỉ dừng lại ở việc quyết định số gạo
sẽ được xuất khẩu thông qua hoạt động mua bán của các trung gian mà nó
còn bao gồm cả việc tổ chức vận hành các mạng lưới trung gian đó để kết
hợp nhịp nhàng hoạt động tiêu thụ gạo phù hợp với từng biến động trên thị
trường thế giới. Chính sách này bao g
ồm hai khâu: khâu mua và khâu xuất
khẩu.
2.2.3.1. Khâu mua
Trước năm 1986, các kế hoạch về xuất khẩu và nhập khẩu đều do Nhà
nước quy định và cấp phép. Chỉ những công ty cấp bộ và cấp tỉnh mới có
quyền hoạt động trong lĩnh vực này. Các trạm thu mua của các công ty này
có nhiệm vụ thu lúa của nông dân từ trong các làng xã. Tuy nhiên, một thị
trường tự do khác vẫn tồn tại song song với thị trường trên. Ở cấp làng,
nhữ
ng nông dân thừa sản lượng vẫn bán lúa cho những người thiếu. Ở cấp
tỉnh, thành phố thì diễn ra các cuộc trao đổi gạo giữa những công ty hoạt
động theo cơ chế trên và các công ty không được cấp phép.
Sau năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã cải tiến dần
hệ thống thương mại ở nước ta. Nhà nước vẫn còn kiểm soát các hoạt động
xuất nhập khẩu nhưng vi
ệc độc quyền nhà nước trong lưu thông phân phối
lúa gạo ở trong nước đã được tháo gỡ. Nông dân có thể tự do bán sản phẩm
tới các thương nhân sau khi đã trả đầy đủ các loại thuế theo quy định. Tất cả
các thành phần kinh tế đều có thể tham gia vào kinh doanh lúa gạo, vận
chuyển từ người sản xuất đến người tiêu dùng và nhà xuất khẩu.
48
Tuy nhiên, giữa nông dân và các nhà xuất khẩu, mà chủ yếu tập trung
vào các doanh nghiệp nhà nước có uy tín và khả năng cạnh tranh cao trên thị
trường thế giới vẫn có quá nhiều trung gian. Theo Bộ Thương mại, có tới
95% lượng gạo xuất khẩu là do trung gian mua bán. Người nông dân thiếu
địa điểm và các phương pháp tốt để dự trữ, bảo quản lúa, lại luôn cần vốn để
chuẩn bị cho vụ mùa tới nên bắt buộc phải bán ph
ần lớn lượng sản phẩm cho
tư nhân thu mua lẻ. Tư nhân thu mua lẻ, do thiếu kỹ thuật chế biến, phải bán
lại cho tư nhân thu mua lớn. Các nhà kinh doanh này chế biến gạo ra thành
phẩm cuối cùng và cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu.
Nguyên nhân chính của tình hình này là do vốn hạn chế, do bộ máy
quản lý và điều hành thiếu năng động trong các đơn vị kinh doanh trực thuộc
Nhà nước. Việc tư nhân thực hiện phầ
n lớn khối lượng gạo xay xát xuất
khẩu một mặt có những tích cực vì sẽ tạo sức cạnh tranh, chống thế độc
quyền của Nhà nước, thúc đẩy lượng gạo xuất khẩu, song mặt khác dẫn đến
những bất lợi không nhỏ như việc nông dân bị ép giá, phải bán số lượng lớn
giá rẻ cho tư thương, khó dẫn đến thực hiện được chủ tr
ương của Nhà nước
trong việc duy trì mức giá đảm bảo cho nông dân mức lợi nhuận 25-40% để
khuyến khích sản xuất.
Tương tự như trong khâu thu mua, tư nhân đóng vai trò quan trọng
trong khâu chế biến, bảo quản gạo xuất khẩu. Chính vì vậy đã dẫn đến tiêu
chuẩn chất lượng và độ đồng đều của gạo xuất khẩu cũng bị hạn chế. Trong
khi đó, các cơ sở
xay xát lớn của quốc doanh chưa được khai thác triệt để,
nhất là những nhà máy có công suất lớn và công nghệ hiện đại với trang
thiết bị đồng bộ ở các công đoạn sát, sàng, xoa, hồ tẩy, đánh bóng, đóng gói
để phục vụ xuất khẩu.
