LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang

6,116
774
93
hiện đều thông qua sự vận hành của hệ thống hành chính. Hiệu lực, hiệu quả của quản
lý nhà nước còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức và điều hành trên thực tiễn của
bộ máy hành chính cùng sự tinh thông nghiệp vụ và phẩm chất phục vụ của đội n
đông đảo công chức hành chính.
Mặt khác, con đường quan hệ trực tiếp với nhà nước phía xã hội và công dân
được thiết lập, được giải quyết chính thức và cụ thể vẫn là qua các cơ quan hành chính
nhà nước. Với kết cấu phân cấp, phân hệ trong thực hiện quyền hành chính nhà nước và
tích hợp quản lý đa ngành của các cơ quan hành chính thẩm quyền riêng với hệ thống
phân cấp các tổ chức hành chính thẩm quyền chung đã thường làm cho bộ máy hành
chính phức tạp với một hệ thống đồ sộ các cơ quan trong tổ chức nhà nước. Với phương
thức quản kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp được duy trì qua nhiều thập
niên đã làm cho tính quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm cụ thể của đội ngũ công
chức một thực tế không dễ ng thay đổi. Hai mươi năm đổi mới, Đảng Nhà
nước đã kiên quyết thay đổi, đoạn tuyệt với chế quản tập trung kế hoạch hóa
bao cấp đó. Đảng bộ chính quyền tỉnh Tuyên Quang đã cùng 22 dân tộc anh em
của tỉnh phấn khởi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng lãnh đạo.
Cải cách hành chính nhà nước được đặt ra như một nhiệm vụ tất yếu để thay đổi
phương thức quản điều hành nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong hội nhập phát triển kinh tế quốc tế.
Đối với Tuyên Quang thì cải cách hành chính một hội thực sự để các
cấp chính quyền trong tỉnh bứt phá những hạn chế của chính mình, đổi mới đội ngũ,
cải cách thể chế, hiện đại hóa phương thức quản lý, đáp ứng được những thách thức
của sự phát triển với tốc độ nhanh nâng cao chất lượng, hiệu quả quản nhà
nước trước nhân dân. Cũng như cơ hội kinh tế, cơ hội hợp tác, liên kết, liên doanh đ
phát triển, cơ hội cải cách hành chính cũng "không có tính chờ đợi", nó sẽ bỏ lại tụt
hậu cho các "chủ thể công quyền" nếu không biết nắm bắt tự mình khẳng định
vươn lên. Muốn xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh mà không biết tự cải
cách chính mình thì thực sự tự làm khó cho mình. Không thể coi cải cách hành
chính, cải cách thủ tục hành chính một cửa, xây dựng chính phủ điện tử, v.v..
hiện đều thông qua sự vận hành của hệ thống hành chính. Hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức và điều hành trên thực tiễn của bộ máy hành chính cùng sự tinh thông nghiệp vụ và phẩm chất phục vụ của đội ngũ đông đảo công chức hành chính. Mặt khác, con đường quan hệ trực tiếp với nhà nước ở phía xã hội và công dân được thiết lập, được giải quyết chính thức và cụ thể vẫn là qua các cơ quan hành chính nhà nước. Với kết cấu phân cấp, phân hệ trong thực hiện quyền hành chính nhà nước và tích hợp quản lý đa ngành của các cơ quan hành chính thẩm quyền riêng với hệ thống phân cấp các tổ chức hành chính thẩm quyền chung đã thường làm cho bộ máy hành chính phức tạp với một hệ thống đồ sộ các cơ quan trong tổ chức nhà nước. Với phương thức quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp được duy trì qua nhiều thập niên đã làm cho tính quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm cụ thể của đội ngũ công chức là một thực tế không dễ dàng thay đổi. Hai mươi năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã kiên quyết thay đổi, đoạn tuyệt với cơ chế quản lý tập trung kế hoạch hóa bao cấp đó. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Tuyên Quang đã cùng 22 dân tộc anh em của tỉnh phấn khởi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Cải cách hành chính nhà nước được đặt ra như một nhiệm vụ tất yếu để thay đổi phương thức quản lý điều hành nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong hội nhập phát triển kinh tế quốc tế. Đối với Tuyên Quang thì cải cách hành chính là một cơ hội thực sự để các cấp chính quyền trong tỉnh bứt phá những hạn chế của chính mình, đổi mới đội ngũ, cải cách thể chế, hiện đại hóa phương thức quản lý, đáp ứng được những thách thức của sự phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà nước trước nhân dân. Cũng như cơ hội kinh tế, cơ hội hợp tác, liên kết, liên doanh để phát triển, cơ hội cải cách hành chính cũng "không có tính chờ đợi", nó sẽ bỏ lại tụt hậu cho các "chủ thể công quyền" nếu không biết nắm bắt và tự mình khẳng định vươn lên. Muốn xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh mà không biết tự cải cách chính mình thì thực sự tự làm khó cho mình. Không thể coi cải cách hành chính, cải cách thủ tục hành chính một cửa, xây dựng chính phủ điện tử, v.v.. là
những việc của chính phủ trung ương, của các tỉnh thành lớn chứ đâu của một tỉnh
nghèo, một tỉnh nhỏ như Tuyên Quang. Đó là những tư duy chật hẹp và trì trệ, chính
một trở ngại lớn cho công tác xây dựng chính quyền mạnh mẽ sáng suốt
theo tưởng Hồ Chí Minh. Ngay trong những ngày đầu lập Nhà nước Dân ch
Cộng hòa, Hồ Chí Minh cùng Quốc hội lập hiến và Chính phủ kháng chiến đã quyết
xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân để giữ vững nền độc
lập cho nước nhà, để bảo đảm tự do dân chủ cho nhân dân, để phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân. Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc, ở Tuyên Quang trong
kháng chiến chống thực dân Pháp là một chính phủ mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân, các cấp chính quyền ở "Châu tự do", ở "An toàn khu" là một chính quyền trong
sạch vững mạnh. Ngày nay các cấp chính quyền ở Tuyên Quang tham gia thực hiện
Chương trình cải cách hành chính nhà nước cần phát huy truyền thống văn hóa,
truyền thống cách mạng của quê hương, chủ động và sáng tạo thực hiện thắng lợi các
nội dung chương trình cải cách hành chính của tỉnh. Xác định cải cách một môi
trường, một biện pháp quan trọng để xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh
tạo ra bước đột phá quan trọng trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế -
hội của Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV đã xây dựng. Mục tiêu mà Chương trình cải cách
hành chính ở Tuyên Quang phải hướng tới mục tiêu chung của chương trình tổng thể cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010: "Xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực,
hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phẩm chất năng lực đáp
ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống
hành chính về bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa" (Mục tiêu của chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010). Thời gian giành cho công cuộc cải cách
giai đoạn 2 của Tuyên Quang không phải nhiều song nếu biết tận dụng những cơ
hội tiến hành phương pháp thích hợp thì mục tiêu có thể được thực hiện với
những nỗ lực cao độ của cả hệ thống chính trị.
những việc của chính phủ trung ương, của các tỉnh thành lớn chứ đâu của một tỉnh nghèo, một tỉnh nhỏ như Tuyên Quang. Đó là những tư duy chật hẹp và trì trệ, chính nó là một trở ngại lớn cho công tác xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay trong những ngày đầu lập Nhà nước Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh cùng Quốc hội lập hiến và Chính phủ kháng chiến đã quyết xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân để giữ vững nền độc lập cho nước nhà, để bảo đảm tự do dân chủ cho nhân dân, để phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc, ở Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp là một chính phủ mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, các cấp chính quyền ở "Châu tự do", ở "An toàn khu" là một chính quyền trong sạch vững mạnh. Ngày nay các cấp chính quyền ở Tuyên Quang tham gia thực hiện Chương trình cải cách hành chính nhà nước cần phát huy truyền thống văn hóa, truyền thống cách mạng của quê hương, chủ động và sáng tạo thực hiện thắng lợi các nội dung chương trình cải cách hành chính của tỉnh. Xác định cải cách là một môi trường, một biện pháp quan trọng để xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh và tạo ra bước đột phá quan trọng trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV đã xây dựng. Mục tiêu mà Chương trình cải cách hành chính ở Tuyên Quang phải hướng tới mục tiêu chung của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 là: "Xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" (Mục tiêu của chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010). Thời gian giành cho công cuộc cải cách giai đoạn 2 của Tuyên Quang không phải là nhiều song nếu biết tận dụng những cơ hội và tiến hành có phương pháp thích hợp thì mục tiêu có thể được thực hiện với những nỗ lực cao độ của cả hệ thống chính trị.
2.2.2. Những yêu cầu nội dung bản của chương trình cải cách hành
chính ở Tuyên Quang hiện nay
Chương trình cải cách hành chính nhà nước tỉnh Tuyên Quang thực hiện
mục tiêu chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước đồng thời thực hiện các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng chính quyền các cấp trong sạch vững
mạnh theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2006 - 2010.
Tuy nhiên cần thấy mục tiêu bao trùm của công cuộc cải cách hành chính
Tuyên Quang chính là: thực hiện trên thực tế chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của
nhân dân. Biểu hiện cụ thể là: Đảm bảo và phát huy tối đa dân chủ cơ sở, xây dựng bộ
máy chính quyền vững mạnh từ tỉnh đến các xã, làng bản. Đó là chính quyền phản ảnh
quyền lợi của người dân, mang lại lợi ích cho người dân, các dân tộc. Đó là chính quyền
của dân, do dân, vì dân.
