Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,419
934
105
24
chuyển sang các nước châu Phi dưới hình thức viện trợ nhân đạo. Các nước
còn lại nhập khẩu gạo Việt Nam với mục đích tiêu dùng trong nước. Qua
nhiều năm, thị phần gạo Việt Nam đã tăng và có những cải thiện đáng kể.
Kể từ năm 1989, Việt Nam đã chuyển từ nước nhập khẩu sang xuất
khẩu gạo, cải thiện đời sống của m
ột bộ phận lớn dân cư, gia tăng sức mua
xã hội, giảm bớt thâm hụt thương mại, là tiền đề chống lạm phát có kết quả,
từ đó tác động tích cực đến quá trình phát triển kinh tế Việt Nam trong
những năm sau này. Kết quả trong xuất khẩu gạo là một trong những thành
quả nổi bật nhất về mặt kinh tế trong những năm cuối thế kỷ 20, là bướ
c
khởi đầu cho quá trình chuyển đổi, vững bước tiến lên CNH-HĐH, vận hành
nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN của nước ta. Thành tựu này
đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng lương thực, tạo cho nhân dân niềm tin vào
sự lãnh đạo và đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần ổn
định tình hình phức tạp và nhiều biến động trong nước.
Có được nh
ững thành quả nói trên là nhờ vào sự điều chỉnh và đề ra
chính sách mới đúng đắn, sự năng động của nông dân cùng với những nỗ lực
của các nhà xuất khẩu, các nhà xay xát, chế biến và cả những thuận lợi, may
mắn do hoàn cảnh khách quan. Nhưng yếu tố chủ yếu nhất vẫn là cơ chế,
chính sách đã được hoàn thiện trong nhiều năm và sẽ liên tục được phát huy
trong những n
ăm tới.
Nhìn chung trong thời gian qua, hoạt động xuất khẩu gạo đã có những
đóng góp rất quan trọng vào công cuộc phát triển chung của nền kinh tế.
Xuất khẩu gạo bước đầu có những thành công nhất định, chứng tỏ đường lối
đúng đắn của Đảng ta khi thực hiện chính sách mở cửa, đẩy mạnh tiến trình
hoà nhập của Việt Nam trên thị trường thế giới. Xuất kh
ẩu gạo đã mang lại
hiệu quả kinh tế xã hội to lớn như đã phân tích là tạo nguồn thu ngoại tệ,
kích thích sản xuất lúa phát triển, góp phần đảm bảo an toàn lương thực
quốc gia, tạo việc làm ổn định cho lao động trong khu vực nông nghiệp và
mạng lưới lưu thông phân phối gạo rộng khắp cả nước, cung cấp nguồn
nguyên liệu dồi dào cho các ngành lương thực, thực phẩm.
1.2.2.2. Những tồn tại trong xuất khẩu gạo của nước ta
Ngoài những thành công đáng khích lệ, xuất khẩu gạo Việt Nam còn
tồn tại những yếu kém mà chúng ta cần xem xét, qua đó đề ra các biện pháp
cần khắc phục. Cụ thể là:
- Sức cạnh tranh trên thị trường thế giới của gạo Việt Nam vẫn còn
kém. Có nhiều nguyên nhân để giải thích song cần nhấn mạnh đến chất
25
lượng gạo thấp (qua khâu sản xuất và chế biến), cơ sở hạ tầng giao thông
cần thiết theo yêu cầu đã cũ kỹ, lạc hậu. Đây là điểm yếu cần khắc phục
ngay của gạo Việt Nam.
- Xuất khẩu gạo của Viêt Nam nhìn chung chưa ổn định. Vì thời gian
Việt Nam tham gia xuất khẩu còn chưa lâu so với các nước khác nên không
có được những bạn hàng truyền thố
ng. Hơn nữa, chính sách bạn hàng của ta
còn nhiều bất cập, khó giữ được lòng tin ở khách hàng. Các đối thủ cạnh
tranh của Việt Nam có chất lượng gạo tốt hơn song về giá cả, gạo Việt Nam
thường rẻ hơn dù trong thời gian gần đây đã có những dấu hiệu đáng mừng
trong giá gạo của Việt Nam trên thị trường thế giới. Chính vì thế, chúng ta
nên tập trung chủ yếu vào mộ
t số thị trường nhất định như thị trường các
nước đang phát triển để tìm kiếm nhanh chóng hợp đồng.
