LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang
6,125
774
93
ban nhân dân tỉnh; điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của 04 Sở; thành lập mới 01 cơ
quan
chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, 01 cơ quan chuyên môn thuộc Hội đồng nhân
dân tỉnh; chia tách khối trung học cơ sở thuộc 17 trường trung học phổ thông;
thành lập
06 đơn vị sự nghiệp trực thuộc tỉnh, 26 đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở, ngành,
ủy ban
nhân dân các huyện, thị; thành lập và kiện toàn 30 phòng, ban, chi cục thuộc Sở,
ngành,
ủy ban nhân dân các huyện, thị. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy đã làm rõ chức năng,
nhiệm vụ quản lý nhà nước của cơ quan hành chính, phân rõ hoạt động của cơ quan
hành chính với hoạt động sự nghiệp, thực hiện tinh gọn, hoạt động hiệu quả.
+ Về đổi mới, sắp xếp doanh nghiệp: từ năm 2001 đến 2005, đã sắp xếp 17
doanh nghiệp nhà nước, trong đó: cổ phần hóa 12 doanh nghiệp, chuyển doanh
nghiệp
nhà nước hoạt động công ích sang đơn vị sự nghiệp có thu 01 doanh nghiệp, chuyển
giao để thành lập đơn vị sự nghiệp 01 doanh nghiệp, bán 02 doanh nghiệp và giải
thể 01
doanh nghiệp. Đến cuối năm 2005, toàn tỉnh còn 18 công ty nhà nước.
- Cải cách công chức hành chính:
Từ năm 2001 - 2005 ủy ban nhân dân tỉnh đã thực hiện việc rà soát, sắp xếp, tinh
giản biên chế theo Nghị quyết 16/2000/NQ-CP ngày 18/10/2000 và Nghị quyết
09/2003/ND-CP ngày 28/7/2003 cho 1.613 cán bộ, công chức nghỉ theo quy định công
chức nghỉ theo quy định (trong đó nghỉ hưu trước tuổi 1.557 người, thôi việc: 20
người,
chuyển sang bán công: 36 người). Cụ thể: quản lý hành chính: 269 người, sự
nghiệp
giáo dục và đào tạo: 1.110 người, sự nghiệp y tế: 86 người, sự nghiệp văn hóa
thể thao:
23 người, sự nghiệp khác: 20 người, khối Đảng, đoàn thể: 105 người.
Thực hiện tinh giản biên chế đã góp phần đưa dần được số cán bộ, công chức
năng lực hạn chế ra khỏi cơ quan nhà nước góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
cán
bộ, công chức của tỉnh.
Công tác tuyển dụng được thực hiện đảm bảo đúng quy định của nhà nước và
của tỉnh: việc tuyển dụng đội ngũ cán bộ, công chức vào cơ quan hành chính theo
hình
thức thi tuyển bắt buộc; tuyển dụng viên chức vào các đơn vị sự nghiệp theo 2
hình thức
thi tuyển và xét tuyển. Tổng số tuyển dụng từ năm 2001 đến 2005 là: 1.746 người,
trong
đó xét tuyển ngành giáo dục và đào tạo: 1003 người, thi tuyển: ngành giáo dục
đào tạo:
356 người, y tế: 84 người, khoa học kỹ thuật: 40 người, văn hóa thông tin: 26
người,
Kiểm lâm: 64 người, hành chính lưu trữ: 108 người, kế toán các đơn vị: 30 người
(trong
đó cán bộ lãnh đạo cấp sở và tương đương 12 người, công chức hành chính 150
người,
viên chức sự nghiệp 1.404 người, cán bộ, công chức cấp xã: 275 người); trung
cấp:
1.585 người (chủ yếu là viên chức và cán bộ xã), ngoại ngữ: 3.115 người, tin
học: 1.838
người, quản lý nhà nước: 1.362 người; bồi dưỡng ở nước ngoài: 125 người; bồi
dưỡng
nghiệp vụ: 2.349 người. Qua đào tạo, bồi dưỡng đã nâng cao được chất lượng đội
ngũ
cán bộ, công chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn, cán bộ thôn,
bản.
Công tác luân chuyển, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ được thực hiện nhằm nâng
cao chất lượng hoạt động quản lý, điều hành tại các cơ quan, đơn vị. Từ năm 2001
đến
nay đã thực hiện bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ thuộc diện ủy ban nhân dân tỉnh
quản
lý: 368 người (trong đó bổ nhiệm, bổ nhiệm lại 102 giám đốc Sở và tương đương;
30
giám đốc, phó giám đốc, kế toán trưởng các doanh nghiệp nhà nước; 87 trưởng, phó
các
đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở và tương đương, 149 Hiệu trưởng, phó hiệu trưởng
các
trường trung học phổ thông. Cán bộ được bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đều phát huy được
năng lực quản lý và điều hành.
Công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý: từ năm 2001 đến tháng
12/2005 tỉnh đã luân chuyển, điều động 116 lượt cán bộ thuộc diện tỉnh quản lý.
Qua
luân chuyển, cán bộ được rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách đã phát huy được năng
lực
trong chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ.
- Về cải cách tài chính công:
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các ngành hướng dẫn các cơ quan hành chính
nhà nước trên địa bàn nắm vững nội dung, nguyên tắc khoán biên chế, kinh phí
quản lý
hành chính và thực hiện khoán biên chế, khoán kinh phí quản lý hành chính cho
các cơ
quan, đơn vị theo Quyết định số: 192/2001/QĐ-TTg ngày 17/12/2001 của Thủ tướng
Chính phủ; Hướng dẫn cho các đơn vị sự nghiệp có thu trên địa bàn nắm vững nội
dung,
nguyên tắc quản lý tài chính theo đúng Nghị định số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002
của Chính phủ về chế độ tài chính áp dụng cho đơn vị sự nghiệp có thu và Thông
tư
hướng dẫn của Bộ Tài chính số 25/2002/TT-BTC ngày 21/3/2002 thực hiện Nghị định
số 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 của Chính phủ.
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 133/2003/QĐ-UB ngày
17/10/2003 về việc Quy định phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi và tỷ lệ (%) phân
chia
các khoản thu giữa ngân sách cấp tỉnh, ngân sách cấp huyện và ngân sách nhà nước
theo
đúng luật ngân sách nhà nước, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, phân định rõ
trách
nhiệm của từng cấp trong hoạt động thu, chi thuộc thẩm quyền, nâng cao chất
lượng,
trình độ cán bộ và tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức.
Kết quả:
Đối với các cơ quan hành chính cấp tỉnh: 100% khoán biên chế và khoán kinh
phí quản lý hành chính, xóa bỏ hình thức "xin cho", các đơn vị dự toán ngân sách
đều
được kế hoạch hóa từ khi giao kế hoạch theo đúng quy định của nhà nước.
Đối với đơn vị sự nghiệp: tổng số 83 đơn vị (trong đó có 08 đơn vị trực thuộc ủy
ban nhân dân tỉnh, 75 đơn vị trực thuộc Sở, ngành, ủy ban nhân dân các huyện,
thị.
Không tính các đơn vị trường học thuộc Sở Giáo dục và đào tạo và thuộc ủy ban
nhân
dân huyện, thị xã) thực hiện 100% khoán quỹ lương; trong đó 21 đơn vị thực hiện
Nghị
định 10/2002/NĐ-CP ngày 16/1/2002 (trong đó có 07/21 đơn vị sự nghiệp tự đảm bảo
cân đối thu, chi); chuyển 01 đơn vị công lập giáo dục sang bán công.
- Về hiện đại hóa công sở và thực hiện đề án 112 về tin học:
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã thực hiện két nối với mạng CPNET của Chính phủ để
khai thác và sử dụng chương trình công báo điện tử của Chính phủ và thực hiện
hạng
mục đầu tư xây dựng mới 12 mạng máy tính cục bộ. Văn phòng Tỉnh ủy và Văn phòng
ủy ban nhân dân tỉnh đang tiến hành tiếp nhận và triển khai phần mềm dùng chung
do
Ban chỉ đạo công nghệ thông tin khối Đảng, đoàn thể của Trung ương Đảng và Ban
điều hành Đề án 112 của Chính phủ chuyển giao cho các cơ quan, đơn vị của tỉnh
từ
huyện, tỉnh đến Trung ương. Xây dựng mạng diện rộng, mạng cục bộ, cài đặt 18 nút
mạng, cài đặt Internet, thư điện tử cho các cơ quan, đơn vị. Một số cơ quan, đơn
vị mở
trang Website như: Sở Khoa học công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo.
Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Sở Nội vụ đã thực hiện chương trình phần mềm quản lý
cơ sở dữ liệu đảng viên, quản lý cán bộ công chức. Đến nay đã nhập xong dữ liệu
hồ sơ
đảng viên, cán bộ, công chức khối Đảng, đoàn thể và khối nhà nước. Chú trọng
công tác
đào tạo bồi dưỡng tin học chủ yếu cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nâng
cao
hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính. Từ năm 2001 -
2005
tổng số lượt người được đào tạo, bồi dưỡng là 5.190 lượt người, trong đó: đào
tạo cử
nhân: 169 người, đào tạo tin học cơ bản: 4.764 lượt người; đào tạo quản trị
mạng: 84
người; đào tạo giáo viên tin học: 35 người; đào tạo chuyên môn tin học khác: 475
người.
Những kết quả trên đã góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển, an
ninh chính trị - trật tự an toàn xã hội được giữ vững, công tác xây dựng Đảng và
hệ
thống chính trị được củng cố; giảm bớt phiền hà trong giao dịch giữa các cơ quan
nhà
nước với tổ chức, công dân, nâng cao lòng tin của dân đối với các cơ quan hành
chính
nhà nước ở địa phương. Đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức
trách nhiệm, tinh thần và thái độ phục vụ tổ chức, công dân của đội ngũ cán bộ,
công
chức.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện chương trình tổng thể
cải
cách hành chính nhà nước ở tỉnh vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục:
- Sự phân cấp quản lý giữa chính quyền các cấp, phân cấp cho các cơ quan
chuyên môn chưa triệt để nên chưa nâng cao được tinh thần trách nhiệm, tính chủ
động
của chính quyền các cấp, của các cơ quan hành chính nhà nước.
- Công tác thanh tra, kiểm tra nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật nghiêm minh
của các cơ quan nhà nước, của đội ngũ cán bộ, công chức chưa hiệu quả.
- Công tác triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một
cửa"
ở cấp xã còn chậm. Thủ tục hành chính ở một số lĩnh vực còn rườm rà, khó thực
hiện.
- Lề lối, tác phong làm việc của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức
chưa kịp thời đổi mới so với yêu cầu. Năng lực hành chính, thực tiễn của cán bộ,
công
chức còn hạn chế.
- Các ngành, các cấp còn lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch, đề án xã hội
hóa các hoạt động sự nghiệp, các dịch vụ công: giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục
thể
thao... Vì vậy tiến độ triển khai chậm, chủ yếu trông chờ vào nguồn ngân sách
nhà nước
cấp.
- Nhận thức của một bộ phận cán bộ, công chức về cải cách hành chính còn hạn
chế.
- Cơ sở vật chất đầu tư cho hoạt động của bộ phận "một cửa" tại các cơ quan,
đơn vị chưa đáp ứng yêu cầu, trụ sở làm việc còn chật hẹp.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào cải cách hành chính còn hạn chế.
- Công tác tuyên truyền về cải cách hành chính chưa được thực hiện thường
xuyên.
Mục tiêu, yêu cầu của chương trình cải cách hành chính tỉnh Tuyên Quang giai
đoạn 2006 - 2010:
Giai đoạn 2006 - 2010 nhiệm vụ cải cách hành chính là một trong năm khâu đột
phá của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhằm phấn đấu đạt
được
mục tiêu đặt ra của chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -
2010
ban hành kèm theo Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng
Chính phủ và mục tiêu Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV;
- Thực hiện cải cách hành chính đồng bộ ở các cấp, các ngành. Mỗi cấp, mỗi
ngành từ tỉnh đến cơ sở phải coi thực hiện cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng
tâm,
thường xuyên để tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện.
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống các quy trình, thủ tục hành chính; xóa bỏ các
thủ tục hành chính rườm rà, hoàn thiện các quy trình, thủ tục hành chính theo
hướng
công khai và thuận tiện cho tổ chức, doanh nghiệp và nhân dân; công khai hóa các
quy
trình, thủ tục hành chính, nâng cao chất lượng thực hiện cải cách thủ tục hành
chính
theo cơ chế "một cửa" phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của tổ chức, doanh
nghiệp và
nhân dân.
- Xây dựng bộ máy hành chính các cấp làm việc có hiệu lực, hiệu quả, khắc phục
tình trạng hành chính quan liêu, cửa quyền, hách dịch, phân định rõ ràng, cụ thể
nhiệm
vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền; tách dịch vụ công với
hành
chính công trong các cơ quan hành chính nhà nước; thực hiện tốt, hiệu quả chế độ
tự
chủ về biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các đơn vị hành chính,
thực hiện
chế độ tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có thu theo quy định, thực
hiện xã
hội hóa các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công nhằm khai thác, phát huy mọi nguồn
lực,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh có trình độ chuyên môn sâu, kỹ
năng hành chính; có phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa cán bộ, công
chức; nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật của cán bộ, công chức.
- Tập trung xử lý dứt điểm các vụ việc khiếu kiện kéo dài, hạn chế trường hợp
khiếu kiện đông người và vượt cấp, phát huy thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ
sở.
- Hiện đại hóa nền hành chính: áp dụng công nghệ thông tin và áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước.
Nội dung chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2006 - 2010:
- Về cải cách thể chế:
+ Tập trung rà soát, bãi bỏ hoặc điều chỉnh kịp thời các văn bản, các quy định
còn chồng chéo, bất cập, không phù hợp; xây dựng quy trình ban hành các văn bản
quy
phạm pháp luật; giám sát chặt chẽ hiệu quả việc ban hành và xử lý các văn bản
quy
phạm pháp luật.
+ Tiếp tục cải tiến, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện hệ thống các quy trình, thủ tục
trên các lĩnh vực, tạo môi trường thông thoáng, thuận lợi, hiệu quả, bảo đảm
nguyên tắc
công khai dân chủ, đúng luật và thuận tiện cho tổ chức, doanh nghiệp và công
dân, đảm
bảo lợi ích hợp pháp cho tổ chức, doanh nghiệp, công dân và tạo điều kiện cho
các cấp
chính quyền thực hiện việc kiểm soát và quản lý theo đúng quy định của nhà nước.
Trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính trong việc cấp phép đầu tư, cấp giấy
phép kinh
doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng, thủ tục đầu tư
xây
dựng cơ bản, giải quyết khiếu nại, tố cáo, hành chính tư pháp.
+ Sơ kết cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" để rút ra những ưu
điểm, tồn tại, trên cơ sở đó tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thực
hiện về cải
cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" tại các cơ quan, đơn vị thuộc ủy
ban
nhân dân tỉnh, ủy ban nhân dân cấp huyện và ủy ban nhân dân cấp xã.
+ Thực hiện hệ thống hóa và công khai các quy định về quy trình, thủ tục, biểu
mẫu sử dụng trong giao dịch hành chính liên quan đến tổ chức, doanh nghiệp và
công
dân để tổ chức, doanh nghiệp, công dân biết, thực hiện và tham gia ý kiến, giám
sát việc
thực hiện.
+ Ban hành quy chế phối hợp giữa ủy ban nhân dân các cấp với ủy ban Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể cùng cấp trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
+ Sơ kết công tác tiếp dân; xây dựng quy trình, phương pháp tiếp công dân và
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân bảo đảm kịp thời, đúng pháp luật; mở
rộng
dịch vụ tư vấn pháp luật cho nhân dân. Việc tiếp công dân công khai, dân chủ,
giải
quyết đúng thời hạn theo luật định. Chấm dứt tình trạng đùn đẩy trách nhiệm hoặc
giải
quyết không dứt điểm, kéo dài thời gian giải quyết.
- Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính:
+ Tiếp tục rà soát xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan
hành chính nhà nước các cấp, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lặp về chức
năng,
nhiệm vụ, xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, hợp lý; đổi mới lề lối làm việc và
nâng
cao năng lực hoạt động của cơ quan hành chính nhằm thực hiện tốt chức năng quản
lý
nhà nước, nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan hành
chính; tách
dịch vụ công ra khỏi hành chính công.
+ Sắp xếp lại tổ chức các đơn vị sự nghiệp để hoạt động phù hợp, có hiệu quả.
+ Thực hiện phân cấp quản lý nhà nước đối với các sở, ngành, chính quyền cấp
huyện, cấp xã nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu
trách
nhiệm trên cơ sở phân định rõ ràng, cụ thể nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm;
tập
trung vào một số lĩnh vực tài chính, tổ chức, cán bộ.
+ Thực hiện các hình thức đối thoại giữa các cơ quan quản lý nhà nước có liên
quan với doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc. Cơ quan và
cán
bộ, công chức nhà nước phải là người hướng dẫn và tạo điều kiện cho doanh nghiệp
hoạt động theo pháp luật.
+ Hoàn thành thực hiện Đề án 112; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước các cấp, ứng dụng các công
cụ,
phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong cơ quan hành chính nhà nước các
cấp.
+ Xây dựng đề án thực hiện thí điểm và khuyến khích các ngành, các cấp áp
dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ
hành
chính công.
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức:
+ Rà soát, đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức để xây dựng kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng và sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với cơ cấu
phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh giai đoạn hiện nay; tiếp tục đổi mới nội dung
chương trình
và phương thức đào tạo, bồi dưỡng chú trọng nâng cao kiến thức chuyên môn,
nghiệp
vụ, kỹ năng hành chính, ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ cán bộ, công chức.
+ Các cấp, các ngành trên cơ sở tiêu chuẩn chung xây dựng tiêu chuẩn, phân
công nhiệm vụ cụ thể cho cán bộ, công chức của ngành mình, cấp mình, thực hiện
việc
sắp xếp cán bộ đúng người, đúng việc.
+ Đổi mới việc đánh giá cán bộ, công chức, thực hiện tốt công tác quy hoạch, kế
hoạch đào tạo bồi dưỡng, bố trí sử dụng cán bộ bảo đảm đúng người, đúng việc; xử
lý
nghiêm minh theo pháp luật và kỷ luật Đảng đối với những người có hành vi tiêu
cực,
tham nhũng, kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy những cán bộ thoái hóa, biến chất,
thiếu
trách nhiệm, vi phạm kỷ luật; tăng cường trẻ hóa đội ngũ cán bộ, công chức có
năng lực
chuyên môn giỏi đã qua đào tạo, nhất là đội ngũ cán bộ cấp xã; kịp thời thay thế
những
cán bộ không bảo đảm tiêu chuẩn về chuyên môn, yếu về năng lực quản lý, điều
hành,
thực hiện nhiệm vụ.
- Cải cách tài chính công:
+ Thực hiện tốt chế độ tự chủ về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành
chính; mở rộng thực hiện cơ chế tài chính áp dụng cho các đơn vị sự nghiệp có
thu theo
quy định của nhà nước đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp trong
toàn
tỉnh.
+ Đẩy mạnh thực hiện xã hội hóa hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công trong các
lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa, thể dục thể thao phù hợp với các quy
định của
nhà nước.
2.3. một số kiến nghị, giải pháp trong cải cách hành chính ở tuyên quang
Kết quả thực hiện cải cách hành chính trên phạm vi cả nước trong những năm
qua đã có nhiều thành tích và bước tiến rõ nét trên cả bốn nội dung của chương
trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước, nhất là về xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh
tế và hành chính phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa góp
phần
quan trọng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu và mục tiêu đề ra, nhìn chung công tác cải cách hành
chính vẫn còn bộc lộ nhiều khuyết điểm, yếu kém, tốc độ cải cách còn chậm, hiệu
quả
thấp, chưa đồng bộ. Tình trạng quy định và thực hiện các thủ tục hành chính trên
nhiều
lĩnh vực, nhất là trong quan hệ với dân và doanh nghiệp vẫn còn phức tạp, phiền
hà,
chậm được khắc phục cơ bản. Công tác quản lý, xây dựng và nâng cao chất lượng
đội
ngũ cán bộ, công chức chưa có chuyển biến đáng kể.
Việc triển khai phân cấp cụ thể trên từng ngành, lĩnh vực và công tác xã hội hoá
thực hiện chậm và có nhiều yếu kém. Yêu cầu về điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy
theo
hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả chưa được tuân thủ nghiêm túc cả ở Trung ương
và
địa phương, số lượng các đầu mối trực thuộc tăng lên. Đổi mới quản lý tài chính
công
chưa theo kịp với cải cách trên các lĩnh vực khác.
Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính đồng bộ, sâu rộng và có hiệu quả hơn
trên các lĩnh vực, mà trọng tâm và yêu cầu cấp bách là tập trung vào cải cách
mạnh mẽ
thủ tục hành chính, tạo được chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa cơ quan hành
chính
với dân và doanh nghiệp, nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Chính phủ đã xác định
rõ:
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là đẩy mạnh cải cách hành chính,
cùng
với việc tổ chức nghiêm Luật Phòng, chống tham nhũng, luật thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí.
Nhìn nhận cải cách hành chính từ tư tưởng xây dựng nhà nước dân chủ pháp
quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho chúng ta thấy cải cách hành chính nhà nước là
một phương thức, một biện pháp tích cực nhằm làm cho năng lực quản lý nhà nước
của
các cấp chính quyền thêm mạnh mẽ và sáng suốt để phục vụ nhân dân, phục vụ cho
mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập của đất nước có hiệu quả thiết
thực. Tính cấp
thiết cần phải đẩy mạnh cải cách hành chính đòi hỏi phải được tiến hành dưới ánh
sáng
tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân"
cho chúng ta thấy được rõ ràng hơn về mục tiêu, nội dung, động lực và phương
thức của
cải cách hành chính nhà nước hiện nay. Cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham
nhũng,
lãng phí và sự vô cảm, thiếu trách nhiệm trước nhân dân của một bộ phận không
nhỏ cán
bộ công chức cần được tiến hành đồng bộ với tiến trình cải cách nhà nước, cải
cách hành
chính. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa không thể thiếu động lực
dân chủ
của khối đại đoàn kết toàn dân.
Sự cần thiết bổ sung cho mục tiêu cải cách hành chính ở cả nước cũng như ở
Tuyên Quang hiện nay là: thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về "thực hiện chính
quyền
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân". Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào công cuộc cải
cách hành chính nhà nước chính là biết vận dụng một cách sáng tạo các quan điểm
của
Người để tiến hành cải cách nhà nước, thực hiện có hiệu quả theo nguyên tắc nhà
nước
pháp quyền: Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; xây dựng chính quyền
nhà
nước mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân trên nền tảng bảo đảm tự do, dân chủ và
đoàn
kết toàn dân.
Bổ sung vào bài học về cải cách hành chính (trong chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010) bằng bài học từ việc tổ chức xây dựng
chính
quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Giữ gìn truyền
thống cách mạng và phát huy giá trị các bài học lịch sử về xây dựng nhà nước
pháp
quyền dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh với bài học về xây dựng thể chế pháp
quyền
dân chủ, giữ vững các nguyên tắc Hiến pháp Việt Nam 1946, xây dựng bộ máy và đội
ngũ cán bộ, công chức chính quyền dân chủ, đến bài học lấy dân làm gốc, đem sức
dân,
tài dân, của dân làm lợi cho dân vào thực hiện thắng lợi các mục tiêu của cải
cách nhà
nước hiện nay.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân
chủ nhân dân để xác định nội dung các quan điểm, phương pháp và hình thức tiến
hành
tổ chức, chỉ đạo điều hành nhà nước ở Chủ tịch Hồ Chí Minh làm luận cứ khoa học
cho