Luận văn tốt nghiệp "Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix"
5,421
934
105
14
Nam Á 2.765 110.412 113.711 114.989
Châu Á còn lại 10.370 236.025 241.852 238.692
Châu Đại
Dương
288 608 670 706
Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu–Bộ Thương mại
Châu Á luôn là khu vực nhập khẩu gạo nhiều nhất với khoảng hơn 55%
lượng gạo nhập khẩu toàn thế giới nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ tại các
nước này. Châu Phi chiếm tỷ trọng hơn 20% lượng gạo nhập khẩu và có
chiều hướng tăng lên trong thời gian qua tuy mức tăng không lớn. Trên thực
tế
các nước nghèo ở châu lục này tiêu dùng gạo khá nhiều nhưng khả năng
tài chính lại bị hạn chế rất đáng kể. Do vậy, ở các nước này tuy thiếu gạo
nhưng khả năng nhập khẩu có hạn. Châu Mỹ cũng có khối lượng nhập khẩu
chiếm khoảng 20% với nhu cầu ổn định và có xu hướng tăng lên.
Nhập khẩu gạo trên thế giới cũng biến động theo nhóm n
ước. Tuỳ theo
mức độ thường xuyên, các nước chia theo hai nhóm: nhóm nước nhập khẩu
gạo thường xuyên và không thường xuyên. Nhóm thứ nhất bao gồm các
nước luôn có nhu cầu nhập khẩu gạo do mất cân đối giữa sản xuất và tiêu
dùng, sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu về gạo. Nhóm nước này bao gồm
Malaixia (hàng năm cần nhập khoảng 400 ngàn tấn), Canađa (180 ngàn tấn),
Angiêri (250 ngàn tấn)... Nhóm thứ hai bao gồm những nước sả
n xuất gạo
nhưng không thường xuyên cung cấp đủ cho tập quán tiêu dùng trong nước.
Lượng gạo nhập khẩu ở các nước này không đều qua các năm. Tiêu biểu cho
nhóm này là Inđônêxia, Trung Quốc, Nhật Bản...
* Một số nước nhập gạo chủ yếu trên thế giới
1) Inđônêxia
Hiện nay, nước nhập khẩu gạo lớn nhất thế giới là Inđônêxia. Dù đã sản
xuất một lượng gạo không nhỏ cho tiêu dùng nhưng Inđônêxia vẫn phải
nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đảm bảo an ninh lương thực.
Đặc biệt vào năm 1995, nhập khẩu gạo của nước này tăng vọt lên tới 3,2
triệu tấn do chính sách dự trữ gạo c
ủa Nhà nước và tốc độ tăng nhanh của
dân số. Đến năm 1998, Inđônêxia tiếp tục nhập gạo với sản lượng 6,1 triệu
tấn cho tiêu dùng sau mất mùa. Năm 2000, Chính phủ Inđônêxia tăng thuế
nhập khẩu từ 0% lên 35% và cho phép tư nhân tự do nhập khẩu gạo nhưng
cấm các loại gạo chất lượng thấp. Tổng số lượng nhập khẩu năm 2000 giảm
xuống là 1,3 tri
ệu tấn, bằng 1/3 so với năm 1999 (3,9 triệu tấn). Năm 2001,
dự đoán nước này cũng chỉ nhập khẩu khoảng hơn một triệu tấn gạo.
15
2) Iran
Trong nhiều năm qua, Iran thường xuyên nhập khẩu gạo với số lượng
khá ổn định, đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Inđônêxia. Năm 1999, Iran
nhập 1,0 triệu tấn, năm 2000 tăng lên 1,1 triệu tấn và ước tính năm 2001 sẽ
lại giảm xuống mức 1,0 triệu tấn. Các số liệu trên đã cho thấy mức nhập
khẩu tương đối cố định của đất n
ước này. Với số dân 70 triệu, dự đoán trong
tương lai, Iran vẫn là nước nhập khẩu gạo lớn và có khả năng thanh toán
cao. Nhà cung cấp gạo chủ yếu của Iran là Thái Lan, Việt Nam, Pakistan.