- Xuất khẩu gạo Việt Nam phần lớn phải tiến hành qua khâu trung gian,
rất ít khi nhà xuất khẩu trực tiếp tham gia đấu thầu giành hợp đồng ở các
nước nhập khẩu lớn nên chưa có được những hợp đồng quy mô lớn, giao
hàng với giá cả ổn định, dài hạ
n mà chủ yếu là hợp đồng ngắn hạn, từng
chuyến, theo mùa, giá cả bấp bênh và xác suất rủi ro khá cao.
- Hiện tượng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong
nước do tranh mua, tranh bán dẫn đến đội giá mua lên cao, trình độ nắm bắt
và xử lý thông tin của doanh nghiệp vẫn còn yếu nên dễ dẫn đến bị thương
nhân nước ngoài ép giá.
Nói tóm lại, đi đôi với những thành tựu đạt được về xuất khẩ
u gạo
chúng ta còn rất nhiều khó khăn và thách thức phải vượt qua. Điều đó đòi
hỏi tất cả các thành phần kinh tế tham gia vào quá trình này phải nghiên cứu,
tìm tòi những giải pháp khắc phục, đồng thời có những đổi mới thích hợp
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta.
26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO CỦA VIỆT
NAM THEO QUAN ĐIỂM MARKETING-MIX
2.1. Các khái niệm cơ bản về Marketing
2.1.1. Khái niệm chung về Marketing
Hiện nay trong các tác phẩm về Marketing trên thế giới, có đến trên
2.000 định nghĩa về Marketing. Các định nghĩa đó về thực chất không khác
nhau và mỗi tác giả của các định nghĩa đều có quan điểm riêng của mình.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu vấn đề xuất khẩu gạo ở tầm vĩ mô, xin nêu ra một
định nghĩa khá phù hợp với khái niệm và thuật ngữ củ
a Marketing:
“Marketing là tập hợp các phương thức (nghiên cứu thị trường, các chiến
lược...) mà một cơ quan, tổ chức sử dụng để gây ảnh hưởng lên thái độ,
hành vi của tập hợp người tiêu dùng đáng quan tâm theo chiều hướng thuận
lợi cho việc thực hiện các mục tiêu của cơ quan, tổ chức đó”.
Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, ngoài việc cân bằng cán cân thương mại,
những mục tiêu này bao g
ồm:
- Thứ nhất, sự ổn định vững chắc của kinh tế đất nước.
- Thứ hai, sự phân bố thu nhập đồng đều giữa người sản xuất, nhà xuất
khẩu.
2.1.2. Khái niệm về Marketing-mix và các thành phần cơ bản của
Marketing-mix
Theo Kotler, Marketing-mix là tập hợp những công cụ Marketing được
sử dụng để theo đuổi những mục tiêu Marketing của mình trên thị trường
mục tiêu. Marketing-mix bao gồ
m bốn yếu tố chính: chiến lược sản phẩm,
chiến lược giá cả, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh
doanh. Meredith G.G (1991), trang 9 có nói rõ về 4 yếu tố này như sau:
Bảng 2.1. Các thành phần của Marketing-mix
Sản phẩm Phân phối Xúc tiến Giá cả
Chủng loại Vị trí các đại lý Quảng cáo Giá cơ sở
Chất lượng Loại đại lý Tiêu thụ cá nhân Điều kiện tín dụng
Nhãn hiệu Kho chứa hàng Bán trực tiếp Điều kiện chuyển giao
Bao bì
Sử dụng bởi nhà
bán buôn
Xúc tiến bán hàng Bảo hành
Dịch vụ
Sử dụng bởi nhà
bán lẻ
Công cộng Chiết giá và bớt giá
Giao hàng Đại lý độc quyền Quan hệ với công chúng Chiết khấu
27
* Chiến lược sản phẩm
Chiến lược sản phẩm luôn được coi là quan trọng nhất trong chiến lược
Marketing. Dưới góc độ kinh tế vĩ mô, chiến lược này bao gồm các nhiệm
vụ như phát triển sản xuất, kiểm tra chất lượng, định vị sản phẩm nhằm đáp
ứng hai mục tiêu chính: thứ nhất, mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường và
tăng số lượng sản phẩm bán ra; thứ hai, mục tiêu cân b
ằng hoạt động xuất
khẩu ra nước ngoài và sự ổn định của thị trường trong nước nhằm đảm bảo
an ninh lương thực.
