Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,361
934
105
34
xuất khẩu, gây ra những thiệt thòi lớn. Xuất khẩu ở thời kỳ này do kém về
chất lượng nên sức cạnh tranh kém dẫn đến việc chúng ta phải bán cho các
nước có truyền thống xuất khẩu gạo để chế biến lại và tái xuất, chịu chi phí
trung gian cao. Qua nhiều năm, khi sản xuất được cải thiện, chất lượng gạo
đã tiến bộ do có nhiều giống mới và công tác chế biế
n, bảo quản tốt, Việt
Nam đã có nhiều loại gạo tốt đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường thế
giới.
Xét về tỷ lệ tấm, chất lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam có xu hướng
tăng tỷ lệ gạo cấp cao và trung bình, đồng thời giảm tỷ lệ gạo cấp thấp. Tuy
nhiên mức tăng không ổn định. Nă
m 1998, tỷ lệ gạo cấp cao là 53% tăng so
với 41,2% trung bình 7 năm (1989-1995). Trong năm 1999, gạo 5-10% tấm
lại giảm xuống còn 34,78%, thấp nhất so với các năm trước. Dự báo năm
2001 tỷ lệ gạo theo thứ tự cấp cao, trung bình, thấp lần lượt là 39%, 13,2%,
và 47,8% - một kết quả không mấy khả quan cho việc đánh giá chất lượng
gạo xuất khẩu dựa theo tỷ lệ tấm. Tình hình này cũng không có nghĩa chấ
t
lượng gạo Việt Nam nói chung bị tụt lùi mà có thể là sự ứng xử hợp lý trong
chiến thuật kinh doanh xuất khẩu của ta căn cứ vào nhu cầu giá cả và diễn
biến thực tế của thị trường gạo thế giới. Năm 2001 là năm kinh tế toàn cầu
có nhiều khó khăn, đặc biệt cả lượng gạo xuất-nhập đều có nguy cơ giảm so
với năm 2000. Trong đ
iều kiện giá gạo tăng, nhiều nước nghèo chỉ có thể
tiêu dùng những loại gạo có chất lượng thấp do sức mua hạn chế, đẩy giá
gạo loại này tăng nhiều so với giá gạo chất lượng cao. Giảm tỷ lệ gạo tấm 5-
10% có thể là một ứng xử linh hoạt trong việc hoạch định chính sách xuất
khẩu của Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, đặc biệt khi chúng
ta mở rộng thị trường sang các nước châu Phi và châu Á - những nước có
nhiều nhu cầu về gạo phẩm cấp thấp và trung bình. Bên cạnh đó, để phù hợp
với xu hướng phát triển của thị trường thế giới, Việt Nam vẫn chủ trương
tăng tỷ trọng gạo chất lượng cao nhằm hướng ra thị trường châu Âu, Nhật và
Bắc Mỹ. Mặc dù những năm gần đây g
ạo có chất lượng cao ngày càng
chiếm tỷ trọng lớn - một tiến bộ nói chung của ngành sản xuất và xuất khẩu
gạo - nhưng vẫn còn những nhược điểm khác như độ trắng không đồng đều,
lẫn thóc và tạp chất, gạo vụ hè thu thường có độ ẩm cao, bạc bụng, vàng hạt,
tỷ lệ gãy cao... Khi đánh giá chất lượng gạo xuất khẩu của nước ta, ngoài tỷ
lệ tấm cũng cần chú trọng đến các tiêu thức khác thì mới có thể có những kết
quả phân tích chính xác về gạo xuất khẩu được.
35
* Kiểm tra
Một vấn đề nữa cần quan tâm là việc kiểm tra chất lượng gạo Việt Nam
trước khi xuất khẩu. Cơ quan quan trọng nhất của Việt Nam trong lĩnh vực
kiểm tra chất lượng là Vinacontrol, cơ quan chịu trách nhiệm kiểm tra tới
95% lượng gạo xuất khẩu.
Tiến trình kiểm tra chất lượng bao gồm các bước sau:
- Kiểm tra chất lượng kho chứa gạo
- Kiể
m tra chất lượng đóng bao
- Kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu
Theo kết quả nhận định của Vinacontrol, trong xuất khẩu gạo tồn tại hai
vấn đề chính: do chất lượng yếu kém của các kho gạo dẫn đến tăng tỷ lệ gạo
ẩm mốc trong mùa mưa, các kho chứa phải di chuyển đến nơi khác gây khó
khăn cho việc vận chuyển gạo xuất khẩu.Vi
ệc khắc phục những nhược điểm
về chất lượng gạo là một vấn đề không đơn giản. Tuy nhiên, chúng ta phải
cố gắng nỗ lực tìm ra mấu chốt và giải quyết hợp lý, nâng cao chất lượng
gạo, từ đó tăng sản lượng và kim ngạch xuất khẩu.
2.2.1.3. Chủng loại gạo xuất khẩu
Trên thị trường thế giới, gạo thường
được chia làm 6 nhóm như sau:
Nhóm gạo hạt dài chất lượng cao chủ yếu xuất khẩu từ Mỹ. Loại gạo này
được ưa chuộng ở thị trường châu Âu, Trung Đông, Hồng Kông, Singapo
và chiếm 25% thị phần thế giới.
Nhóm gạo hạt dài chất lượng trung bình. Loại gạo này được dùng chủ
yếu trong thương mại quốc tế mà khách hàng chính là các nước châu Á
và châu Phi, những nước cần nhập khẩu g
ạo để giải quyết vấn đề thiếu
hụt về gạo.
Nhóm gạo hạt ngắn và trung bình. Loại gạo này được xuất khẩu chủ yếu
sang các nước nghèo như Băng-la-đét, Sri-lan-ca, Tây Phi, Ấn Độ…
Nhóm gạo sấy chia làm hai loại:
- Gạo sấy có màu, chất lượng kém được tiêu dùng chủ yếu trong các nước
có tổng thu nhập quốc dân thấp.
- Gạo sấy tr
ắng, chất lượng tốt. Được tiêu dùng ở thị trường các nước phát
triển như Mỹ, châu Âu và Trung Đông.
Nhóm gạo đặc sản xuất khẩu của các nước châu Á như Thái Lan với gạo
Jasmin; Việt Nam với gạo Nàng Hương, Chợ Đào; Ấn Độ với gạo
Basmati. Gạo đặc sản rất được ưa chuộng trên thế giới, nhất là các nước
36
châu Âu, đồng thời cũng được tiêu thụ nhiều tại các thành phố giàu có ở
châu Á như Băng-cốc, Hồng-kông, Ma-ni-la...
Nhóm gạo nếp. Loại gạo này là gạo tiêu thụ hàng ngày trong khu vực
Đông Bắc Thái Lan và một vài vùng ở Lào, Cam-pu-chia.
Ở Việt Nam hiện nay, gạo xuất khẩu chủ yếu là gạo tẻ hạt dài, chất
lượng trung bình được sản xuất hầu hết từ đồng bằng sông Cửu Long, gạo
h
ạt ngắn và trung bình và gạo đặc sản. Trong cơ cấu xuất khẩu đó, chúng ta
vẫn chưa chú trọng tới gạo đặc sản truyền thống. Hiện nay trên thế giới, ở
những nước phát triển, loại gạo này rất được ưa chuộng và trong tương lai,
nhu cầu về loại gạo này sẽ ngày càng tăng, đem lại nguồn thu lớn cho các
nước xuất khẩu.
Việt Nam xuất kh
ẩu gạo đặc sản từ lâu nhưng không thường xuyên và
với số lượng nhỏ nên không đem lại hiệu quả lớn, không đủ sức cạnh tranh
với các nước khác, mặc dù chất lượng tương đương. Chúng ta mới chỉ bước
đầu xuất khẩu gạo Tám Thơm ở miền Bắc, gạo Nàng Hương và Chợ Đào ở
miền Nam. Từ năm 1992, Việt Nam đã trồng gạo “Japonica” c
ủa Nhật Bản
và xuất khẩu sang nước này. Đó cũng là thành công của Việt Nam khi đã
xâm nhập được vào thị trường Nhật Bản, một thị trường vốn nổi tiếng với
những người tiêu dùng khó tính.
2.2.2. Giá cả
Trong Marketing-mix, giá cả là yếu tố duy nhất liên quan trực tiếp đến
doanh số và lợi nhuận. Giá được biểu thị bằng một lượng tiền nhất định và là
nội dung ph
ức tạp đồng thời quan trọng nhất của hoạt động kinh doanh.
Đối với xuất khẩu gạo, chính sách giá cả phải hợp lý để có thể thu hút
các thành phần kinh tế khác nhau cùng tham gia vào kinh doanh, làm tăng
kim ngạch, đem lại nguồn thu lớn cho đất nước.
Giá xuất khẩu gạo của Việt Nam phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan. Nhà nước Việt Nam can thiệp nhiều vào giá gạo trên thị
trường nội
địa. Tuy nhiên giá xuất khẩu lại được xác định bởi quan hệ cung
cầu trên thị trường thế giới. Nhìn chung giá xuất khẩu chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố nhưng cũng có tác động ngược lại thị trường thể hiện trên 3
khía cạnh: ảnh hưởng của giá tới số lượng bán, tới lợi nhuận của các nhà
xuất khẩu và thu nhập của người nông dân và ảnh hưở
ng tới nền kinh tế nói
chung. Nhà nước đóng một vai trò quan trọng trong việc điều tiết giá cả trên
cơ sở xem xét các yếu tố thanh toán, cạnh tranh và sự phù hợp với các chiến
lược khác trong Marketing-mix.
37
Để phân tích giá xuất khẩu gạo theo quan điểm của Marketing-mix,
chúng ta cần xem xét giá gạo trên thị trường thế giới và giá bán trên thị
trường trong nước, các nhân tố ảnh hưởng đến giá gạo xuất khẩu… để từ đó
có những nhận định về giá xuất khẩu của gạo Việt Nam.
2.2.2.1. Giá gạo trên thị trường thế giới
Giá gạo quốc tế
Trên thế giới, tuỳ từ
ng điều kiện cụ thể của mỗi nước như điều kiện tự
nhiên, cách thức sản xuất, kỹ thuật ứng dụng… của mỗi nước khác nhau mà
có những chủng loại gạo khác nhau. Mỗi loại gạo như vậy sẽ tương ứng với
một loại giá, tạo nên thị trường thế giới đa dạng, phong phú về giá cả và chất
l
ượng. Cũng giống như các hàng hoá khác khi tung ra thị trường quốc tế, giá
gạo phải thoả mãn ba điều kiện căn bản: thứ nhất, phải là giá của những hợp
đồng thương mại lớn thông thường, trong đó các bên mua bán phải được tự
do ký kết hợp đồng, không bị ràng buộc bởi những điều kiện khác; thứ hai,
phải là giá thanh toán bằng đồng tiền tự do chuyển đổi mà ch
ủ yếu vẫn là
đô-la Mỹ (giá gạo quốc tế thường tính bằng đồng tiền này); thứ ba, phải là
giá ở trung tâm giao dịch quốc tế quan trọng nhất. Như đã đề cập ở chương
I, từ trước đến nay, Thái Lan vẫn là nước dẫn đầu về xuất khẩu gạo. Chính
vì vậy, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan (FOB Băng-cốc) được coi như giá
chuẩn mực củ
a giá quốc tế, đáp ứng được ba điều kiện trên và phản ánh thực
chất quan hệ cung cầu và quy luật vận động của giá cả trên thị trường gạo
thế giới.
Đặc điểm của giá gạo quốc tế trong những năm gần đây
- Giá tăng nhưng không ổn định
Trong thời gian qua, nhìn chung giá gạo quốc tế tăng nhưng không ổn
định. Tuy nhiên nh
ững năm gần đây nhất lại có xu hướng giảm xuống. Cụ
thể là:
38
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại
Qua biểu đồ trên cho thấy giá gạo xuất khẩu bình quân của thế giới cao
nhất vào năm 1996 (345 USD/tấn) và bắt đầu giảm từ năm 1997. Nguyên
nhân chủ yếu là mùa hè năm này, Thái Lan phá giá nội tệ và đã làm giá gạo
thế giới giảm mạnh. Châu Á là khu vực sản xuất, tiêu thụ gạo lớn nhất thế
giới nên khi cuộc kh
ủng hoảng tiền tệ bao trùm các nước này làm tăng áp
lực đối với giá cả và làm gía gạo tiếp tục giảm trong suốt hai năm tiếp theo
1998, 1999.
Năm 2000 là một năm sóng gió trên thị trường gạo thế giới, với nhu
cầu đặc biệt thấp. Giá gạo ở tất cả các nước xuất khẩu đều giảm do nhu cầu
gạo của các nước nhập khẩu lớn như In-đô-nê-xi-a, B
ăng-la-đét, Bra-xin…
giảm. Sản lượng gạo của các nước này đã đạt mức cao sau hai năm mất mùa
vì biến động thời tiết và do những cố gắng hỗ trợ phát triển ngành gạo của
chính phủ các nước đó. Năm 2000 được đánh dấu bởi thiên tai (lũ lụt, bão
nhiệt đới…) diễn ra liên tiếp ở các nước sản xuất gạo lớn như Trung Quốc,
Việt Nam,
Ấn Độ và Thái Lan. Mặc dù thiên tai gây ảnh hưởng tới sản
lượng và việc vận tải gạo, song chỉ ảnh hưởng cục bộ và ngắn hạn tới giá
gạo. Sản lượng vẫn bội thu song giá gạo nhìn chung giảm, tới mức thấp kỷ
lục kể từ 7 năm nay.
BiÓu ®å 2.2: Gi¸ g¹o b×nh qu©n trªn thÕ giíi
trong nh÷ng n¨m qua
213
225
230
235
268
321
345
340
329
289
0
50
100
150
200
250
300
350
400
1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
N¨m
GÝa g¹o (USD/tÊn)
Gi¸ g¹o
39
9 tháng đầu năm 2001, thị trường thế giới tiến triển khá phức tạp. Giá
gạo tăng, giảm không ổn định, phụ thuộc nhiều vào cầu của các nước nhập
khẩu với mức giá trung bình dự tính cả năm 2001 là 223 USD/tấn. Những
tháng đầu năm, giá gạo ở các nước xuất khẩu chính như Việt Nam, Thái Lan
đều tăng. Tuy nhiên những tháng sau giá gạo giảm dần xuống do lượng cầu
c
ủa khách hàng thấp.
Theo dự báo của Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên hợp quốc
(FAO), giá gạo trong những năm tới sẽ tăng. Cụ thể là giá gạo dựa trên cơ sở
gạo trắng của Thái Lan tăng đều trong hai năm 2001-2002 ở mức 240
USD/tấn vào cuối năm 2001, tăng lên 280 USD/tấn vào năm 2002 và 290
USD/tấn vào quý I / 2003.
- Sự thay đổi về chỉ số giá gạo chất lượng cao và thấ
p
Thông thường, các loại gạo trên thế giới thường được chia làm hai
nhóm: nhóm chất lượng cao và nhóm chất lượng thấp, căn cứ vào các chỉ
tiêu về tỷ lệ tấm, kích thước hạt, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ protein…
Theo tổng hợp của FAO, chỉ số giá chất lượng cao và thấp thay đổi khác
nhau. Trước năm 1995, giá cả nhóm chất lượng cao thường ổn định và ít
biến động h
ơn so với nhóm chất lượng thấp. Khi giá có xu hướng giảm, sự
biến động thường tập trung vào nhóm chất lượng thấp trong khi nhóm chất
lượng cao sẽ tăng giá nhanh hơn trong trường hợp giá có xu hướng tăng.
Điển hình năm 1993, khi giá không tăng (chỉ số giá chung các nhóm gạo Ip
= 1) thì chỉ số giá gạo chất lượng cao Ip
CLC
=1,02 và chỉ số giá gạo chất
lượng thấp Ip
CLT
=0,92. Năm 1994, Ip=1,14 thì Ip
CLC
=1,18 và Ip
CLT
=1,04.
Sau năm 1995, giá cả của cả hai nhóm gạo có sự thay đổi một cách tương
đồng, có nghĩa là giá nhóm gạo chất lượng cao biến động không còn ở mức
cao hơn nhóm gạo chất lượng thấp mà thậm chí còn ngược lại. Ví dụ năm
1995, Ip=1,29 thì Ip
CLC
=1,24 và Ip
CLT
=1,46.
Nhìn chung, qua phân tích chỉ số của FAO, có thể thấy rằng giá xuất
khẩu của nhóm gạo chất lượng cao vẫn thường xuyên biến động sát với chỉ
số giá chung trên thị trường thế giới, là căn cứ phản ánh tình hình biến động
giá cả. Các nhà xuất khẩu thường phản ứng với việc giá gạo trên thị trường
tăng mạnh bằng cách tăng tỷ trọng nhóm gạo chất lượ
ng thấp và giảm tỷ
trọng nhóm gạo chất lượng cao nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Sự chênh lệch giá giữa các loại gạo
Sự đa dạng phong phú về chủng loại gạo thường dẫn đến những mức
giá khác nhau. Tuy nhiên, đôi khi có những mức chênh lệch rõ rệt giữa các
40
loại gạo có cùng thời gian, cùng điều kiện giao hàng ở cùng trung tâm giao
dịch dù mức chênh lệch này không hoàn toàn giống nhau ở những thời điểm
khác nhau. Ví dụ như mức giá chênh lệch giữa các khách hàng khác nhau.
Khách hàng lớn, làm ăn lâu dài thường được hưởng mức giá ưu đãi, thấp
hơn so với khách hàng nhỏ, giao dịch lần đầu. Nhà xuất khẩu cũng có thể ưu
tiên về giá và các điều kiện khác như cấp tín dụ
ng cho các nhà nhập khẩu
với khối lượng lớn, theo hợp đồng dài hạn.
Bên cạnh đó, gạo cùng chủng loại cũng có thể có giá khác nhau vì được
xuất khẩu từ các nước khác nhau. Nhìn chung, do phụ thuộc vào chất lượng
và những yếu tố khác chi phối, giá gạo xuất khẩu của Thái Lan thấp hơn của
Mỹ nhưng lại thường cao hơn các nước khác như Việt Nam, Ấn Độ…
Giá gạo th
ơm đặc sản thường cao hơn nhiều so với giá gạo đại trà. So
với giá gạo đại trà có phẩm cấp trung bình (20% tấm) thì giá gạo thơm đặc
sản xuất khẩu thường gấp tới gần 3 lần do chất lượng hơn hẳn. Hơn nữa, giá
gạo thơm đặc sản của các nước cũng khác nhau. Ví dụ như gạo thơm đặc sản
của Thái Lan thường được khách hàng mế
n mộ hơn so với gạo cùng loại của
Ấn Độ, Pakistan
2.2.2.2. Chi phí sản xuất và giá lúa trong nước
Chi phí sản xuất
Nhìn chung, chi phí sản xuất gạo ở Việt Nam không cao, đặc biệt khi so
sánh với giá thành của Thái Lan, khi phân tích điều kiện sản xuất, đất đai, tỷ
lệ diện tích được tưới tiêu, năng suất và giá các yếu tố đầu vào, cho thấy ở
Việt Nam rẻ hơn so với Thái Lan
Bảng 2.3. So sánh chi phí sản xuất gạo ở Việt Nam và Thái Lan
STT Chỉ tiêu Việt Nam Thái Lan
1 Xăng (lít) 0,35 USD 0,40 USD
2 Dầu D.O (lít) 0,26 USD 0,30 USD
3 Điện (kW/h) 0,064 USD 0,82 USD
Nguồn: Nguyễn Đình Long. Tạp chí thương mại số 6/2000
Theo tính toán của tiến sĩ Nguyễn Đình Long, viện phó Viện Kinh tế
nông nghiệp, ước tính chi phí sản xuất 1 kg lúa của Việt Nam là 1250-1600
VNĐ, tương đương 0,83-107 USD/tấn, thấp hơn so với giá thành của Thái
Lan là 105-110 USD/tấn. Xét trên góc độ chi phí: chi phí cho yếu tố đầu vào
41
của ta thấp hơn song ta lại đạt được năng suất lúa cao hơn. Đây là lợi thế
cạnh tranh lớn trên thị trường gạo quốc tế.
Ở trong nước, chi phí sản xuất lúa của đồng bằng sông Hồng cao hơn
nhiều so với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, tạo ra rự chênh lệch
đáng kể và khó khăn trong việc cân đối giá gạo giữa hai vùng. Ví dụ như
nă
m 1997, chi phí sản xuất lúa ở đồng bằng sông Hồng là 1500 đ/kg trong
khi ở đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 1100 đ/kg – một khoảng cách không
nhỏ trong giá thành sản xuất.
Giá lúa trong nước
Giá lúa trong nước tăng đều từ năm 1989 và đạt mức cao nhất vào năm
1998. Theo số liệu của hiệp hội XNK lương thực Việt Nam, giá lúa của các
năm từ 1989 đến 2000 lần lượt như sau (tính bằng đồng Việt Nam):
Bảng 2.4. Giá lúa Việt Nam qua các năm
Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
Giá 916 967 1193 975 1097 1111 1693 1578 1447 1650 1380 1144
Chênh
lệch
0 51 226 -281 122 4 572 -115 -131 203 -270 -236
Nguồn: Hiệp hội XNK Việt Nam
Do tỷ giá hối đoái VNĐ/USD cũng tăng nên tính lại theo diễn biến của
tỷ giá này thì giá lúa trong nước của Việt Nam lại gần như ổn định. Giá lúa
đạt cao nhất vào năm 1995, xấp xỉ 1700 đ/kg, sau đó là năm 1998. Giá lúa
bình quân năm 2000 cũng chỉ bằng 1140, khoảng 70% so với năm 1998.
Năm 2001, giá lúa trong nước không ổn định và ở nhiều mức khác nhau. Giá
bình quân mua của người cung c
ấp từ 1250-1300 đ/kg, giá mua thấp nhất ở
tỉnh An Giang từ 1102-1200 đồng, cao nhất là tỉnh Long An với 1388 đồng.
Phân tích mối quan hệ giữa giá gạo trong nước và giá gạo trên thị trường
quốc tế nhằm mục đích để hiểu đưọc hệ thống Marketing đẩy mạnh xuất
khẩu gạo ở nước ta. Năm 1989, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo với
chất lượng g
ạo kém phẩm chất. Là một nước bước đầu hoạt động trên thị
trường gạo thế giới, Việt Nam vẫn còn khá xa lạ với những quy luật của thị
trường này. Hơn chục năm qua, với những kinh nghiệm tích tụ được, với
việc cải tiến chất lượng gạo và thiết lập các mối quan hệ bạn hàng quốc tế đã
đưa Việt Nam trở thành m
ột nước xuất khẩu gạo lớn. Mối quan hệ giữa giá
42
gạo trong nước và giá gạo trên thị trường quốc tế cũng phản ánh rõ nét
những thay đổi trong thời kỳ này.
2.2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam
Khi Việt Nam xuất khẩu gạo ra thị trường thế giới, có rất nhiều nhân tố
tác động, ảnh hưởng không nhỏ tới giá cả mặt hàng này trong đó có những
nhân tố lâu dài, tạm thời, có nhân tố tự nhiên, xã hộ
i, nhân tố kinh tế, chính
trị...
Quan hệ cung cầu
Cũng như tất cả các hàng hoá khác, quan hệ cung-cầu ảnh hưởng trực
tiếp đến giá gạo xuất khẩu của Việt Nam. Gạo là nguồn lương thực thiết yếu,
chi phối đời sống của rất đông dân số trên toàn cầu, đặc biệt ở châu Á. Khi
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo từ những n
ăm đầu thập kỷ 90, số lượng gạo
xuất khẩu liên tục tăng. Tuy nhiên giá cả gạo của Việt Nam trên thị trường
thế giới không phụ thuộc vào lượng gạo xuất ra mà bị ảnh hưởng bởi số
lượng nhập khẩu của các nước tiêu thụ lớn của gạo Việt Nam. Mô hình sau
thể hiện rõ mối quan hệ giữa thu nhập, sản lượng của gạ
o
Sơ đồ 2.1. Mối quan hệ giữa thu nhập và sản lượng của gạo
Nguồn: Tạp chí "Nghiên cứu kinh tế", tháng 8/2001
Thực tế cho thấy, sản lượng gạo liên tục gia tăng từ năm 1990 đến nay
bất chấp có sự thay đổi về giá gạo. Qua mô hình trên, quy ước tổng cung gạo
trong dài hạn là một đường thẳng đứng đi gần với sản lượng tiềm năng và
không phụ thuộc vào giá cả (LAS). Khi tổng cầu (AD) thay đổi thì giá cả
thay đổi, có nghĩa là khi các nước nhậ
p khẩu gạo giảm số lượng nhập khẩu
thì giá gạo thế giới cũng biến động và giảm xuống từ P
1
xuống P
2
. Giá gạo
xuất khẩu của Việt Nam do ảnh hưởng của giá gạo thế giới cũnh giảm xuống
theo.
AD1
A
D2
LAS
P
P1
P2
43
Nhân tố thời vụ
Thời vụ sản xuất và thu hoạch lúa gạo gắn liền với những biến động
của cung-cầu và giá gạo qua các tháng của năm. Ở Việt Nam, thời điểm giá
gạo ở vào đỉnh cao trong năm không phải thời điểm xuất khẩu nhiều, nhưng
lúc xuất khẩu nhiều lại thường là lúc giá cả gạo xuống thấp.
Nhìn chung, số
lượng xuất khẩu gạo thường mang tính chu kỳ, thể hiện
ở mức tăng giảm: cứ mỗi giai đoạn 2 đến 3 tháng khi lượng xuất khẩu tăng
mạnh thì đến giai đoạn lượng xuất khẩu giảm. Thời điểm xuất khẩu mạnh lại
tập trung vào các thành mùa khô, nhất là trong thời vụ đông xuân, lúc giá
lúa, gạo tương đối thấp. Chu kỳ sản lượng gạ
o tăng giảm này phụ thuộc chủ
yếu vào thời tiết, khí hậu của Việt Nam. Mỗi khi thiên tai, mất mùa nghiêm
trọng thường làm thay đổi giá. Những thay đổi đó chi phối quy luật sản xuất
và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong nhiều năm qua. Chính vì tính chu kỳ
của sản lượng gạo nên giá cả lúa gạo, bao gồm giá lúa trong nước và giá gạo
xuất khẩu cũng mang tính chu kỳ. Đồng bằng sông Cửu Long là vự
a lúa của
cả nước nên giá lúa gạo Việt Nam gắn liền với cơ cấu mùa vụ và chu kỳ xuất
khẩu của khu vực này. Nhu cầu nhập khẩu của khách hàng nước ngoài ảnh
hưởng trực tiếp đến quy luật trên. Các nhà nhập khẩu đã lợi dụng đặc thù sản
xuất lúa gạo của Việt Nam mong muốn giá giảm có lợi nhất cho họ. Thông
thường vào thời điểm xuấ
t khẩu gạo nhiều nhất thì giá gần như không bao
giờ ở mức cao nhất và ngược lại, khi giá cao nhất thì số lượng xuất khẩu
không nhiều. Điều này gây thiệt hại không nhỏ đối với tổng kim ngạch xuất
khẩu gạo của Việt Nam.
Để giải quyết vấn đề, Chính phủ chủ trương cho các doanh nghiệp mua
gạo tạm trữ từ nông dân trong lúc lượng cung dư thừa và giá gi
ảm. Đến lúc
giá gạo trên thế giới tăng mới tung lượng gạo dự trữ ra thị trường nhằm bán
được giá cao nhất. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong việc thực hiện chủ
trương này. Cụ thể là năm 2001, sau vụ thu hoạch đông xuân, giá lúa hạ
xuống thấp phổ biến từ 1100-1150 đồng. Các doanh nghiệp do UBND tỉnh
chỉ định được ưu tiên vay vốn không lãi trong thời hạn 6 tháng để mua đủ
1
triệu tấn gạo với giá sàn quy định là 1300 đ/kg lúa. Khi giá gạo nhích lên
vào tháng 5 và tăng nhanh trong tháng 8, Chính phủ bắt đầu chỉ thị cho các
doanh nghiệp tung hàng ra bán nhưng mới được biết rằng, lượng gạo dự trữ
không đủ 1 triệu tấn như đã giao chỉ tiêu. Lý do là các doanh nghiệp thấy giá
lúa tăng chậm, sợ lỗ nên không mua nhiều, không hoàn thành kế hoạch và
không thực hiện các bước đi mà Chính phủ chỉ thị.