3) Trung Quốc
Là nước sản xuất gạo lớn nhất thế giới nhưng Trung Quốc vẫn phải
nhập khẩu nhằm đảm bảo nhu cầu trong nước. Năm 2000, Trung Quốc nhập
khẩu 238.598 tấn gạo, tăng 42% so với năm 1999, trong đó hầu hết là gạo có
chất lượng cao của Thái Lan. Nhập khẩu tăng do sản lượng gạo Trung Quốc
giảm và tiêu dùng của người dân đối với gạ
o thơm tăng lên. Khi tham gia
vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), nhập khẩu gạo sẽ tăng nhẹ do
Trung Quốc ban đầu phải nhập khẩu gần 3 triệu tấn mỗi năm nếu giá trị thị
trường phù hợp với họ. Đến năm 2004, hạn ngạch nhập khẩu dự kiến sẽ tăng
tới 5,38 triệu tấn.
4) Braxin
Đây là nước duy nhất ở khu vực Nam Mỹ có mức nhập khẩu gạo khá
lớn. Tình hình nhập khẩu mặt hàng này ở Braxin trong đối ổn định và có xu
hướng tăng trong thời gian qua. Cụ thể năm 1989, lượng nhập khẩu của
Braxin là 0,5 triệu tấn, năm 1998 tăng lên 1,2 triệu tấn. Năm 1999, nước này
tiếp tục là nước nhập khẩu gạo lớn trên thế giới với mức nhập kho
ảng 1 triệu
tấn. Năm 2000, sản lượng nhập khẩu giảm xuống còn 0,7 triệu tấn và sẽ tiếp
tục giảm trong năm 2001.
1.1.2.3. Tình hình xuất khẩu gạo trên thế giới những năm qua
* Tình hình chung
Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, tổng lượng gạo
xuất khẩu của thế giới trong những năm gần đây tăng và tăng khá. Nếu như
năm 1975, thế giới xuất khẩu chỉ có 7,7 triệu tấn gạo thì năm 1989 số lượng
gạo xuất khẩu đạt 13,9 triệu tấn, mức cao nhất so với các năm tr
ước đó. Tuy
nhiên, trong hai năm tiếp theo, số lượng gạo xuất khẩu giảm xuống còn 11,6
16
triệu tấn và 12,1 triệu tấn. Đến năm 1998, số lượng gạo xuất khẩu tăng cao
nhất là 27,7 triệu tấn. Trong 3 năm qua, sản lượng gạo xuất khẩu có xu
hướng giảm xuống: năm 1999 là 24,9 triệu tấn, năm 2000 là 22,9 triệu tấn và
dự báo năm 2001 là 22,2 triệu tấn. Nhìn chung, mức tăng trưởng chưa thật
ổn định, có năm giảm so với năm trước và chưa thực sự
phản ánh khả năng
dư thừa của những nước xuất khẩu và sự biến động không ngừng tình hình
cung cầu của thị trường gạo trên thế giới. Số lượng xuất khẩu gạo của thế
giới tăng lên nhờ những cải biến về mặt kỹ thuật, giống lúa và các chính
sách mới của các nước xuất khẩu gạo làm cho lượng gạo có xu hướng t
ăng
lên trong những năm gần đây.
Xuất khẩu gạo thế giới tập trung ở một số nước đang phát triển, chiếm
75% đến 80% tổng số lượng xuất khẩu. Là châu lục sản xuất và tiêu thụ gạo
nhiều nhất, với tiềm năng, điều kiện thời tiết thuận lợi cho việc trồng lúa,
châu Á vẫn luôn là khu vực xuất khẩu nhiều nh
ất. Bình quân hàng năm, châu
Á cung cấp khoảng 70% lượng gạo xuất khẩu cho thị trường thế giới, đồng
thời còn là nơi tập trung hầu hết các nước có thế mạnh về gạo như Thái Lan,
Việt Nam, Ấn Độ, Trung Quốc....