* Chiến lược giá cả
Giá là một yếu tố rất quan trọng trong Marketing-mix. Chính sách giá
phải đảm bảo thu hút các thành phần kinh tế khác nhau tham gia vào thương
mại hoá sản phẩm nhằm mục đích đẩy mạnh xuất khẩu.
* Chiến lược phân phối
Là chiến lược bao gồm các vấn đề như thiết lập các kiểu kênh phân
phối, lựa chọn trung gian, thiết lập mối liên hệ trong kênh và toàn bộ mạng
lưới phân phối, các vấn đề dự trữ, kho bãi, phương thức vận chuyển... Hiểu
theo nghĩa rộng, phân phối có nghĩa là tập hợp tất cả các phương thức và
hoạt động chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người bán đến ngườ
i mua. Chiến
lược này chú trọng đến các mục tiêu:
+ Mở rộng thị trường tiềm năng.
+ Tăng cường chất lượng các kênh thương mại.
+ Giảm thiểu chi phí trong phân phối.
* Chiến lược xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh
Là chiến lược bao gồm mọi hoạt động nhằm truyền bá những thông tin
về sản phẩm như quảng cáo, kích thích tiêu thụ và các hoạt động khuyến mại
khác... tới người tiêu dùng. Chiến lược này nhằm đẩy mạnh các luồng thông
tin hai chiều giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng.
Như vậy, Marketing-mix là loại Marketing phối hợp hài hoà các yếu tố
cơ bản của nó sao cho phù hợp với điều kiện th
ực tế của môi trường kinh
doanh nhằm thu được lợi nhuận tối ưu.
Về nội dung có thể đưa ra mô hình sau:
28
MM
P
1
P
2
P
4
P
3
Đỉnh chóp của Marketing-mix toả ra 4 trục chính xuống các điểm của
4P là MM-P
1
, MM-P
2
, MM-P
3
, MM-P
4
. Như vậy, đỉnh chóp MM đã hình
thành sự phối hợp giữa các P. Do đó, tại bất kỳ điểm P nào cũng luôn luôn
có sự liên kết với các P khác. Mối liên kết giữa các P là mối liên hệ qua lại
hai chiều.
Nội dung phối hợp hài hoà 4P cần phải thực hiện đồng bộ theo một kế
hoạch thống nhất trong một thời gian nhất định nhằm đạt được hiệu quả
tối
ưu. Muốn có được sự phối hợp thành công phải hiểu rõ vai trò của từng yếu
tố P, vừa phát hiện kịp thời mối liên hệ, tương tác giữa chúng.
2.1.3. Vai trò của Marketing-mix trong kinh doanh
Theo định nghĩa về Marketing-mix thì đó là tập hợp những công cụ
được sử dụng để tạo sự thích ứng giữa sản phẩm và thị trường mục tiêu. Như
vậy, mục đích của Marketing-mix là
đảm bảo rằng sản phẩm có thể đáp ứng
được thị trường mục tiêu. Theo Kotler, 4P nằm dưới sự kiểm soát của người
bán (nhà xuất khẩu) và được sử dụng để tác động đến người mua. Theo quan
điểm của người mua (nhà nhập khẩu) thì mỗi công cụ của Marketing đều có
chức năng cung ứng một ích lợi cho khách hàng. Trong xuất khẩu nói chung
và xuất khẩu gạo nói riêng, nếu đáp
ứng được nhu cầu của khách hàng một
cách tinh tế, thuận tiện và thông tin hữu hiệu thì sẽ giành được thắng lợi.
Nói một cách khác, để tác động trực tiếp và có hiệu quả tới khách hàng thì
các thành phần của Marketing-mix phải được sử dụng một cách tổng hợp.