Hiện tại, công suất của các cơ sở xay xát trong nước có thể đáp ứng nhu
cầu của cả nước nhưng quốc doanh chỉ chi
ếm 1/3. Ở miền Nam có những
nhà máy có công suất lớn và công nghệ hiện đại như nhà máy xay xát Satake
Sài Gòn, công suất 600 tấn/ngày, nhà máy xay Cửu Long công suất 240
tấn/ngày. Ở miền Bắc có gần 2500 cơ sở lớn nhỏ, có thể xay xát hết số thóc
sản xuất ra trong năm. Song do thiết bị lạc hậu, một số nhà máy lớn do
doanh nghiệp Nhà nước quản lý đều có tuổi thọ trên 30-40 năm, một số
được đầu tư c
ải tạo nhưng thiếu đồng bộ nên giá thành sản phẩm vẫn ở mức
cao. Những cơ sở xay xát nhỏ đang chiếm ưu thế, trong đó có 2200 cơ sở
nhỏ do tư nhân đầu tư, quản lý, khai thác, chủ yếu đáp ứng nhu cầu thị
49
trường hiện nay hoặc phục vụ xuất khẩu với khối lượng nhỏ, phẩm cấp trung
bình.
Để đổi mới, chúng ta đã nhập các thiết bị đồng bộ, đảm bảo cho các
doanh nghiệp quốc doanh có thể chế biến gạo đạt chất lượng cao, nâng cao
công suất máy. Bên cạnh xay xát, cần có một hệ thống kho chứa nhằm bảo
quản tốt gạo xuất khẩu. Tư nhân th
ường sử dụng kho nhỏ, không đảm bảo
do vị trí xây dựng không được tính toán, không thích hợp với cơ chế thị
trường hiện nay. Các kho do quốc doanh lương thực quản lý thường có chất
lượng tốt với 50% là kho kiên cố và 50% kho bán kiên cố nhưng hiệu suất
sử dụng kho thấp, (30% tổng dung tích kho). Tuy nhiên, ở những địa bàn
trọng điểm, nhất là cảng khẩu thì lại thiếu kho, đặc biệt là các loại kho hi
ện
đại, đạt tiêu chuẩn kỹ thuật bảo quản gạo xuất khẩu.
2.2.3.2. Khâu xuất khẩu
Trong khâu xuất khẩu gạo ở Việt Nam, các doanh nghiệp quốc doanh
vẫn chiếm vị trí độc quyền. Những bất cập trong phân phát hạn ngạch và hạn
chế số lượng các doanh nghiệp có quyền xuất khẩu gạo đã gây khó khăn
không ít đối với kim ngạch gạo xuất khẩu của n
ước ta nói chung. Nhiều
doanh nghiệp tìm mọi cách để có thể tham gia vào xuất khẩu gạo, nảy sinh
những cạnh tranh tự phát và tiêu cực. Thương nhân bên ngoài thường lợi
dụng tình hình đó để ép giá, gây thiệt hại không nhỏ cho nền kinh tế quốc
dân.
Để khắc phục những nhược điểm nêu trên, các cơ quan Nhà nước đã có
nhiều cố gắng trong việc nghiên cứu và nắm vững biến động cung cầu, giá
cả củ
a thị trường gạo quốc tế để quản lý, chỉ đạo giá xuất khẩu trong nước,
hướng dẫn các doanh nghiệp đầu mối không xuất khẩu dưới mức giá tối
thiểu đã quy định.
Trước năm 2001, Bộ Thương mại kết hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đã chủ trương tinh giảm số doanh nghiệp đầu mối nhằm
nâng cao trình độ tập trung, chuyên môn hoá trong xuấ
t khẩu. Tháng 1/1997,
Bộ Thương mại đã công bố các quy định mới về các tiêu chuẩn chọn lựa
doanh nghiệp chuyên xuất khẩu gạo. Thông báo số 13848/ TM-XNK chỉ rõ
các doanh nghiệp này phải thoả mãn ba điều kiện: đã được cấp giấy phép
kinh doanh xuất nhập khẩu; là thành viên của Hiệp hội xuất nhập khẩu lương
thực Việt Nam; đã trình đơn xin phép và được Hiệp hội đề nghị Bộ
Thương
mại cho phép xuất khẩu gạo. Đặc biệt, các nhà xuất khẩu này phải kinh
doanh xuất nhập khẩu gạo (trực tiếp hoặc uỷ thác) trong 3 năm liên tục trước
50
khi nộp đơn với doanh thu hàng năm tối thiểu 50 tỉ đồng và được cơ quan
cấp tỉnh hoặc thành phố chứng nhận. Nếu như năm 1997 có tất cả 16 doanh
nghiệp đầu mối xuất khẩu gạo thì đến năm 2000, theo thông tư số 35/TT-
BTM, con số này đã lên tới 47.