* Các nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới
1) Thái Lan
Tuy Thái Lan không phải là nước sản xuất gạo lớn trên thế giới nhưng
lại là nước có số lượng gạo xuất khẩu nhiều và ổn định nhất, đồng thời có
tốc độ tăng trưởng cao, gần 10%/năm. Từ năm 1977 đến nay, cụ thể vào
năm 1998 Thái Lan xuất khẩu 6,4 triệu tấn, năm 1999 đạt con số kỉ lục là 6,7
triệu tấn (25% lượng xuất khẩ
u toàn thế giới), năm 2000 số lượng xuất khẩu
đạt hơn 6,5 triệu tấn, giảm nhẹ so với năm trước do ảnh hưởng của lũ lụt và
bão nhiệt đới tại miền Đông Bắc. Trong tình hình giá cả quốc tế biến động
mà trong nước lại bội thu, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện chương trình
can thiệp để ổn định giá gạo trong nước, giúp nông dân duy trì phát triển
trồng lúa. Các t
ổ chức quốc doanh Thái Lan đã mua gạo lưu kho và thực
hiện chính sách cho nông dân vay tín dụng dài hạn với lãi suất thấp. Chính
phủ Thái Lan đã thực hiện kế hoạch để phát triển ngành gạo, đặc biệt tập
trung vào thị trường gạo Jasmine, loại gạo đặc sản và là thế mạnh của Thái
Lan.
Năm 2001, dự kiến tổng xuất khẩu của Thái Lan đạt 6,7 triệu tấn.
Chiến lược xuấ
t khẩu gạo Thái Lan gồm 3 điểm chính. Đối với sản xuất,
Thái Lan tiến hành nghiên cứu để giảm thất thoát trong quá trình thu hoạch.
17
Đối với thương mại và thị trường, Thái Lan áp dụng triệt để Marketing-mix,
tập trung tuyên truyền dùng gạo Hương nhài, xúc tiến bảo vệ và tăng chất
lượng gạo. Đối với chính sách gạo, Nhà nước phối hợp với tư nhân soạn
thảo chính sách khép kín từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị cho tới chế biến.
Với vị trí đứng đầu xuất khẩu gạo, Thái Lan luôn chi phối sâu sắ
c tình
hình biến động cung cầu và giá cả trên thị trường thế giới. Về chất lượng,
gạo Thái Lan có nhiều loại, đặc biệt là các loại gạo đặc sản được ưa chuộng
ở khắp nơi và được xuất đi nhiều nước. Thái Lan cũng là đối thủ cạnh tranh
mạnh nhất của Mỹ trên thị trường loại gạo hạt dài và chất lượng cao, đồng
thời c
ũng cung cấp cho cung gạo của thế giới gần 1/3 tổng lượng gạo chất
lượng thấp. Thị phần của Thái Lan nhìn chung tương đối ổn định. Giá bán
thường cao hơn so với các nước xuất khẩu gạo khác như Việt Nam hay
Pakistan. Giá chuẩn quốc tế cũng thường căn cứ vào giá gạo của Thái Lan
(FOB Băngcốc).
2) Trung Quốc
Không chỉ là một nước sản xuất, tiêu dùng, nhập khẩu gạo lớn trên thế
giới, Trung Quốc cũng là nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Trung Quốc
nhập khẩu gạo chất lượng cao song xuất khẩu gạo có chất lượng bình thường
hoặc thấp. Năm 2000, mặc dù có hạn hán, quốc gia này đã vươn lên thứ ba
trong số các nước xuất khẩu gạo với số
lượng là 2,95 triệu tấn, chỉ sau Thái
Lan và Việt Nam, tăng 9% so với năm 1999 (2,7 triệu tấn) nhưng giảm so
với mức 3,7 triệu tấn năm 1998. Vị trí này không ổn định trong các năm do
sự biến động thất thường giữa cung cầu gạo của nước này. Dự kiến năm
2001, Trung Quốc sẽ tiếp tục giảm số lượng xuất khẩu xuống còn 1,8 triệu
tấn. Tuy nhiên, với ư
u thế giá gạo rẻ và chất lượng ngày một được cải thiện,
gạo Trung Quốc đã có chỗ đứng trên thị trường thế giới, đặc biệt là tại châu
Phi và Nhật Bản.