Marketing-mix được thiết kế theo những thủ tục sau: sản phẩm được
thu mua để đáp ứng nhu cầu của khách hàng (sản phẩm); địa
điểm mà khách
hàng sẽ tìm chúng (địa điểm) và khách hàng sẽ biết nó là loại sản phẩm gì,
nó hoạt động như thế nào (xúc tiến bán). Sau đó mức giá sẽ được ước lượng
với sự cân nhắc đến tổng lượng cung cấp cho khách hàng. Quyết định được
đưa ra liên quan đến cả 4 yếu tố trong Marketing-mix, bởi vì các yếu tố này
29
đều có ảnh hưởng đến quá trình Marketing và đều có những đóng góp cho
việc bán hàng.
2.2. Thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm
Marketing-mix
2.2.1. Sản phẩm
Trong 4 yếu tố của Marketing-mix, sản phẩm đóng vai trò quan trọng
nhất. Theo đề tài, sản phẩm được hiểu là các loại gạo xuất khẩu, phân tích
theo các bước cơ bản: quá trình sản xuất, chất lượng và chủng loại...
2.2.1.1. Sản xuấ
t lúa gạo - bước khởi đầu cho xuất khẩu
Sản xuất lúa gạo đóng một vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp
lương thực trong nước và tạo ra lượng gạo dư thừa dành cho xuất khẩu. Sản
xuất lúa gạo phụ thuộc vào các yếu tố chính như diện tích đất trồng, khí hậu,
nhân công, phân bón...
Là một nước nông nghiệp với 80% dân số sống và làm việc bằng nghề
nông, Việt Nam coi s
ản xuất lúa gạo là ngành sản xuất chính. Từ sau Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI năm 1986, với những thay đổi trong đường lối
chính sách, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất
lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng. Từ chỗ thiếu lương thực phải
nhập khẩu thường xuyên, sau năm 1989, Việt Nam đã tự túc được lương
thực và có khối lượng xuấ
t khẩu ngày càng tăng, đứng thứ hai, thứ ba trên
thế giới. Sản lượng lúa gạo tăng khá ổn định trên cả 3 mặt: diện tích, năng
suất, chất lượng và hiệu quả.
- Thứ nhất, về diện tích đất trồng, Việt Nam có gần 7 triệu ha đất dành
cho trồng trọt, chiếm 21% tổng diện tích của cả nước. Hai vựa lúa chính là
đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long đã chi
ếm tới 5,6 triệu
ha, trong đó đất trồng trọt chiếm diện tích lớn. Cụ thể đồng bằng sông Hồng
năm 1990 chiếm 17,5%, đến năm 1998 có giảm nhưng đồng bằng sông Cửu
Long tăng từ 42% lên 51,8%. Nhìn chung diện tích đất trồng lúa cả nước
tăng từ 5,89 triệu ha năm 1989 lên 7,33 triệu ha năm 1998, trung bình tăng
2,33%/năm.
- Thứ hai, về năng suất lúa cũng có những thay đổi đáng kể
. Từ mức 26,6
tạ/ha năm 1976-1980, năng suất lúa bình quân trên cả nước đã lên tới 32,5
tạ/ha năm 1981-1988; 34,8 tạ/ha năm 1989-1993; 38 tạ/ha năm 1994-1997
và 40 tạ/ha năm 2000, đạt nhịp độ tăng bình quân 4-5%/năm. Như vậy,
khoảng 42-44% sản lượng thóc tăng do tăng diện tích, còn lại do tăng năng
suất. Điều đó có được nhờ ứng dụng nhiều tiến bộ KHKT, nhất là những tiế
n
bộ về giống lúa có năng suất và chất lượng cao như CR 203, OM 80-81, IR
30
58, IR 64 và các giống lúa lai Trung Quốc. Từ đó đã có những thay đổi trong
cơ cấu mùa vụ, tránh né được nhiều thiệt hại do thời tiết gây ra.