Những năm qua, xuất khẩu gạo tập trung vào một số doanh nghiệp
nhà nước như Tổng công ty lương thự
c miền Nam, Tổng công ty lương thực
miền Bắc, các công ty lương thực các tỉnh sản xuất gạo chủ yếu như An
Giang, Tiền Giang, Vĩnh Long, Long An... Theo số liệu của Vụ Xuất nhập
khẩu - Bộ Thương mại, có thể tổng kết số gạo xuất khẩu của các công ty này
từ năm 1997 đến 31/08/2001 như sau:
Bảng 2.6. Các doanh nghiệp xuất khẩu gạo với số lượng lớn
(1997-2001)
Stt Tên doanh nghiệp Số lượng (tấn) Trị giá (USD)
1 Tổng công ty lương thực miền Nam 3.675.504 854.573.212
2 Tổng công ty lương thực miền Bắc 2.245.770 552.707.369
3 Công ty lương thực Tiền Giang 1.262.359 269.677.319
4 Công ty lương thực Vĩnh Long 1.241.840 257.603.393
5 Công ty lương thực Long An 802943 165.348.357
6 Công ty XNK lương thực VTNN Đồng Tháp 802427 180.795.143
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu các năm của Vụ Xuất nhập khẩu-
Bộ Thương mại
Qua bảng trên cho thấy, Tổng công ty lương thực miền Nam luôn là
đơn vị đầu ngành trong xuất khẩu gạo. Trừ Tổng công ty lương thực miền
Bắc, các đơn vị xuất khẩu lớn khác đều tập trung tại đồng bằng sông Cửu
Long (ngoài các doanh nghiệp kể trên còn có các công ty khác như công ty
AFIEX An Giang, công ty lươ
ng thực Cần Thơ, Sóc Trăng, các công ty xuất
nhập khẩu khác của An Giang...) phản ánh thế mạnh nói chung về gạo của
khu vực này.
Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài cũng được phép tham gia xuất khẩu gạo như công ty chế biến
gạo hấp JFT-Rice tại Long An, công ty Anginmex-Kitoku tại An Giang...
tạo sự phong phú và đa dạng cho hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam.
2.2.3.3. Các kênh phân phối
51
Giữa người sản xuất và người tiêu thụ gạo có một hệ thống trung gian
tham gia vào hoạt động phân phối bao gồm những người thu gom, bán buôn,
bán lẻ... có nhiệm vụ hỗ trợ hoạt động phân phối gạo đến tay người tiêu
dùng cuối cùng.
Các kênh phân phối gạo của Việt Nam: do còn nhiều bất lợi trong hoạt
động xuất khẩu gạo, phần lớn những hợp đồng xuất khẩu mặt hàng này c
ủa
Việt Nam đều phải thực hiện qua trung gian nước ngoài. Tuy nhiên, việc áp
dụng chính sách mở cửa ra thị trường thế giới của nước ta đã tạo ra các hợp
đồng sản xuất giữa nông dân với doanh nghiệp thu mua và chế biến gạo.
Loại hợp đồng này rất phổ biến ở các nước phát triển trong khu vực hiện nay
như Thái Lan và bắt đầu có mặt tại Việt Nam, bảo đảm cho duy trì sả
n xuất
với các điều kiện đã được thoả thuận trước, giảm được những rủi ro trong
ngắn hạn. Tuy nhiên, loại hợp đồng này bắt buộc nông dân phải phụ thuộc
nhiều vào người mua sản phẩm.