3) Mỹ
Năm 2000, số lượng xuất khẩu gạo của Mỹ đạt 2,76 triệu tấn, đứng thứ
tư trong số các nước xuất khẩu gạo. Tuy nhiên, những năm trước đây, Mỹ
vẫn đứng thứ hai trên thế giới sau Thái Lan mặc dù chỉ chiếm khoảng 1,5%
tổng số lượng lúa toàn cầu và xếp thứ 11 về sản xuất gạo.
Là nước xuất khẩu gạo truyề
n thống với thị trường rộng lớn trên khắp
các châu lục, chất lượng gạo của Mỹ nổi tiếng là cao (loại A), đứng đầu thế
giới và có sức cạnh tranh ưu việt hơn hẳn các loại gạo khác, kể cả của Thái
18
Lan. Trong những năm đầu thập niên 90, Mỹ cung cấp khoảng 20% thị phần
gạo thế giới mà chủ yếu là các nước Mỹ Latinh (Mêhicô và Braxin). Xuất
khẩu gạo của Mỹ có được thành công nhờ vào hai lợi thế:
+ Thứ nhất, sự phát triển vượt bậc về công nghệ sản xuất, chế biến đến
bảo quản. Mỹ có hệ thống lưu kho dự trữ lớn nên gạo xu
ất khẩu luôn được
đảm bảo về mặt chất lượng, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe nhất của
các nước nhập khẩu. Mỹ có thể xuất khẩu gạo ở các giai đoạn khác nhau của
quá trình chế biến, ở mọi chất lượng khác nhau cũng như đáp ứng mọi hình
thức bao gói hay chuyên chở.
+ Thứ hai, sức mạnh kinh tế, chính trị và các mối quan hệ
với bạn hàng.
Gạo xuất khẩu của Mỹ được coi là “nông phẩm chính trị” và nằm trong cơ
chế bảo hộ của Nhà Trắng với nhiều chính sách như chính sách trợ cấp thu
nhập, chính sách trợ giá xuất khẩu hay cấp tín dụng xuất khẩu... Chính phủ
Mỹ thực hiện chính sách can thiệp mạnh vào giá gạo, cả trong nước và xuất
khẩu. Mỹ đã sử dụng gạo như mộ
t vũ khí để thực hiện mục tiêu đối ngoại
của mình trong các quan hệ kinh tế như việc gây áp lực đối với mở cửa thị
trường gạo của Nhật Bản và liên minh châu Âu.
Năm 2001, do những biến cố suy thoái kinh tế, đặc biệt vụ khủng bố
ngày 11 tháng 9 và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới, dự đoán số
lượng xuất khẩu của Mỹ
sẽ giảm xuống còn 2,6 triệu tấn và sẽ gặp khá nhiều
khó khăn trong xuất khẩu mặt hàng này.
4) Pakistan
Là quốc gia nằm trong khu vực Nam Á, với số dân gần 150 triệu người,
Pakistan có truyền thống xuất khẩu gạo từ nhiều thập kỷ nay, với lượng gạo
trung bình trong thời gian gần đây là 2 triệu tấn. Xuất khẩu gạo của nước
này tương đối ổn định với các loại gạo chất lượng trung bình và khá. Những
năm gần đây, xuất khẩu của Pakistan tăng nhẹ
. Cụ thể là năm 1998 số lượng
gạo xuất khẩu là 1,8 triệu tấn, 1999 là 1,85 triệu tấn, 2000 là 2 triệu tấn và
dự đoán trong năm 2001 sẽ là 2,25 tấn, chiếm hơn 10% tổng lượng gạo xuất
khẩu toàn thế giới.
5) Ấn Độ
Ấn Độ là một quốc gia luôn ở trong tình trạng thiếu lương thực. Từ
trước đến nay, Ấn Độ phải nhập khẩu một lượng gạo lớn chất lượng thấp
nhưng đồng thời cũng xuất khẩu gạo Basmati, một loại gạo đặc sản, sang các
thị trường châu Á và châu Phi, đặc biệt là thị trường Trung Đông. Những
năm gần đây, số l
ượng gạo xuất khẩu của Ấn Độ không ổn định do gặp
19
nhiều thiên tai. Hoạt động xuất khẩu gạo của Ấn Độ đang có khó khăn vì
Bănglađét, thị trường tiêu thụ gạo phẩm cấp thấp chủ yếu của Ấn Độ, bắt
đầu thực hiện thả nổi việc đấu thầu mua gạo từ tháng 1/2000 với điều kiện
thanh toán nghiêm ngặt. Cụ thể là số lượng gạo xuất khẩu của
Ấn Độ từ 4,5
triệu tấn năm 1998, chiếm 16,2% tổng lượng gạo xuất khẩu toàn thế giới,
năm 1999 còn 2,4 triệu tấn, năm 2000 chỉ còn 1,3 triệu tấn.
Hiện nay, Bộ Thương mại Ấn Độ thông báo sẽ tiến hành thử nghiệm
AND để đảm bảo sự thuần chủng cho giống gạo Basmati Ấn Độ và sẽ
khuyến khích xuất khẩu gạo cao cấp này. Bên cạnh
đó, Ấn Độ cho phép
Tổng công ty lương thực quyết định giá xuất khẩu song không được thấp
hơn giá bán cho người dân Ấn Độ sống dưới mức nghèo khổ. Các nhà xuất
khẩu Ấn Độ cho rằng gạo Ấn Độ có cơ hội thâm nhập vào các thị trường
nước ngoài nếu như giá thấp như giá các xuất xứ khác. Bộ Thương mại Ấn
Độ cũng đã xem xét kế hoạ
ch xoá bỏ hạn chế xuất khẩu đối với các sản
phẩm như gạo, lúa mì, đường và hành. Gạo xay xát hiện đang được tự do
xuất khẩu, mặc dù các tư nhân muốn xuất khẩu vẫn buộc phải đăng ký hợp
đồng với Cơ quan phát triển nông nghiệp và xuất khẩu thực phẩm chế biến.
Hiện tại, Ấn Độ đang thu hút các nhà nhập khẩu gạo như
Nam Phi, Nigiêria,
Arập-Xêút. Mục tiêu của Ấn Độ trong những năm tới là giảm bớt chi phí của
Chính phủ, khuyến khích xuất khẩu và bảo đảm an toàn lương thực, đặc biệt
là cố gắng xuất khẩu 3 triệu tấn gạo vào niên vụ 2000/2001.
1.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam
1.2.1. Vị trí chiến lược của xuất khẩu gạo trong nền kinh tế quốc dân
Việt Nam là một nước
đông dân, trong đó gạo là lương thực chính và
khó có thể thay thế. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của sản xuất gạo đối
với nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó, khi đất nước đã có thể đảm bảo an
ninh lương thực, xuất khẩu gạo trong điều kiện kinh tế hiện nay có ý nghĩa
quyết định đối với quá trình hội nhập của nước ta và được thể
hiện trên
nhiều khía cạnh, mà chủ yếu là:
1.2.1.1. Xuất khẩu gạo tăng thu ngoại tệ, tích luỹ vốn cho quá trình Công
nghiệp hoá- Hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước
Quá trình CNH-HĐH đất nước được xác định tiến hành lâu dài và theo
những bước đi thích hợp. Để tiến hành thành công quá trình này, cần huy
động tối đa mọi nguồn lực của quốc gia, trong đó vốn là một yếu tố vô cùng
quan trọng. Có vốn m
ới có thể xây dựng cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc
20
thiết bị tiên tiến, hiện đại, đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực... Vốn thường
được huy động từ nhiều nguồn khác nhau: đầu tư nước ngoài, du lịch, vay
vốn trong dân, xuất khẩu... trong đó vốn thu được từ hoạt động xuất khẩu có
tác động lớn đến hoạt động nhập khẩu, qua đó đẩy mạnh tiến trình CNH-
HĐH đất nước.
Trong tổng kim ng
ạch xuất khẩu của nước ta những năm gần đây, kim
ngạch từ xuất khẩu gạo chiếm một tỷ trọng khá lớn. Gạo đã trở thành một
mặt hàng chủ lực của nông sản Việt Nam trên trường quốc tế. Thực tế cho
thấy xuất khẩu gạo từ lâu đã mang lại một nguồn vốn không nhỏ cho nước
ta. Theo số liệu mớ
i nhất của Bộ Thương mại, trong suốt 11 năm từ 1989
đến 2000, tổng kim ngạch mà xuất khẩu gạo mang lại đạt gần 7 tỷ USD,
chưa kể đến xuất khẩu tiểu ngạch sang các nước láng giềng như Trung
Quốc, Lào, Campuchia. Như vậy, gạo đã chiếm tới khoảng 16% tổng kim
ngạch xuất khẩu của cả nước, một tỷ lệ không nhỏ đối vớ
i riêng một mặt
hàng trong rất nhiều mặt hàng xuất khẩu khác.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gạo đối với quá trình CNH-HĐH
đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng hơn tới tăng cường áp dụng
công nghệ tiên tiến vào sản xuất, đặc biệt chú ý tới những giống lúa có chất
lượng và cho năng suất cao, đồng thời đẩy mạnh hơn nữa xuất khẩu gạo
nhằm đem lại nguồn vốn lớn phục vụ công cuộc đổi mới đất nước.
1.2.1.2. Xuất khẩu góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thúc đẩy
sản xuất phát triển
Khi Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu gạo đồng nghĩa với việc tăng cường
sản xuất theo quy mô vùng. Hiện nay, ở nước ta đã và đang hình thành
những vùng lúa tập trung chuyên sả
n xuất gạo xuất khẩu bao gồm cả hai khu
vực chủ yếu là đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Mỗi
vùng phù hợp với những loại giống lúa khác nhau. Như vậy, cơ cấu nông
nghiệp sẽ thay đổi phát huy theo lợi thế của từng vùng.
Khi đẩy mạnh xuất khẩu gạo, cơ cấu ngành nghề cũng sẽ thay đổi.
Hàng loạt các nghề phụ liên quan đến sả
n xuất và chế biến gạo như xay sát,
bảo quản, đánh bóng... cũng phát triển theo. Đây là điều kiện thuận lợi đối
với nền kinh tế dư thừa lao động như nước ta, giảm đáng kể tỷ lệ thất nghiệp
trong nông thôn và góp phần cải thiện đời sống nhân dân.
Trong những năm gần đây, sản lượng lúa thu hoạch tăng cao. Xuất
khẩu gạ
o tạo điều kiện mở rộng tiêu thụ sản phẩm, tránh ứ đọng, tồn kho.
Khi khâu tiêu thụ được giải quyết sẽ tạo tâm lý an tâm, khuyến khích nông
21
dân tăng cường, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Như vậy,
xuất khẩu đã tác động ngược trở lại đối với sản xuất, là một tiền đề cho sản
xuất phát triển, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp và khả năng tiêu
dùng của một quốc gia như Việt Nam.
Khi tham gia xuất khẩu gạo, Việt Nam có
điều kiện cạnh tranh, cọ xát
với các sản phẩm cùng loại trên thị trường quốc tế. Đây vừa là thuận lợi, vừa
là khó khăn đối với mặt hàng gạo của Việt Nam vì chất lượng của ta còn
kém hơn so với các nước xuất khẩu khác, đặc biệt là Thái Lan. Tuy nhiên,
để đảm bảo sự tồn tại của gạo Việt Nam trên thị trường, các doanh nghiệp
buộc phả
i tổ chức, xem xét lại khâu sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất
thích hợp, hạ giá thành sản phẩm đồng thời nâng cao chất lượng. Các kênh
phân phối cũng phải tổ chức lại một cách hợp lý, giảm thiểu chi phí nhằm
mang lại lợi nhuận tối đa.
1.2.1.3. Xuất khẩu gạo tác động tích cực đối với việc giải quyết công ăn việc
làm và cải thiệ
n đời sống của nhân dân
Như trên đã phân tích, khi xuất khẩu gạo được đẩy mạnh sẽ kéo theo
những ngành nghề khác hỗ trợ cho sản xuất như các hoạt động thương mại,
dịch vụ bao gồm các công đoạn tổ chức thu mua thóc từ nông dân, tạo đầu
vào cho xuất khẩu. Các hoạt động này nếu được được tiến hành tốt, có sự chỉ
đạo đúng đắn sẽ t
ạo ra sự khai thông đầu ra cho sản phẩm thóc của nhân dân
ở thời vụ thu hoạch, kích thích nông dân canh tác, nâng cao năng suất. Từ đó
tác động trở lại đối với sản xuất và xuất khẩu. Như vậy, không chỉ sản xuất
gạo xuất khẩu có thể giải quyết việc làm, tạo thu nhập ổn định cho nhiều lao
động mà những ngành nghề khác có liên quan cũng góp phần giảm tỉ lệ thất
nghi
ệp của nước ta.
Xuất khẩu gạo tạo một thị trường trong nước ít biến động, cân bằng
được cung cầu, không còn lượng hàng dư thừa và tồn kho trong nước, giá
gạo nội địa sẽ ổn định và cao hơn tạo thêm thu nhập cho người nông dân.
Khi xuất khẩu gạo thu được thêm ngoại tệ một phần để nhập khẩu các mặt
hàng tiêu dùng mà trong nước không sản xuất được. Điề
u đó góp phần cải
thiện đáng kể đời sống nhân dân, khuyến khích họ tăng cường sản xuất gạo
xuất khẩu nhiều hơn nữa.
Xuất khẩu gạo tạo sự phân công lao động hợp lý trên phạm vi toàn thế
giới. Dựa vào lợi thế so sánh tương đối đối với các loại gạo Việt Nam,
chúng ta cần biết sản xuất loại gạo nào đạt hiệ
u quả cao nhất và có khả năng
bán với số lượng lớn, giá cao. Tham gia vào thị trường bên ngoài rộng lớn,
22
chúng ta hiểu rõ hơn về nhu cầu người tiêu dùng và khả năng cung cấp của
các nước xuất khẩu khác để điều chỉnh định hướng xuất khẩu cho phù hợp
với hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của nước ta.
1.2.2. Tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam trong những năm qua
1.2.2.1. Tình hình chung
Nếu nhìn lại giai đoạn trước đổi mới, khi cả nước ta lâm vào cảnh thiế
u
đói triền miên, các gia đình luôn phải tích trữ lương thực, trộn lẫn các loại
gạo, sắn, khoai... trong mỗi bữa ăn thì mới thấy được thành công to lớn của
ngành lương thực nước ta trong suốt thời gian qua. Dưới cơ chế tập trung
bao cấp, sản xuất nông nghiệp nước ta mang nặng tính tự cấp tự túc, sản
xuất không đủ tiêu dùng, thiếu lương thực trở thành vấn đề quan tâm hàng
đầu c
ủa Đảng và Nhà nước. Từ khi thực hiện đổi mới sau nghị quyết 10 của
Bộ Chính trị về đổi mới kinh tế nông nghiệp đến nghị quyết 6 của Ban chấp
hành Trung ương khoá VI, cùng với việc ban hành một loạt các chính sách
kinh tế mới, nông nghiệp nước ta đã có nhiều khởi sắc. Cơ chế của nền nông
nghiệp từ tự cung tự cấp chuyển sang sản xuất hàng hoá theo hướ
ng CNH-
HĐH đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, đặc biệt là trong xuất khẩu
gạo.
Năm 1989 là năm đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử xuất khẩu gạo của
nước ta, khi Việt Nam đứng ở vị trí thứ 3, sau Thái Lan và Mỹ, trong số
những nước xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Số lượng gạo xuất khẩu
t
ăng dần từ 1,327 triệu tấn vào năm 1989 lên tới 1,478 triệu tấn năm 1990,
giảm nhẹ vào năm 1991 với 1 triệu tấn do những biến động từ thị trường
Nga và Đông Âu sau khi CNXH Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu
sụp đổ. Sau năm này, số lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam không ngừng
tăng. Năm 1995, Việt Nam xuất khẩu 2,025 triệu tấn và xếp vào vị trí thứ 4
trong các nước xu
ất khẩu gạo lớn trên thế giới. Sau quyết định bãi bỏ lệnh
cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam, khối lượng gạo xuất khẩu có xu hướng
tăng nhanh. Việt Nam tiếp tục vươn lên hàng thứ 3 về xuất khẩu gạo vào
năm 1996 với số lượng hơn 3 triệu tấn, vượt qua Mỹ và chỉ xếp sau Thái
Lan, Ấn Độ. Kết quả này thự
c đáng ghi nhận vì vào năm này, Việt Nam phải
đối đầu với một loạt các thiên tai như bão nhiệt đới, lũ lụt... Các năm tiếp
theo, lượng gạo xuất khẩu vẫn tăng đều mà đỉnh cao là năm 1999 với 4,559
triệu tấn, thu về kim ngạch hơn 1 tỷ USD. Đến năm 2000, do những biến
động trên thị trường thế giới, lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam giảm
23
xuống, chỉ còn 3,47 triệu tấn, kim ngạch thu về đạt 667 triệu USD. Năm
2001, kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều khó khăn nên dự đoán Việt Nam chỉ
xuất khẩu 3,470 triệu tấn. Số liệu về xuất khẩu gạo giai đoạn 1989-2001
được thể hiện cụ thể trong bảng sau:
Bảng 1.4. Kết quả xuất khẩu (1989-2001)
Năm Số lượng
% thay đổi so
với năm trước
Trị giá
(USD/ MT)
Giá bình quân
(USD/MT)
1989 1.372 100 310.249 226,1
1990 1.478 106 275.390 186,3
1991 1.016 -462 229.857 226,2
1992 1.954 938 405.132 207,3
1993 1.649 -305 335.651 203,5
1994 1.962 313 420.861 214,5
1995 2.025 63 538.838 266,1
1996 3.047 1022 868.417 285,0
1997 3.682 635 891.342 242,1
1998 3.793 111 1.005.484 265,1
1999 4.559 766 1.007.847 221,0
2000 3.470 -1089 667.000 192,2
2001 3.700
(*)
226
Tổng 30.227 6.990.345
(**)
(*): Dự kiến; (**): Chưa kể số dự kiến xuất khẩu năm 2001
Nguồn: Vụ xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại
Kim ngạch xuất khẩu gạo biến động theo các năm, phụ thuộc vào hai
yếu tố giá cả và số lượng xuất khẩu. Năm 1999 là năm Việt Nam đạt kim
ngạch xuất khẩu cao nhất cũng là năm số lượng gạo xuấ
t lớn nhất, tuy giá
gạo Việt Nam trên thị trường thế giới không cao (221 USD/MT).
Về thị trường, khách hàng thường xuyên của gạo Việt Nam phần lớn là
các nước đang phát triển. Một số nước châu Âu mua gạo Việt Nam để