- Thứ ba, về sản lượng lúa. Do năng suất và diện tích sản xuất tăng và
tăng với tốc độ khá cao nên sản lượng lúa của cả nước cũng tăng. Giai đoạn
1995-2000 sản lượng lương thực hàng năm của nước ta đạt trung bình 28,7
triệ
u tấn, cao nhất so với những năm trước. Cụ thể năm 1995 đạt 24,9 triệu
tấn, năm 1996 đạt 26,4 triệu tấn, năm 1997 đạt 27,6 triệu tấn, năm 1998 đạt
29,1 triệu tấn, năm 1999 đạt 31,4 triệu tấn, đặc biệt năm 2000 sản lượng lúa
lên tới 32,5 triệu tấn. Dự kiến năm 2001 con số này sẽ giảm nhẹ xuống 31,4
triệu tấn. Mặc dù tốc
độ tăng dân số ở nước ta còn cao nhưng tốc độ tăng
trưởng của sản lượng lúa tăng nhanh hơn tốc độ tăng dân số nên lương thực
bình quân đầu người cũng tăng qua các năm.
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu - Bộ thương mại
Nhìn chung, tình hình phát triển sản xuất lúa gạo ở Việt Nam trong
những năm qua có những dấu hiệu tích cực với những thành tích
đáng kể.
Có được thành công đó là do thay đổi kịp thời và đúng đắn trong cơ chế
quản lý, đặc biệt là cơ chế “khoán 10” năm 1988. Bên cạnh đó, những tiến
bộ trong các khâu cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá và nghiên cứu sinh học cải tạo
giống lúa đã góp phần không nhỏ vào việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, cơ
cấu mùa vụ, tăng diện tích đất gieo trồng, thâm canh tăng n
ăng suất lúa...
Tuy nhiên, dù đã có sự tiến bộ vượt bậc so với thời kỳ trước, sản xuất
lúa gạo ở nước ta vẫn còn biểu hiện những hạn chế khó tránh khỏi. Về mặt
kỹ thuật, dù đã áp dụng công nghệ mới nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu,
phải sử dụng lao động thủ công trên đồng ruộng. Năng suất lao động, chất
lượng s
ản phẩm tuy có sự cải thiện rõ nét nhưng vẫn còn thấp so với các
nước trong khu vực và trên thế giới. Chúng ta thường chú trọng đến việc tạo
ra số lượng gạo lớn nhằm đảm bảo an ninh lương thực trong nước và xuất
khẩu song lại không quan tâm nhiều đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm
BiÓu ®å 2.1: S¶n l−îng lóa qua tõng n¨m
0
5000000
10000000
15000000
20000000
25000000
30000000
35000000
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001
N¨m
S¶n l−îng (tÊn)
S¶n l−îng
31
để tạo sức cạnh tranh, nâng cao giá của mặt hàng gạo xuất khẩu trên thị
trường quốc tế.
Trong thời gian tới, sản xuất lúa gạo sẽ tập trung thực hiện ba mục tiêu:
đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia, thoả mãn nhu cầu lương
thực cho tiêu dùng trong bất cứ tình huống nào; đảm bảo đủ nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến và tăng khối lượng xuất khẩ
u với hiệu quả cao.
2.2.1.2. Chất lượng gạo xuất khẩu
* Chất lượng
Tuy trong những năm gần đây Việt Nam đạt vị trí cao về số lượng gạo
xuất khẩu nhưng về chất lượng thì có nhiều yếu kém. Chất lượng của gạo
nói chung phụ thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên và tác động của con
người như đất đai, khí hậu, nước tưới, phân bón, giống lúa, chế biến, vận
chuyển, bảo quản... mà quan trọng nhất là giố
ng lúa, các phương pháp sản
xuất và các khâu sau thu hoạch.
- Về giống lúa: từ nhiều năm qua, Việt Nam đã nghiên cứu, chế tạo và áp
dụng nhiều giống lúa mới cho năng suất cao, chất lượng tốt và có khả năng
chống chịu giỏi với tình hình thời tiết, thiên tai, sâu bệnh. Tuy nhiên, các
giống lúa làm hàng xuất khẩu đòi hỏi những yêu cầu cao hơn các loại khác.