Nhìn chung, phân phối gạo của Việt Nam dựa theo sơ đồ sau:
Sơ đồ2.2. Các kênh phân phối
Như sơ đồ trên đã chỉ rõ, hoạt động xuất khẩu gạo ở Việt Nam được
chia làm hai khâu. Ở khâu mua, chủ yếu gạo được chuyển từ người sản xuất,
qua một số trung gian tới người xuất khẩu hoặc được chuyển một cách trực
tiếp. Các khâu trung gian đóng vai trò rất quan trọng ở Việt Nam nên hình
thức phân phối trực tiếp chỉ mới hình thành nhưng xu hướ
ng sẽ phát triển
trong tương lai.
Người sản xuất
Người thu mua
Bán lẻ cố định
Bán buôn
Nhà xuất khẩu
Trung gian
nước ngoài
Hợp đồng
trực tiếp
Khách hàng
52
Trong khâu xuất khẩu, nhà xuất khẩu nước ta phần lớn phải dựa vào
trung gian nước ngoài mới đưa dược gạo đến với khách hàng. Các hợp đồng
trực tiếp ít được ký kết và đưa vào thực hiện.
Sơ đồ trên có thể chia các cấp kênh theo quan điểm Marketing-mix:
- Kênh cấp 0: Người sản xuất - Khách hàng (Người tiêu dùng cuối cùng):
kênh này không có đối với xuất khẩu gạo ở Việt Nam vì kênh này không
qua một trung gian nào, kể c
ả người xuất khẩu.
- Kênh cấp 1: Người sản xuất - Nhà xuất khẩu - Khách hàng: chỉ qua một
trung gian là nhà xuất khẩu.
- Kênh cấp 2, 3: Người sản xuất - Một số trung gian - Khách hàng.
- Kênh cấp 4: Người sản xuất - Tất cả các trung gian - Khách hàng.
Qua việc chia các kênh như trên, chúng thấy rằng ở Việt Nam, phổ biến
nhất vẫn là kênh cấp 4. Để tiến hành xuất khẩu gạo, cần qua tất cả
các khâu
trung gian mới đến tay được người tiêu dùng. Ưu điểm của hình thức phân
khối này là người sản xuất tách được khỏi hoạt động phân phối nên có thể
đầu tư nguồn lực vào quá trình sản xuất gạo, nếu kết hợp nhịp nhàng sẽ tạo
ra khả năng linh hoạt cho thị trường do chuyên môn hoá cao. Tuy nhiên,
trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, việc phải dùng đến quá nhiều trung
gian sẽ phát sinh các vấn đề như giá cả tăng, người sản xuất không có mối
quan hệ với khách hàng nên không biết được nhu cầu và mong muốn của họ.
Hơn nữa, người sản xuất bị phụ thuộc quá nhiều vào trung gian dễ dẫn đén
tình trạng bị ép giá...
2.2.3.4. Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam ở đ
ây được hiểu là các nhà
nhập khẩu gạo của Việt Nam - Khách hàng, nhân tố cuối cùng trong quan hệ
phân phối.
Theo hướng tăng của kim ngạch xuất khẩu gạo, trong những năm qua,
thị phần của Việt Nam trên thế giới có nhiều thay đổi. Cụ thể là:
53
Bảng 2.7. Quy mô xuất khẩu gạo chính ngạch giai đoạn 1989-2001
Năm
Lượng gạo
xuất khẩu của Việt
Nam (1000T)
Lượng gạo mậu dịch
của thế giới (1000T)
Thị phần gạo Việt
Nam (%)
1989 1372 13.900 9,9
1990 1478 11.600 12,7
1991 1016 12.100 8,4
1992 1954 14.200 13,76
1993 1649 14.900 11,1
1994 1962 16.500 11,9
1995 2025 21.000 9,6
1996 3047 19.700 15,5
1997 3682 18.900 19,5
1998 3793 27.700 13,7
1999 4559 24.900 18,3
2000 3470 22.900 15,2
2001(*) 3700 22.200 16,7
(*): Dự kiến
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại
Qua bảng trên ta thấy thị phần của gạo Việt Nam khá lớn trên thế giới,
tăng qua các năm nhưng không ổn định. Việt Nam cần củng cố lại những thị
trường đã có và mở rộng thị phần thêm nữa.
Về thị trường xuất khẩu gạo, Việt Nam hiện có khoả
ng 80 nước, trong
đó châu Á, châu Phi là thị trường chính, chiếm 70-80% lượng gạo xuất khẩu
hàng năm. Số còn lại là các nước châu Âu, Bắc Mỹ, Trung Đông và các
nước châu Á khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc.