LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang
6,122
774
93
hiện đều thông qua sự vận hành của hệ thống hành chính. Hiệu lực, hiệu quả của
quản
lý nhà nước còn phụ thuộc rất lớn vào năng lực tổ chức và điều hành trên thực
tiễn của
bộ máy hành chính cùng sự tinh thông nghiệp vụ và phẩm chất phục vụ của đội ngũ
đông đảo công chức hành chính.
Mặt khác, con đường quan hệ trực tiếp với nhà nước ở phía xã hội và công dân
được thiết lập, được giải quyết chính thức và cụ thể vẫn là qua các cơ quan hành
chính
nhà nước. Với kết cấu phân cấp, phân hệ trong thực hiện quyền hành chính nhà
nước và
tích hợp quản lý đa ngành của các cơ quan hành chính thẩm quyền riêng với hệ
thống
phân cấp các tổ chức hành chính thẩm quyền chung đã thường làm cho bộ máy hành
chính phức tạp với một hệ thống đồ sộ các cơ quan trong tổ chức nhà nước. Với
phương
thức quản lý kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp được duy trì qua nhiều
thập
niên đã làm cho tính quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm cụ thể của đội ngũ
công
chức là một thực tế không dễ dàng thay đổi. Hai mươi năm đổi mới, Đảng và Nhà
nước đã kiên quyết thay đổi, đoạn tuyệt với cơ chế quản lý tập trung kế hoạch
hóa
bao cấp đó. Đảng bộ và chính quyền tỉnh Tuyên Quang đã cùng 22 dân tộc anh em
của tỉnh phấn khởi thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.
Cải cách hành chính nhà nước được đặt ra như một nhiệm vụ tất yếu để thay đổi
phương thức quản lý điều hành nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong hội nhập phát triển kinh tế quốc tế.
Đối với Tuyên Quang thì cải cách hành chính là một cơ hội thực sự để các
cấp chính quyền trong tỉnh bứt phá những hạn chế của chính mình, đổi mới đội
ngũ,
cải cách thể chế, hiện đại hóa phương thức quản lý, đáp ứng được những thách
thức
của sự phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý nhà
nước trước nhân dân. Cũng như cơ hội kinh tế, cơ hội hợp tác, liên kết, liên
doanh để
phát triển, cơ hội cải cách hành chính cũng "không có tính chờ đợi", nó sẽ bỏ
lại tụt
hậu cho các "chủ thể công quyền" nếu không biết nắm bắt và tự mình khẳng định
vươn lên. Muốn xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh mà không biết tự cải
cách chính mình thì thực sự tự làm khó cho mình. Không thể coi cải cách hành
chính, cải cách thủ tục hành chính một cửa, xây dựng chính phủ điện tử, v.v.. là
những việc của chính phủ trung ương, của các tỉnh thành lớn chứ đâu của một tỉnh
nghèo, một tỉnh nhỏ như Tuyên Quang. Đó là những tư duy chật hẹp và trì trệ,
chính
nó là một trở ngại lớn cho công tác xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngay trong những ngày đầu lập Nhà nước Dân chủ
Cộng hòa, Hồ Chí Minh cùng Quốc hội lập hiến và Chính phủ kháng chiến đã quyết
xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân để giữ vững nền độc
lập cho nước nhà, để bảo đảm tự do dân chủ cho nhân dân, để phát huy sức mạnh
khối đại đoàn kết toàn dân. Chính phủ kháng chiến ở Việt Bắc, ở Tuyên Quang
trong
kháng chiến chống thực dân Pháp là một chính phủ mạnh mẽ và sáng suốt của nhân
dân, các cấp chính quyền ở "Châu tự do", ở "An toàn khu" là một chính quyền
trong
sạch vững mạnh. Ngày nay các cấp chính quyền ở Tuyên Quang tham gia thực hiện
Chương trình cải cách hành chính nhà nước cần phát huy truyền thống văn hóa,
truyền thống cách mạng của quê hương, chủ động và sáng tạo thực hiện thắng lợi
các
nội dung chương trình cải cách hành chính của tỉnh. Xác định cải cách là một môi
trường, một biện pháp quan trọng để xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh
và tạo ra bước đột phá quan trọng trong thực hiện các mục tiêu phát triển kinh
tế - xã
hội của Đại hội Đảng bộ lần thứ XIV đã xây dựng. Mục tiêu mà Chương trình cải
cách
hành chính ở Tuyên Quang phải hướng tới mục tiêu chung của chương trình tổng thể
cải
cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010 là: "Xây dựng một nền hành chính
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hóa, hoạt động có hiệu
lực,
hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh
đạo của Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp
ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đến năm 2010, hệ thống
hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa" (Mục tiêu của chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010). Thời gian giành cho công cuộc cải
cách
giai đoạn 2 của Tuyên Quang không phải là nhiều song nếu biết tận dụng những cơ
hội và tiến hành có phương pháp thích hợp thì mục tiêu có thể được thực hiện với
những nỗ lực cao độ của cả hệ thống chính trị.
2.2.2. Những yêu cầu và nội dung cơ bản của chương trình cải cách hành
chính ở Tuyên Quang hiện nay
Chương trình cải cách hành chính nhà nước ở tỉnh Tuyên Quang là thực hiện
mục tiêu chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước đồng thời thực hiện
các
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng chính quyền các cấp trong sạch
vững
mạnh theo nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2006 - 2010.
Tuy nhiên cần thấy mục tiêu bao trùm của công cuộc cải cách hành chính ở
Tuyên Quang chính là: thực hiện trên thực tế chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của
nhân dân. Biểu hiện cụ thể là: Đảm bảo và phát huy tối đa dân chủ cơ sở, xây
dựng bộ
máy chính quyền vững mạnh từ tỉnh đến các xã, làng bản. Đó là chính quyền phản
ảnh
quyền lợi của người dân, mang lại lợi ích cho người dân, các dân tộc. Đó là
chính quyền
của dân, do dân, vì dân.
Muốn vậy, Tuyên Quang đã xây dựng kế hoạch về cải cách hành chính, trong đó:
2.2.2.1. Về công tác xây dựng chính quyền
Trong những năm tới cần tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức
hoạt
động của Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân và đại biểu Hội đồng
nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát, nâng cao chất lượng các cuộc họp Hội
đồng
nhân dân các cấp. Đề cao trách nhiệm, vai trò của đại biểu Hội đồng nhân dân
trong
việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp
luật của Nhà nước và tham gia vào việc quản lý nhà nước.
Xây dựng, kiện toàn chính quyền trong sạch, vững mạnh, trọng tâm là củng cố,
kiện toàn chính quyền cơ sở để nâng cao hiệu lực quản lý, điều hành và tổ chức
thực
hiện nhiệm vụ chính trị của cơ sở. Giải quyết kịp thời, dứt điểm những công việc
của
dân thuộc thẩm quyền. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có
phẩm chất, trình độ, năng lực và tinh thần trách nhiệm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đẩy mạnh phân công phân cấp cho ngành và ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã
nhằm nâng cao trách nhiệm và tạo sự chủ động, sáng tạo trong tổ chức điều hành
công
việc. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho cấp xã, phường, thị trấn.
Quán
triệt và triển khai nghiêm túc Chương trình cải cách hành chính, tiếp tục rà
soát và sửa
đổi, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tập trung vào một số lĩnh vực bức xúc để
giải
quyết kịp thời công việc cho tổ chức, công dân, nhất là trong việc tạo điều kiện
thuận lợi
cho doanh nghiệp, cá nhân phát triển sản xuất kinh doanh.
Rút kinh nghiệm việc thực hiện cơ chế "một cửa" tại các đơn vị làm điểm để
hoàn thiện và triển khai rộng đến xã, phường, thị trấn. Phát huy tốt hiệu quả
của mạng
thông tin điện tử của tỉnh trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ.
Thực
hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra công vụ nhằm chấn chỉnh và tăng cường kỷ
luật, kỷ
cương hành chính trong bộ máy hành chính nhà nước từ tỉnh đến cơ sở; thực hiện
tốt
công tác tiếp dân và giải quyết kịp thời đơn thư, khiếu nại, tố cáo của nhân
dân.
Đẩy mạnh thực hiện chủ trương xã hội hóa, chuyển hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp, dịch vụ công sang cơ chế dịch vụ phù hợp với cơ chế thị trường định
hướng xã
hội chủ nghĩa.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc xây dựng Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân. Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tiếp tục chủ
động,
sáng tạo đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng tập trung cho cơ sở,
nâng
cao chất lượng tổ chức và đa dạng hóa hoạt động, tuyên truyền, giáo dục đoàn
viên, hội
viên, vận động nhân dân tham gia thực hiện tốt các phong trào thi đua yêu nước
tại địa
phương, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, làm giàu chính đáng, tích cực
tham gia
cuộc vận động "toàn dân đoàn kết, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư", thực
hiện
có hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Thường xuyên quan tâm đến công tác đào tạo,
bồi
dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác Mặt trận và
các đoàn thể nhân dân.
Các cấp, các ngành thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, coi
đó là nguồn sức mạnh tổng hợp của toàn dân để nâng cao đời sống nhân dân, chăm
sóc
sức khỏe cho cộng đồng, quan tâm thiết thực đến đời sống vật chất và tinh thần
của
đông đảo đồng bào vùng sâu, vùng xa, nâng cao trình độ dân trí, tôn trọng và
phát huy
bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc.
Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về chính sách dân tộc, tôn giáo của
Đảng và Nhà nước. Thực hiện nghiêm túc pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo và Nghị
định
số 22/NĐ-CP ngày 01/3/2005 của Chính phủ Hướng dẫn thi hành một số điều của pháp
lệnh tín ngưỡng, tôn giáo; vận động đồng bào đấu tranh làm thất bại âm mưu, luận
điệu
tuyên truyền xuyên tạc, vu khống của các thế lực thù địch và các phần tử xấu đối
với
công tác dân tộc, tôn giáo. Tiếp tục kiện toàn tổ chức và bố trí cán bộ có năng
lực làm
công tác dân tộc, tôn giáo của tỉnh, huyện và cơ sở; xây dựng vững mạnh cơ sở
chính trị
vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, tôn giáo. Thực hiện tốt công tác quy
hoạch,
đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ là người dân tộc thiểu số.
Đẩy mạnh củng cố, kiện toàn các tổ chức trong hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ
sở đảm bảo tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Rà soát, sửa đổi, bổ sung
chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan cho phù hợp với yêu cầu của tình hình
cải
cách hành chính nhà nước ở địa phương.
Tiếp tục xây dựng, sửa đổi, bổ sung các quy định, quy chế về công tác cán bộ
theo hướng phân cấp mạnh cho huyện, ngành và cơ sở. Thực hiện tốt quy định, phát
huy
dân chủ trong đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ làm cơ sở cho việc đề bạt,
bổ
nhiệm, bố trí sử dụng và đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Chỉ xem xét đề bạt, bổ nhiệm
đối
với những cán bộ đủ tiêu chuẩn, được đánh giá là hoàn thành nhiệm vụ và nằm
trong
quy hoạch.
Tăng cường kiểm tra cán bộ và việc thực hiện các nội dung về công tác cán bộ;
kịp thời làm rõ, kết luận những vấn đề liên quan đến cán bộ, đảng viên, xử lý
nghiêm
minh các trường hợp vi phạm. Thực hiện đúng chế độ chính sách đối với cán bộ,
xây
dựng, bổ sung, hoàn chỉnh các quy định cụ thể về chính sách đối với cán bộ trong
đào
tạo, bồi dưỡng, bảo vệ sức khỏe, có chính sách thu hút nhân tài, học sinh, sinh
viên ở
các trường đại học tốt nghiệp loại khá, giỏi và những người có trình độ sau đại
học về
công tác tại địa phương, quan tâm đến công tác cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu
số.
Tiếp tục quan tâm làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững ổn định
chính trị; xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân
dân
các cấp trong tỉnh thật sự trong sạch, vững mạnh.
Đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu
cực. Các cấp các ngành phải xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục. Cải
cách
hành chính nhà nước là một biện pháp mạnh mẽ có khả năng phát huy dân chủ, đoàn
kết
toàn dân qua hoạt động công khai, dân chủ với các hoạt động có huy động sức dân
và đầu
tư tài chính của nhà nước vào các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng; phát
triển kinh tế
- xã hội ở mỗi cơ sở cho nên cần phải gắn với công tác phòng chống quan liêu,
tham
nhũng ngay từ khi triển khai thực hiện cải cách hành chính ở mỗi cơ sở, mỗi cấp,
mỗi
ngành.
2.2.2.2. Về phương hướng và mục tiêu phát triển đến năm 2010 mà cải cách
hành chính cần hướng tới
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV xác định, phương
hướng chung của tỉnh là: tăng trưởng kinh tế nhanh và vững chắc, chuyển dịch
mạnh cơ
cấu kinh tế năm 2010, tỉnh Tuyên Quang có cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ -
nông
lâm nghiệp; trọng tâm là đẩy mạnh phát triển một số ngành công nghiệp có lợi thế
như
chế biến nông lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng, khai thác và chế biến khoáng
sản;
phát triển nhanh các ngành dịch vụ, nhất là du lịch, đồng thời tiếp tục coi
trọng phát
triển kinh tế nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị trường,
tăng hộ
giàu, giảm hộ nghèo, phấn đấu đến năm 2010 cơ bản Tuyên Quang thoát khỏi tỉnh
nghèo, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Gắn kết chặt chẽ và đồng bộ hơn nữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, xã
hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Tiếp tục phát triển sự nghiệp giáo dục - đào
tạo, văn
hóa, chăm sóc sức khỏe nhân dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; giải quyết
tốt
các vấn đề xã hội, tạo điều kiện cho người lao động có việc làm, nâng cao thu
nhập.
Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các
đoàn thể quần chúng thật sự trong sạch vững mạnh, đảm bảo lãnh đạo, quản lý,
điều
hành hiệu quả. Xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị, giỏi chuyên môn,
có
phong cách làm việc tốt, đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài.
2.2.2.3. Một số mục tiêu cụ thể đến năm 2010
- Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 14%.
- Cơ cấu GDP theo ngành kinh tế:
+ Công nghiệp, xây dựng: 40%
+ Các ngành dịch vụ: 35%
+ Nông lâm nghiệp; 25%
- Đến năm 2010, GDP bình quân đạt trên 740 USD/người (tương đương
11.7000.000 đồng Việt Nam, theo tỷ giá thời điểm tháng 10/2005).
- Tổng vốn đầu tư phát triển công nghiệp giai đoạn 2006 - 2010 trên 7.000 tỷ
đồng, giá trị sản xuất công nghiệp đạt trên 3.600 tỷ đồng, tăng bình quân 27%;
cơ cấu
lao động ngành công nghiệp chiếm 27%; thu ngân sách từ sản xuất công nghiệp
chiếm
hơn 30% tổng thu ngân sách trên địa bàn.
- Giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp tăng bình quân trên 7%/năm, giá trị sản
xuất các ngành dịch vụ tăng bình quân 16% năm.
- Sản xuất lương thực đạt trên 32 vạn tấn.
- Trồng mới 30.000 ha rừng tập trung, độ che phủ của rừng đạt trên 64%.
- Kim ngạch xuất khẩu đạt trên 27 triệu USD, tăng bình quân hàng năm 18%
năm.
- Thu ngân sách trên địa bàn tăng bình quân trên 17% năm.
- Thu hút trên 500.000 lượt khách du lịch đến Tuyên Quang.
- Trên 85% số hộ được sử dụng điện lưới quốc gia, 80% số hộ dân được sử dụng
nước sạch.
- Tỷ lệ hộ nghèo dưới 15%.
- Tạo việc làm mới cho trên 58.000 lao động, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo
trên 30% so với tổng số lao động toàn tỉnh; xuất khẩu lao động trên 8.000 người.
- Phấn đấu hàng năm trên 70% tổ chức cơ sở đảng đạt trong sạch, vững mạnh;
trên 80% đảng viên đủ tư cách hoàn thành nhiệm vụ, trong đó 60% đảng viên đủ tư
cách
hoàn thành tốt nhiệm vụ.
- 100% thôn, bản, tổ nhân dân, trường học có chi bộ đảng.
- 100% cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên,
trong đó trên 40% có trình độ cao đẳng, đại học; là đảng viên có trình độ lý
luận chính
trị trung cấp trở lên.
- 100% cán bộ lãnh đạo, cán bộ nghiên cứu tổng hợp, nghiệp vụ của cơ quan
Đảng, chính quyền, đoàn thể cấp tỉnh, cấp huyện có trình độ chuyên môn từ đại
học trở
lên, trong đó có ít nhất 3% có trình độ trên đại học, là đảng viên có trình độ
lý luận
chính trị trung cấp trở lên; 100% cán bộ lãnh đạo, quản lý diện Ban Thường vụ
Tỉnh ủy
quản lý có trình độ cao cấp lý luận chính trị trở lên.
- Phấn đấu trên 70% chính quyền xã, phường, thị trấn đạt vững mạnh.
- Phấn đấu trên 70% tổ chức Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cơ sở
đạt vững mạnh.
Sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, hoạt động quản lý Nhà nước của các cấp
chính quyền và hoạt động cải cách hành chính của tỉnh phải hướng tới thực hiện
các
mục tiêu trên.
2.2.3. Những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện cải cách hành
chính giai đoạn 2001 - 2005
Thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -
2010 của Chính phủ. Cấp ủy, chính quyền các cấp và Ban chỉ đạo cải cách hành
chính
của tỉnh đã xác định mục tiêu cụ thể, tập trung chỉ đạo các Sở, ngành và UBND
các
huyện, thị xã thực hiện công tác cải cách hành chính trên 4 nội dung của chương
trình,
bước đầu đạt kết quả.
- Về cải cách thể chế hành chính:
Tỉnh đã tập trung rà soát các văn bản do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân
ban hành để sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ. Uỷ ban nhân dân đã chỉ đạo thực hiện
công
tác rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, đổi mới quy trình xây dựng và ban
hành
văn bản pháp luật theo thẩm quyền; ban hành 23 văn bản quy phạm pháp luật tập
trung
chủ yếu trên các lĩnh vực: quản lý đất đai; quy trình đền bù giải phóng mặt bằng
xây
dựng; quản lý, kinh doanh về lĩnh vực giao thông vận tải, công nghiệp - điện;
quy hoạch
phát triển công nghiệp, du lịch, nông nghiệp; lĩnh vực quản lý, sử dụng vốn; tổ
chức cán
bộ. Tổ chức rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật: từ năm 2001-2004
đã
tiến hành rà soát 6.965 văn bản do Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh ban
hành,
trong đó văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực; 236 văn bản quy phạm pháp luật
còn
hiệu lực; 473 văn bản pháp áp dụng pháp luật... đề nghị sửa đổi, bổ sung 05 văn
bản;
trong năm 2005 đã rà soát 6.386 văn bản do Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân
tỉnh
ban hành về lĩnh vực quan hệ đầu tư, thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ, công
khai minh
bạch phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế; văn bản về phí, lệ phí; văn bản về bảo vệ
bí mật
nhà nước; văn bản về xử lý hành chính.
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã đưa công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đi
vào nề nếp. Qua công tác rà soát, sửa đổi bổ sung và ban hành văn bản quy phạm
pháp
luật đã loại bỏ tình trạng những văn bản chồng chéo, trùng lắp đồng thời làm rõ
chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan trong quá trình thực
hiện
nhiệm vụ được giao. Giúp cho các cơ quan, đơn vị và nhân dân thực hiện các quy
định
của nhà nước công khai, minh bạch, rõ ràng và tạo điều kiện để nhân dân tham gia
vào
hoạt động của chính quyền, giám sát hoạt động của chính quyền và đội ngũ cán bộ,
công chức.
Uỷ ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ
chế "một cửa" trên một số lĩnh vực: chứng thực - hộ tịch, cấp phép kinh doanh,
cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, cấp giấy phép xây dựng, lao động thương binh và xã
hội. Đến nay đã thực hiện ở 11 Sở, ngành, 06 huyện, 7/7 xã, phường của thị xã
Tuyên
Quang và 51 xã, thị trấn thuộc 2 huyện: Hàm Yên, Sơn Dương. Trong đó đối với cấp
huyện, các lĩnh vực thực hiện áp dụng cơ chế "một cửa" gồm: giải quyết hồ sơ mua
bán,
chuyển nhượng nhà, chuyển quyền sử dụng đất và cấp phép xây dựng; cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh; chứng thực; lao động, thương binh và xã hội ở cấp
huyện.
Đối với cấp xã, các lĩnh vực thực hiện cơ chế "một cửa" gồm: chứng thực, lao
động,
thương binh và xã hội, cấp phép xây dựng nhà ở.
Kết quả từ năm 2001 - 12/2005:
Đối với ủy ban nhân dân các huyện, thị xã: về lĩnh vực đất đai đã giải quyết
xong
4.225 hồ sơ, lĩnh vực xây dựng: giải quyết xong 574 hồ sơ, lĩnh vực đăng ký kinh
doanh: giải quyết xong 1.282 hồ sơ, lĩnh vực chứng thực giải quyết xong 31.312
việc,
lĩnh vực lao động thương binh và xã hội: giải quyết xong 1.430 hồ sơ.
Đối với các sở, ngành: lập thủ tục xin thu hồi đất: tiếp nhận 94 hồ sơ; đã giải
quyết 63 lượt hồ sơ đủ điều kiện; lập thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng
đất: tiếp nhận 50 hồ sơ; đã giải quyết xong 50 hồ sơ; lập thủ tục đăng ký thế
chấp: tiếp
nhận 5 hồ sơ; đã giải quyết xong 4/5 hồ sơ; lĩnh vực khoáng sản: 36 lượt hồ sơ;
đã giải
quyết xong 22 hồ sơ; lĩnh vực tài nguyên nước: tiếp nhận và giải quyết xong 03
hồ sơ;
lĩnh vực môi trường: tiếp nhận và giải quyết xong 04 hồ sơ công chứng: chứng
nhận bản
sao: 70.197 việc; hộ tịch, lý lịch tư pháp: tiếp nhận và giải quyết 321 việc;
tiếp nhận hồ
sơ thương binh liệt sỹ: 11 hồ sơ; giới thiệu di chuyển chế độ 23 đối tượng; đổi
64 thẻ
thương binh, gia đình liệt sỹ...; lĩnh vực xây dựng: đã tiếp nhận và giải quyết
36 hồ sơ
thẩm định dự toán thiết kế công trình xây dựng; lĩnh vực kiểm lâm: đã cấp 5.481
giấy
xác nhận vận chuyển lâm sản nhanh gọn, đúng quy định.
Việc áp dụng cơ chế "một cửa" đã góp phần nâng cao chất lượng giải quyết công
việc, giảm phiền hà, thay đổi lề lối, phong cách làm việc của các cơ quan hành
chính
nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức trong giao dịch với tổ chức, doanh nghiệp
và
công dân.
- Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính:
+ Từ năm 2000 - 2003 ủy ban nhân dân tỉnh đã thực hiện rà soát và xác định lại
chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan chuyên môn thuộc ủy
ban
nhân dân tỉnh.
Sau khi có Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ "quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc
trung ương" ủy ban nhân dân tỉnh đã trình thông qua Hội đồng nhân dân tỉnh về cơ
cấu
tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh về cơ cấu
tổ
chức bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Đến nay đã phê duyệt cơ cấu tổ chức bộ máy cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân
dân cấp huyện và rà soát lại chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế các
cơ quan
chuyên môn cấp tỉnh, từ năm 2001 - 2005: sáp nhập 02 cơ quan chuyên môn thuộc ủy