Ví dụ như đồng bằng sông Cửu Long - chi
ếc nôi sản xuất gạo của nước ta -
có tới 70 giống lúa khác nhau thì chỉ có 5 giống lúa có thể làm hàng xuất
khẩu được là IR 9729, IR 64, IR 59606, OM 132, và OM 997-6. Tương tự
như vậy, ở miền Bắc, lượng giống lúa cũng dừng lại ở con số 5 gồm C70,
C71, CR 203, Q5, IR 1832 là đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, trên tổng số lượng
giống lúa gieo trồng khá phong phú. Qua đó cho thấy, giống lúa kém chất
lượng là một nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng
đến chất lượng của gạo
xuất khẩu Việt Nam. So sánh với các quốc gia xuất khẩu gạo lớn trên thế
giới như Thái Lan, Ấn Độ thì thấy được rằng họ có những giống lúa có thể
cho gạo có chất lượng cao hơn nhiều. Điển hình là Thái Lan, cường quốc
hàng đầu về xuất khẩu gạo, với giống lúa Khaodaumali chất lượng cao, với
sản lượng xuất m
ột năm là 1,2 triệu tấn. Ấn Độ cũng rất tự hào với gạo
Basmati, một loại gạo thơm đặc sản, đang cạnh tranh gay gắt với hàng của
Thái Lan và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của
nước này.
- Về phương pháp sản xuất và các khâu sau thu hoạch, khâu đóng vai trò
khá quan trọng, quyết định tới chất lượng gạo xuất kh
ẩu cũng còn nhiều bất
cập. Dù đã áp dụng các phương pháp mới vào trong sản xuất nhưng không
toàn bộ nên rất dễ ảnh hưởng đến chất lượng khi thu hoạch. Sau khi gặt hái,
hạt thóc phải được xay xát, chế biến, bảo quản tốt nhằm làm tăng giá trị. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy ngành công nghiệp xay xát chế biến lúa gạo ở nước
32
ta còn nhỏ bé và thường áp dụng những công nghệ lạc hậu. Cụ thể, công
việc ở một số khâu được tiến hành như sau:
Phơi sấy
: giai đoạn này phụ thuộc chủ yếu vào hệ thống kho chứa và cách
thức bảo quản, nhất là đối với một nước có khí hậu nhiệt đới như ở Việt
Nam. Kỹ thuật phơi nói chung thường rất lạc hậu, nông dân thường làm theo
cách thủ công. ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi cung cấp tới 90% lượng gạo
xuất khẩu thì cũng phải trên 90% phơi thóc trên đường giao thông, bờ kênh
rạch, ngay trên ruộng và phơi qua đêm. Cách phơi này rất bị động, lại gây
tình trạng lẫn lộn, lẫn tạp và nhất là hạt thóc không khô đều từ ngoài vào
trong nên khi xay xát tỷ lệ gạo gãy, gạo tấm cao làm giảm giá trị hạt gạo.
Hiện nay trong nước đã có nhiều loại máy sấy có chất lượng tốt, song vì chi
phí cao (cả đầu tư ban đầu cũng như năng lượng cho quá trình sấy), thời gian
sử dụ
ng lại ngắn, chỉ phù hợp với điều kiện sản xuất hàng hoá lớn nên chưa
phát triển.
Bảo quản
: thóc sau khi phơi khô phải được bảo quản nơi thoáng mát,
trong những bao bì sạch, có khả năng hạn chế ẩm, mốc, sâu mọt. Nông dân
thường bảo quản tại nhà. Ở đồng bằng sông Hồng, nông dân thường sử dụng
các kho không có hệ thống thông hơi và các thiết bị bảo vệ chống côn trùng
và chuột. Hơn nữa, khí hậu ở khu vực này rất khắc nghiệt với nhiệt độ trung
bình là 26-28
0
C và lên tới 36-37
0
C vào mùa hè; độ ẩm là 80%, có lúc tới
100% nên khó có thể bảo quản tốt lúa gạo xuất khẩu.
Các doanh nghiệp thường có kho lớn hơn. Tuy nhiên, mạng lưới kho từ
lâu năm, một số không phù hợp, chất lượng kho kém, thiếu phương tiện bốc
dỡ và hầu hết vẫn dùng lao động thủ công.
Xay xát, tái chế
: công nghiệp xay xát đóng vai trò rất quan trọng đối với
chất lượng gạo xuất khẩu. Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, hiện nay có hơn 300 cơ sở xay xát quy mô vừa và 6.000 cơ sở
quy mô nhỏ có thể xử lý 15 triệu tấn gạo mỗi năm. Phần lớn các cơ sở này
sử dụng máy xát do các doanh nghiệp nhà nước cung cấp, một số khác thì
nhập khẩu từ nước ngoài. Tỷ
lệ thu hồi gạo ở các cơ sở xay xát tư nhân chỉ
đạt 60-62% trong đó gạo nguyên 42-45%, tấm 18-20%. Như vậy, khâu xay
xát ở khu vực này nghiễm nhiên làm mất đi trên dưới 10% giá trị do chất
lượng gạo giảm. Chỉ các nhà máy thuộc Tổng công ty lương thực và công ty
lương thực ở các tỉnh được trang bị máy tốt, các công đoạn được thực hiện
hoàn chỉnh từ đầu đến cuối (loại b
ỏ tạp trước khi xay, bóc vỏ trấu, xát trắng,
đánh bóng gạo, phân loại gạo, tách màu và đóng bao) nên đạt tỷ lệ thu hồi
gạo tới 75-76% (gạo nguyên 52-55%).
Nhìn chung, công đoạn sau thu hoạch ở Việt Nam vẫn còn những yếu
kém. Theo những ghi nhận từ cuộc điều tra của Viện nghiên cứu sau thu
hoạch, những khu vực mục tiêu của đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng
33
sông Hồng và miền Trung thì tỷ lệ thất thoát của gạo là từ 13% đến 16%.
Đây là một tỷ lệ cao so với trung bình của thế giới (10%). Do đó thực tiễn
đòi hỏi chúng ta cần nâng cao hơn nữa các phương pháp xử lý gạo sau khi
thu hoạch qua tất cả các công đoạn như trang bị, làm mới công nghệ, cung
cấp các thiết bị hiện đại... Như vậy mới có thể giảm tỷ lệ th
ất thoát, tăng chất
lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo xuất khẩu Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
* Tỷ lệ tấm và các chỉ tiêu khác
Chất lượng gạo xuất khẩu phụ thuộc vào các tiêu thức khác nhau để
đánh giá. Trên thương trường gạo quốc tế, gạo được phân ra 5 loại thị hiếu,
mỗi loại có chất lượng khác nhau dựa trên các chỉ tiêu: tỷ lệ tấm, kích thước
hạt, độ ẩm, mức độ đánh bóng, tỷ lệ amylaza, tỷ lệ protein, nhiệt hồ hoá, mùi
thơm... và ứng với mỗi loại chất l
ượng sẽ có giá mua khác nhau. Trong hoàn
cảnh cụ thể của Việt Nam là nước mới xuất khẩu gạo từ 1989 thì bước đầu
các doanh nghiệp chỉ quan tâm tới tỷ lệ tấm, kích thước hạt và màu gạo. Đối
với chỉ tiêu tỷ lệ tấm, nếu gạo đạt tỷ lệ dưới 10% được coi là chất lượng cao,
10-15% là chất lượng trung bình và trên 15% là chất lượng thấp.
Bảng 2.2. Chất lượng gạo xuất khẩu (1989-2001)
(% so với tổng số lượng xuất khẩu năm đó)
Năm/Tỷ lệ % tấm Cấp cao (5-10%)
Cấp trung bình
(15%)
Cấp thấp (25-30%)
và loại khác
1989-1995 (*) 41,20 14,15 44,65
1996 45,50 11,00 43,50
1997 41,00 9,00 50,00
1998 53,00 11,00 36,00
1999 34,78 23,34 41,88
2000 42,68 26,24 31,08
2001 (đến 31/8) 39,00 13,20 47,80
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu-Bộ Thương mại
Năm 1989 là năm đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo, chủ yếu là gạo cấp
thấp (97,42%) còn gạo cấp trung bình và gạo cấp cao chiếm tỷ lệ ít. Đó là do
những đầu tư về mặt kỹ thuật và chế biến của chúng ta có nhiều hạn chế dẫn
đến tỷ lệ tấm là 35% trong gạo, chiếm t
ỷ trọng lớn nhất trong khối lượng