Muốn vậy, Tuyên Quang đã xây dựng kế hoạch về cải cách hành chính, trong đó:
2.2.2.1. Về công tác xây dựng chính quyền
Trong những năm tới cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động của Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân đại biểu Hội đồng
nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng các cuộc họp Hội đồng
nhân dân các cấp. Đề cao trách nhiệm, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân trong
việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước và tham gia vào việc quản lý nhà nước.
Xây dựng, kiện toàn chính quyền trong sạch, vững mạnh, trọng tâm là củng cố,
kiện toàn chính quyền sở để nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành tổ chức thực
hiện nhiệm vụ chính trị của sở. Giải quyết kịp thời, dứt điểm những công việc của
dân thuộc thẩm quyền. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính
phẩm chất, trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh phân công phân cấp cho ngành và ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã
nhằm nâng cao trách nhiệm và tạo sự chủ động, sáng tạo trong tổ chức điều hành công
2.2.2. Những yêu cầu và nội dung cơ bản của chương trình cải cách hành chính ở Tuyên Quang hiện nay Chương trình cải cách hành chính nhà nước ở tỉnh Tuyên Quang là thực hiện mục tiêu chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước đồng thời thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng chính quyền các cấp trong sạch vững mạnh theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2006 - 2010. Tuy nhiên cần thấy mục tiêu bao trùm của công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang chính là: thực hiện trên thực tế chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Biểu hiện cụ thể là: Đảm bảo và phát huy tối đa dân chủ cơ sở, xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh từ tỉnh đến các xã, làng bản. Đó là chính quyền phản ảnh quyền lợi của người dân, mang lại lợi ích cho người dân, các dân tộc. Đó là chính quyền của dân, do dân, vì dân. Muốn vậy, Tuyên Quang đã xây dựng kế hoạch về cải cách hành chính, trong đó: 2.2.2.1. Về công tác xây dựng chính quyền Trong những năm tới cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng các cuộc họp Hội đồng nhân dân các cấp. Đề cao trách nhiệm, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tham gia vào việc quản lý nhà nước. Xây dựng, kiện toàn chính quyền trong sạch, vững mạnh, trọng tâm là củng cố, kiện toàn chính quyền cơ sở để nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Giải quyết kịp thời, dứt điểm những công việc của dân thuộc thẩm quyền. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có phẩm chất, trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh phân công phân cấp cho ngành và ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã nhằm nâng cao trách nhiệm và tạo sự chủ động, sáng tạo trong tổ chức điều hành công
việc. Tăng cường đầu xây dựng sở vật chất cho cấp xã, phường, thị trấn. Quán
triệt và triển khai nghiêm túc Chương trình cải cách hành chính, tiếp tục rà soát và sửa
đổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tập trung vào một số lĩnh vực bức xúc để giải
quyết kịp thời công việc cho tổ chức, công dân, nhất là trong việc tạo điều kiện thuận lợi
cho doanh nghiệp, cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh.
Rút kinh nghiệm việc thực hiện chế "một cửa" tại các đơn vị làm điểm để
hoàn thiện và triển khai rộng đến xã, phường, thị trấn. Phát huy tốt hiệu quả của mạng
thông tin điện tử của tỉnh trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực
hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra công vụ nhằm chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật, kỷ
cương hành chính trong bộ máy hành chính nhà nước từ tỉnh đến cơ sở; thực hiện tốt
công tác tiếp dân và giải quyết kịp thời đơn thư, khiếu nại, tố cáo của nhân dân.
Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa, chuyển hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp, dịch vụ công sang cơ chế dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc xây dựng Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận các đoàn thể nhân dân tiếp tục chủ động,
sáng tạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng tập trung cho cơ sở, nâng
cao chất lượng tổ chức và đa dạng hóa hoạt động, tuyên truyền, giáo dục đoàn viên, hội
viên, vận động nhân dân tham gia thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước tại địa
phương, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, tích cực tham gia
cuộc vận động "toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", thực hiện
có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác Mặt trận
các đoàn thể nhân dân.
Các cấp, các ngành thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, coi
đó là nguồn sức mạnh tổng hợp của toàn dân để nâng cao đời sống nhân dân, chăm sóc
sức khỏe cho cộng đồng, quan tâm thiết thực đến đời sống vật chất tinh thần của
đông đảo đồng bào vùng sâu, vùng xa, nâng cao trình độ dân trí, tôn trọng và phát huy
bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
việc. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho cấp xã, phường, thị trấn. Quán triệt và triển khai nghiêm túc Chương trình cải cách hành chính, tiếp tục rà soát và sửa đổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tập trung vào một số lĩnh vực bức xúc để giải quyết kịp thời công việc cho tổ chức, công dân, nhất là trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh. Rút kinh nghiệm việc thực hiện cơ chế "một cửa" tại các đơn vị làm điểm để hoàn thiện và triển khai rộng đến xã, phường, thị trấn. Phát huy tốt hiệu quả của mạng thông tin điện tử của tỉnh trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra công vụ nhằm chấn chỉnh và tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính trong bộ máy hành chính nhà nước từ tỉnh đến cơ sở; thực hiện tốt công tác tiếp dân và giải quyết kịp thời đơn thư, khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa, chuyển hoạt động của các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công sang cơ chế dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tiếp tục chủ động, sáng tạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng tập trung cho cơ sở, nâng cao chất lượng tổ chức và đa dạng hóa hoạt động, tuyên truyền, giáo dục đoàn viên, hội viên, vận động nhân dân tham gia thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước tại địa phương, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, tích cực tham gia cuộc vận động "toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", thực hiện có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Các cấp, các ngành thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, coi đó là nguồn sức mạnh tổng hợp của toàn dân để nâng cao đời sống nhân dân, chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, quan tâm thiết thực đến đời sống vật chất và tinh thần của đông đảo đồng bào vùng sâu, vùng xa, nâng cao trình độ dân trí, tôn trọng và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về chính sách dân tộc, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định
số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ Hướng dẫn thi hành một số điều của pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; vận động đồng bào đấu tranh làm thất bại âm mưu, luận điệu
tuyên truyền xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch và các phần tử xấu đối với
công tác dân tộc, tôn giáo. Tiếp tục kiện toàn tổ chức và bố trí cán bộ có năng lực làm
công tác dân tộc, tôn giáo của tỉnh, huyện và cơ sở; xây dựng vững mạnh cơ sở chính trị
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Thực hiện tốt công tác quy hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Đẩy mạnh củng cố, kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến
sở đảm bảo tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan cho phù hợp với yêu cầu của tình hình cải
cách hành chính nhà nước ở địa phương.
Tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định, quy chế về công tác cán bộ
theo hướng phân cấp mạnh cho huyện, ngành và cơ sở. Thực hiện tốt quy định, phát huy
dân chủ trong đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ làm cơ sở cho việc đề bạt, bổ
nhiệm, bố trí sử dụng và đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Chỉ xem xét đề bạt, bổ nhiệm đối
với những cán bộ đủ tiêu chuẩn, được đánh giá hoàn thành nhiệm vụ và nằm trong
quy hoạch.
Tăng cường kiểm tra cán bộ và việc thực hiện các nội dung về công tác cán bộ;
kịp thời làm rõ, kết luận những vấn đề liên quan đến cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm
minh các trường hợp vi phạm. Thực hiện đúng chế độ chính sách đối với cán bộ, xây
dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định cụ thể về chính sách đối với cán bộ trong đào
tạo, bồi dưỡng, bảo vệ sức khỏe, có chính sách thu hút nhân tài, học sinh, sinh viên
các trường đại học tốt nghiệp loại khá, giỏi và những người có trình độ sau đại học về
công tác tại địa phương, quan tâm đến công tác cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số.
Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững ổn định
chính trị; xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân
các cấp trong tỉnh thật sự trong sạch, vững mạnh.
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị định số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ Hướng dẫn thi hành một số điều của pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; vận động đồng bào đấu tranh làm thất bại âm mưu, luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch và các phần tử xấu đối với công tác dân tộc, tôn giáo. Tiếp tục kiện toàn tổ chức và bố trí cán bộ có năng lực làm công tác dân tộc, tôn giáo của tỉnh, huyện và cơ sở; xây dựng vững mạnh cơ sở chính trị vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh củng cố, kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở đảm bảo tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan cho phù hợp với yêu cầu của tình hình cải cách hành chính nhà nước ở địa phương. Tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định, quy chế về công tác cán bộ theo hướng phân cấp mạnh cho huyện, ngành và cơ sở. Thực hiện tốt quy định, phát huy dân chủ trong đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ làm cơ sở cho việc đề bạt, bổ nhiệm, bố trí sử dụng và đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Chỉ xem xét đề bạt, bổ nhiệm đối với những cán bộ đủ tiêu chuẩn, được đánh giá là hoàn thành nhiệm vụ và nằm trong quy hoạch. Tăng cường kiểm tra cán bộ và việc thực hiện các nội dung về công tác cán bộ; kịp thời làm rõ, kết luận những vấn đề liên quan đến cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Thực hiện đúng chế độ chính sách đối với cán bộ, xây dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định cụ thể về chính sách đối với cán bộ trong đào tạo, bồi dưỡng, bảo vệ sức khỏe, có chính sách thu hút nhân tài, học sinh, sinh viên ở các trường đại học tốt nghiệp loại khá, giỏi và những người có trình độ sau đại học về công tác tại địa phương, quan tâm đến công tác cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số. Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững ổn định chính trị; xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân các cấp trong tỉnh thật sự trong sạch, vững mạnh.
Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực. Các cấp các ngành phải xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Cải cách
hành chính nhà nước là một biện pháp mạnh mẽ có khả năng phát huy dân chủ, đoàn kết
toàn dân qua hoạt động công khai, dân chủ với các hoạt động có huy động sức dân và đầu
tư tài chính của nhà nước vào các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng; phát triển kinh tế
- hội ở mỗi sở cho nên cần phải gắn với công tác phòng chống quan liêu, tham
nhũng ngay từ khi triển khai thực hiện cải cách hành chính ở mỗi cơ sở, mỗi cấp, mỗi
ngành.
2.2.2.2. Về phương hướng và mục tiêu phát triển đến năm 2010 mà cải cách
hành chính cần hướng tới
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV xác định, phương
hướng chung của tỉnh là: tăng trưởng kinh tế nhanh và vững chắc, chuyển dịch mạnh cơ
cấu kinh tế năm 2010, tỉnh Tuyên Quang có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông
lâm nghiệp; trọng tâm là đẩy mạnh phát triển một số ngành công nghiệp có lợi thế như
chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác chế biến khoáng sản;
phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất du lịch, đồng thời tiếp tục coi trọng phát
triển kinh tế nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường, tăng hộ
giàu, giảm hộ nghèo, phấn đấu đến năm 2010 bản Tuyên Quang thoát khỏi tỉnh
nghèo, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, văn
hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, nâng cao thu nhập.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nâng cao năng lực sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các
đoàn thể quần chúng thật sự trong sạch vững mạnh, đảm bảo lãnh đạo, quản lý, điều
hành hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, giỏi chuyên môn, có
phong cách làm việc tốt, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
2.2.2.3. Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2010
Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Các cấp các ngành phải xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Cải cách hành chính nhà nước là một biện pháp mạnh mẽ có khả năng phát huy dân chủ, đoàn kết toàn dân qua hoạt động công khai, dân chủ với các hoạt động có huy động sức dân và đầu tư tài chính của nhà nước vào các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng; phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi cơ sở cho nên cần phải gắn với công tác phòng chống quan liêu, tham nhũng ngay từ khi triển khai thực hiện cải cách hành chính ở mỗi cơ sở, mỗi cấp, mỗi ngành. 2.2.2.2. Về phương hướng và mục tiêu phát triển đến năm 2010 mà cải cách hành chính cần hướng tới Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV xác định, phương hướng chung của tỉnh là: tăng trưởng kinh tế nhanh và vững chắc, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế năm 2010, tỉnh Tuyên Quang có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông lâm nghiệp; trọng tâm là đẩy mạnh phát triển một số ngành công nghiệp có lợi thế như chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác và chế biến khoáng sản; phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, đồng thời tiếp tục coi trọng phát triển kinh tế nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường, tăng hộ giàu, giảm hộ nghèo, phấn đấu đến năm 2010 cơ bản Tuyên Quang thoát khỏi tỉnh nghèo, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo, văn hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; giải quyết tốt các vấn đề xã hội, tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, nâng cao thu nhập. Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng thật sự trong sạch vững mạnh, đảm bảo lãnh đạo, quản lý, điều hành hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, giỏi chuyên môn, có phong cách làm việc tốt, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. 2.2.2.3. Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2010
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 14%.
- Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế:
+ Công nghiệp, xây dựng: 40%
+ Các ngành dịch vụ: 35%
+ Nông lâm nghiệp; 25%
- Đến năm 2010, GDP bình quân đạt trên 740 USD/người (tương đương
11.7000.000 đồng Việt Nam, theo tỷ giá thời điểm tháng 10/2005).
- Tổng vốn đầu phát triển công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 trên 7.000 tỷ
đồng, giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 3.600 tỷ đồng, tăng bình quân 27%; cơ cấu
lao động ngành công nghiệp chiếm 27%; thu ngân sách từ sản xuất công nghiệp chiếm
hơn 30% tổng thu ngân sách trên địa bàn.
- Giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp tăng bình quân trên 7%/năm, giá trị sản
xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 16% năm.
- Sản xuất lương thực đạt trên 32 vạn tấn.
- Trồng mới 30.000 ha rừng tập trung, độ che phủ của rừng đạt trên 64%.
- Kim ngạch xuất khẩu đạt trên 27 triệu USD, tăng bình quân hàng năm 18%
năm.
- Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân trên 17% năm.
- Thu hút trên 500.000 lượt khách du lịch đến Tuyên Quang.
- Trên 85% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 80% số hộ dân được sử dụng
nước sạch.
- Tỷ lệ hộ nghèo dưới 15%.
- Tạo việc làm mới cho trên 58.000 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo
trên 30% so với tổng số lao động toàn tỉnh; xuất khẩu lao động trên 8.000 người.
- Phấn đấu hàng năm trên 70% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh;
trên 80% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ, trong đó 60% đảng viên đủ tư cách
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- 100% thôn, bản, tổ nhân dân, trường học có chi bộ đảng.
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 14%. - Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế: + Công nghiệp, xây dựng: 40% + Các ngành dịch vụ: 35% + Nông lâm nghiệp; 25% - Đến năm 2010, GDP bình quân đạt trên 740 USD/người (tương đương 11.7000.000 đồng Việt Nam, theo tỷ giá thời điểm tháng 10/2005). - Tổng vốn đầu tư phát triển công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 trên 7.000 tỷ đồng, giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 3.600 tỷ đồng, tăng bình quân 27%; cơ cấu lao động ngành công nghiệp chiếm 27%; thu ngân sách từ sản xuất công nghiệp chiếm hơn 30% tổng thu ngân sách trên địa bàn. - Giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp tăng bình quân trên 7%/năm, giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 16% năm. - Sản xuất lương thực đạt trên 32 vạn tấn. - Trồng mới 30.000 ha rừng tập trung, độ che phủ của rừng đạt trên 64%. - Kim ngạch xuất khẩu đạt trên 27 triệu USD, tăng bình quân hàng năm 18% năm. - Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân trên 17% năm. - Thu hút trên 500.000 lượt khách du lịch đến Tuyên Quang. - Trên 85% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 80% số hộ dân được sử dụng nước sạch. - Tỷ lệ hộ nghèo dưới 15%. - Tạo việc làm mới cho trên 58.000 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo trên 30% so với tổng số lao động toàn tỉnh; xuất khẩu lao động trên 8.000 người. - Phấn đấu hàng năm trên 70% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh; trên 80% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ, trong đó 60% đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ. - 100% thôn, bản, tổ nhân dân, trường học có chi bộ đảng.
- 100% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên,
trong đó trên 40% có trình độ cao đẳng, đại học; là đảng viên có trình độ lý luận chính
trị trung cấp trở lên.
- 100% cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiên cứu tổng hợp, nghiệp vcủa quan
Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện có trình độ chuyên môn từ đại học trở
lên, trong đó ít nhất 3% có trình độ trên đại học, đảng viên trình độ lý luận
chính trị trung cấp trở lên; 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy
quản lý có trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên.
- Phấn đấu trên 70% chính quyền xã, phường, thị trấn đạt vững mạnh.
- Phấn đấu trên 70% tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cơ sở
đạt vững mạnh.
Sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, hoạt động quản Nhà nước của các cấp
chính quyền hoạt động cải cách hành chính của tỉnh phải hướng tới thực hiện các
mục tiêu trên.
2.2.3. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện cải cách hành
chính giai đoạn 2001 - 2005
Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -
2010 của Chính phủ. Cấp ủy, chính quyền các cấp và Ban chỉ đạo cải cách hành chính
của tỉnh đã xác định mục tiêu cụ thể, tập trung chỉ đạo các Sở, ngành UBND các
huyện, thị xã thực hiện công tác cải cách hành chính trên 4 nội dung của chương trình,
bước đầu đạt kết quả.
- Về cải cách thể chế hành chính:
Tỉnh đã tập trung rà soát các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
ban hành để sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Uỷ ban nhân dân đã chỉ đạo thực hiện công
tác rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, đổi mới quy trình xây dựng ban hành
văn bản pháp luật theo thẩm quyền; ban hành 23 văn bản quy phạm pháp luật tập trung
chủ yếu trên các lĩnh vực: quản lý đất đai; quy trình đền giải phóng mặt bằng xây
dựng; quản lý, kinh doanh về lĩnh vực giao thông vận tải, công nghiệp - điện; quy hoạch
phát triển công nghiệp, du lịch, nông nghiệp; lĩnh vực quản lý, sử dụng vốn; tổ chức cán
- 100% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, trong đó trên 40% có trình độ cao đẳng, đại học; là đảng viên có trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên. - 100% cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiên cứu tổng hợp, nghiệp vụ của cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên, trong đó có ít nhất 3% có trình độ trên đại học, là đảng viên có trình độ lý luận chính trị trung cấp trở lên; 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý có trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên. - Phấn đấu trên 70% chính quyền xã, phường, thị trấn đạt vững mạnh. - Phấn đấu trên 70% tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cơ sở đạt vững mạnh. Sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, hoạt động quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền và hoạt động cải cách hành chính của tỉnh phải hướng tới thực hiện các mục tiêu trên. 2.2.3. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện cải cách hành chính giai đoạn 2001 - 2005 Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 của Chính phủ. Cấp ủy, chính quyền các cấp và Ban chỉ đạo cải cách hành chính của tỉnh đã xác định mục tiêu cụ thể, tập trung chỉ đạo các Sở, ngành và UBND các huyện, thị xã thực hiện công tác cải cách hành chính trên 4 nội dung của chương trình, bước đầu đạt kết quả. - Về cải cách thể chế hành chính: Tỉnh đã tập trung rà soát các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ban hành để sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Uỷ ban nhân dân đã chỉ đạo thực hiện công tác rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản pháp luật theo thẩm quyền; ban hành 23 văn bản quy phạm pháp luật tập trung chủ yếu trên các lĩnh vực: quản lý đất đai; quy trình đền bù giải phóng mặt bằng xây dựng; quản lý, kinh doanh về lĩnh vực giao thông vận tải, công nghiệp - điện; quy hoạch phát triển công nghiệp, du lịch, nông nghiệp; lĩnh vực quản lý, sử dụng vốn; tổ chức cán
bộ. Tổ chức soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật: từ năm 2001-2004 đã
tiến hành rà soát 6.965 văn bản do Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh ban hành,
trong đó văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực; 236 văn bản quy phạm pháp luật còn
hiệu lực; 473 văn bản pháp áp dụng pháp luật... đề nghị sửa đổi, bổ sung 05 văn bản;
trong năm 2005 đã rà soát 6.386 văn bản do Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh
ban hành về lĩnh vực quan hệ đầu tư, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, công khai minh
bạch phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; văn bản về phí, lệ phí; văn bản về bảo vệ bí mật
nhà nước; văn bản về xử lý hành chính.
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đưa công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đi
vào nề nếp. Qua công tác rà soát, sửa đổi bổ sung và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật đã loại bỏ tình trạng những văn bản chồng chéo, trùng lắp đồng thời làm rõ chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ được giao. Giúp cho các cơ quan, đơn vị và nhân dân thực hiện các quy định
của nhà nước công khai, minh bạch, rõ ràng và tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào
hoạt động của chính quyền, giám sát hoạt động của chính quyền đội ngũ cán bộ,
công chức.
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo
chế "một cửa" trên một số lĩnh vực: chứng thực - hộ tịch, cấp phép kinh doanh, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng, lao động thương binh và xã
hội. Đến nay đã thực hiện 11 Sở, ngành, 06 huyện, 7/7 xã, phường của thị xã Tuyên
Quang và 51 xã, thị trấn thuộc 2 huyện: Hàm Yên, Sơn Dương. Trong đó đối với cấp
huyện, các lĩnh vực thực hiện áp dụng cơ chế "một cửa" gồm: giải quyết hồ sơ mua bán,
chuyển nhượng nhà, chuyển quyền sử dụng đất và cấp phép xây dựng; cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh; chứng thực; lao động, thương binh và xã hội cấp huyện.
Đối với cấp xã, các lĩnh vực thực hiện cơ chế "một cửa" gồm: chứng thực, lao động,
thương binh và xã hội, cấp phép xây dựng nhà ở.
Kết quả từ năm 2001 - 12/2005:
Đối với ủy ban nhân dân các huyện, thị xã: về lĩnh vực đất đai đã giải quyết xong
4.225 hồ sơ, lĩnh vực xây dựng: giải quyết xong 574 hồ sơ, lĩnh vực đăng kinh
bộ. Tổ chức rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật: từ năm 2001-2004 đã tiến hành rà soát 6.965 văn bản do Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, trong đó văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực; 236 văn bản quy phạm pháp luật còn hiệu lực; 473 văn bản pháp áp dụng pháp luật... đề nghị sửa đổi, bổ sung 05 văn bản; trong năm 2005 đã rà soát 6.386 văn bản do Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân tỉnh ban hành về lĩnh vực quan hệ đầu tư, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, công khai minh bạch phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; văn bản về phí, lệ phí; văn bản về bảo vệ bí mật nhà nước; văn bản về xử lý hành chính. Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đưa công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đi vào nề nếp. Qua công tác rà soát, sửa đổi bổ sung và ban hành văn bản quy phạm pháp luật đã loại bỏ tình trạng những văn bản chồng chéo, trùng lắp đồng thời làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao. Giúp cho các cơ quan, đơn vị và nhân dân thực hiện các quy định của nhà nước công khai, minh bạch, rõ ràng và tạo điều kiện để nhân dân tham gia vào hoạt động của chính quyền, giám sát hoạt động của chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức. Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa" trên một số lĩnh vực: chứng thực - hộ tịch, cấp phép kinh doanh, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng, lao động thương binh và xã hội. Đến nay đã thực hiện ở 11 Sở, ngành, 06 huyện, 7/7 xã, phường của thị xã Tuyên Quang và 51 xã, thị trấn thuộc 2 huyện: Hàm Yên, Sơn Dương. Trong đó đối với cấp huyện, các lĩnh vực thực hiện áp dụng cơ chế "một cửa" gồm: giải quyết hồ sơ mua bán, chuyển nhượng nhà, chuyển quyền sử dụng đất và cấp phép xây dựng; cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; chứng thực; lao động, thương binh và xã hội ở cấp huyện. Đối với cấp xã, các lĩnh vực thực hiện cơ chế "một cửa" gồm: chứng thực, lao động, thương binh và xã hội, cấp phép xây dựng nhà ở. Kết quả từ năm 2001 - 12/2005: Đối với ủy ban nhân dân các huyện, thị xã: về lĩnh vực đất đai đã giải quyết xong 4.225 hồ sơ, lĩnh vực xây dựng: giải quyết xong 574 hồ sơ, lĩnh vực đăng ký kinh
doanh: giải quyết xong 1.282 hồ sơ, lĩnh vực chứng thực giải quyết xong 31.312 việc,
lĩnh vực lao động thương binh và xã hội: giải quyết xong 1.430 hồ sơ.
Đối với các sở, ngành: lập thủ tục xin thu hồi đất: tiếp nhận 94 hồ sơ; đã giải
quyết 63 lượt hồ sơ đủ điều kiện; lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất: tiếp nhận 50 hồ sơ; đã giải quyết xong 50 hồ sơ; lập thủ tục đăng ký thế chấp: tiếp
nhận 5 hồ sơ; đã giải quyết xong 4/5 hồ sơ; lĩnh vực khoáng sản: 36 lượt hồ sơ; đã giải
quyết xong 22 hồ sơ; lĩnh vực tài nguyên nước: tiếp nhận và giải quyết xong 03 hồ sơ;
lĩnh vực môi trường: tiếp nhận và giải quyết xong 04 hồ sơ công chứng: chứng nhận bản
sao: 70.197 việc; hộ tịch, lý lịch tư pháp: tiếp nhận và giải quyết 321 việc; tiếp nhận hồ
thương binh liệt sỹ: 11 hồ sơ; giới thiệu di chuyển chế độ 23 đối tượng; đổi 64 thẻ
thương binh, gia đình liệt sỹ...; lĩnh vực xây dựng: đã tiếp nhận và giải quyết 36 hồ sơ
thẩm định dự toán thiết kế công trình xây dựng; lĩnh vực kiểm lâm: đã cấp 5.481 giấy
xác nhận vận chuyển lâm sản nhanh gọn, đúng quy định.
Việc áp dụng cơ chế "một cửa" đã góp phần nâng cao chất lượng giải quyết công
việc, giảm phiền hà, thay đổi lề lối, phong cách làm việc của các quan hành chính
nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong giao dịch với tổ chức, doanh nghiệp
công dân.
- Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính:
+ Từ năm 2000 - 2003 ủy ban nhân dân tỉnh đã thực hiện rà soát và xác định lại
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban
nhân dân tỉnh.
Sau khi có Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ "quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương" ủy ban nhân dân tỉnh đã trình thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh về cơ cấu
tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh về cơ cấu tổ
chức bộ máy các quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Đến nay đã phê duyệt cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân
dân cấp huyện và rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế các cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh, từ năm 2001 - 2005: sáp nhập 02 cơ quan chuyên môn thuộc ủy
doanh: giải quyết xong 1.282 hồ sơ, lĩnh vực chứng thực giải quyết xong 31.312 việc, lĩnh vực lao động thương binh và xã hội: giải quyết xong 1.430 hồ sơ. Đối với các sở, ngành: lập thủ tục xin thu hồi đất: tiếp nhận 94 hồ sơ; đã giải quyết 63 lượt hồ sơ đủ điều kiện; lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: tiếp nhận 50 hồ sơ; đã giải quyết xong 50 hồ sơ; lập thủ tục đăng ký thế chấp: tiếp nhận 5 hồ sơ; đã giải quyết xong 4/5 hồ sơ; lĩnh vực khoáng sản: 36 lượt hồ sơ; đã giải quyết xong 22 hồ sơ; lĩnh vực tài nguyên nước: tiếp nhận và giải quyết xong 03 hồ sơ; lĩnh vực môi trường: tiếp nhận và giải quyết xong 04 hồ sơ công chứng: chứng nhận bản sao: 70.197 việc; hộ tịch, lý lịch tư pháp: tiếp nhận và giải quyết 321 việc; tiếp nhận hồ sơ thương binh liệt sỹ: 11 hồ sơ; giới thiệu di chuyển chế độ 23 đối tượng; đổi 64 thẻ thương binh, gia đình liệt sỹ...; lĩnh vực xây dựng: đã tiếp nhận và giải quyết 36 hồ sơ thẩm định dự toán thiết kế công trình xây dựng; lĩnh vực kiểm lâm: đã cấp 5.481 giấy xác nhận vận chuyển lâm sản nhanh gọn, đúng quy định. Việc áp dụng cơ chế "một cửa" đã góp phần nâng cao chất lượng giải quyết công việc, giảm phiền hà, thay đổi lề lối, phong cách làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong giao dịch với tổ chức, doanh nghiệp và công dân. - Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính: + Từ năm 2000 - 2003 ủy ban nhân dân tỉnh đã thực hiện rà soát và xác định lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh. Sau khi có Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ "quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương" ủy ban nhân dân tỉnh đã trình thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh về cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh về cơ cấu tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện. Đến nay đã phê duyệt cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện và rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, từ năm 2001 - 2005: sáp nhập 02 cơ quan chuyên môn thuộc ủy