LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang

6,123
774
93
xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền hội chủ nghĩa, lại càng không thể
không giữ vững và phát huy dân chủ, đại đoàn kết toàn dân. Chính vì lẽ đó mà trong
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về các văn kiện Đại hội X
của Đảng do Tổng thư Nông Đức Mạnh trình bày mục: "phát huy dân chủ
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ
nghĩa" [10, tr.40].
Việc Đảng ta kế thừa, giữ vững và phát huy các nguyên tắc tổ chức xây dựng
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân theo tưởng Hồ Chí Minh một
biểu hiện về sự kiên định mục tiêu của cách mạng Việt Nam luôn hướng tới xây dựng
một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như Chủ tịch Hồ
Chí Minh hằng tâm nguyện.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là sản phẩm
của sự vận dụng một cách sáng tạo Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước, tiếp thu những
tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, truyền thống văn hóa Việt Nam. Hồ Chí
Minh không rập khuôn một mô hình nhà nước nào có sẵn mà luôn căn cứ vào tình hình
thực tiễn cách mạng và xu hướng phát triển hợp lý của các kiểu nhà nước tiến bộ trong
biến chuyển chung của thời đại để hình thành nên một mô hình nhà nước độc lập, phù
hợp với sự phát triển của xã hội Việt Nam. Cho nên, có thể nói, Hồ Chí Minh đã hình
thành nên một hệ quan điểm độc lập về mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt Nam.
Chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa ở Hiến pháp Việt Nam năm 1946 là chính
thể nhà nước được xác lập một cách hết sức độc đáo cả về mặt nội dung và hình thức
thể hiện rất cô đọng dễ nhớ và dễ hiểu phù hợp với quảng đại quần chúng nhân dân. Với
3 điều chiếm 1/3 trang giấy mà toàn thể dân tộc nhìn vào đó thấy cả nhà nước dân chủ
cộng hòa với mọi quyền bính thuộc về toàn dân Việt Nam, thấy đất nước liền một dải
với quốc kỳ, quốc ca và thủ đô Hà Nội.
Về thể chế hành chính, Hiến pháp năm 1946 cũng thiết chế nên một bộ máy hành
chính, hành pháp tập trung quyền hành vào Chính phủ. Đứng đầu Chính phủ Chủ
tịch nước, Phó Chủ tịch và nội các...
xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lại càng không thể không giữ vững và phát huy dân chủ, đại đoàn kết toàn dân. Chính vì lẽ đó mà trong Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về các văn kiện Đại hội X của Đảng do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh trình bày có mục: "phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" [10, tr.40]. Việc Đảng ta kế thừa, giữ vững và phát huy các nguyên tắc tổ chức xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh là một biểu hiện về sự kiên định mục tiêu của cách mạng Việt Nam luôn hướng tới xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng tâm nguyện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam là sản phẩm của sự vận dụng một cách sáng tạo Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, truyền thống văn hóa Việt Nam. Hồ Chí Minh không rập khuôn một mô hình nhà nước nào có sẵn mà luôn căn cứ vào tình hình thực tiễn cách mạng và xu hướng phát triển hợp lý của các kiểu nhà nước tiến bộ trong biến chuyển chung của thời đại để hình thành nên một mô hình nhà nước độc lập, phù hợp với sự phát triển của xã hội Việt Nam. Cho nên, có thể nói, Hồ Chí Minh đã hình thành nên một hệ quan điểm độc lập về mô hình nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa ở Hiến pháp Việt Nam năm 1946 là chính thể nhà nước được xác lập một cách hết sức độc đáo cả về mặt nội dung và hình thức thể hiện rất cô đọng dễ nhớ và dễ hiểu phù hợp với quảng đại quần chúng nhân dân. Với 3 điều chiếm 1/3 trang giấy mà toàn thể dân tộc nhìn vào đó thấy cả nhà nước dân chủ cộng hòa với mọi quyền bính thuộc về toàn dân Việt Nam, thấy đất nước liền một dải với quốc kỳ, quốc ca và thủ đô Hà Nội. Về thể chế hành chính, Hiến pháp năm 1946 cũng thiết chế nên một bộ máy hành chính, hành pháp tập trung quyền hành vào Chính phủ. Đứng đầu Chính phủ có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch và nội các...
Sáu mươi năm đã qua, nhìn lại hình ảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
buổi ban đầu, chúng ta vẫn thấy tính hiện đại, tính dân chủ, tính pháp quyền rất cao
trong thiết chế Nhà nước Việt Nam mới.
Sự hình thành một hệ thống lý luận độc lập về mô hình tổ chức nhà nước hiện nay
một đòi hỏi của thực tiễn khách quan, song song với việc tiếp thu luận kinh
nghiệm nước ngoài, chúng ta phải kế thừa một cách có phát triển các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho các nguyên tắc tổ chức nhà
nước pháp quyền dân chủ có khả năng định hướng đúng đắn con đường thực hành quyền
lực nhà nước phục vụ chủ trương xây dựng: "xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên
và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát
của nhân dân" [10, tr.45] như trong về các văn kiện Đại hội lần thứ IX, lần thứ X của
Đảng đã ghi nhận.
1.4.2. Bài học về củng cố và kiện toàn bộ máy chính quyền trong điều kiện
kháng chiến, kiến quốc
Trong điều kiện vừa chiến đấu vừa xây dựng chế độ mới, việc củng cố kiện toàn
hệ thống bộ máy chính quyền một cách toàn diện có ý nghĩa cực kỳ trọng đại đối với
tiến trình phát triển của cuộc kháng chiến.
Trong mấy năm đầu, thực dân Pháp mở rộng phạm vi tái chiếm, nên việc xây
dựng và tổ chức chính quyền địa phương gặp nhiều khó khăn. Chiến tranh chia cắt đất
nước và các địa phương nên chính phủ quy định quyền hạn của chính quyền các cấp cho
phù hợp với tình hình giao thông cản trở. Tinh thần chung là các Uỷ ban kháng chiến
hành chính từ cấp xã đến cấp liên khu đều phải đảm nhận nhiệm vụ thay mặt Chính phủ
lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến chống Pháp trong phạm vi địa phương mình
đồng thời phối hợp với các địa phương khác để tiến hành cuộc chiến đấu có hiệu quả
nhất.
Ngoài những nhiệm vụ chung, Uỷ ban hành chính kháng chiến cấp liên khu còn
được trao thêm quyền điều động quân đội, huy động lương thực thực phẩm trong
phạm vi địa phương mình. Những quyền hạn này giúp các ủy bancơ sở pháp lý để
giải quyết linh hoạt và sáng tạo những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Sáu mươi năm đã qua, nhìn lại hình ảnh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở buổi ban đầu, chúng ta vẫn thấy tính hiện đại, tính dân chủ, tính pháp quyền rất cao trong thiết chế Nhà nước Việt Nam mới. Sự hình thành một hệ thống lý luận độc lập về mô hình tổ chức nhà nước hiện nay là một đòi hỏi của thực tiễn khách quan, song song với việc tiếp thu lý luận và kinh nghiệm nước ngoài, chúng ta phải kế thừa một cách có phát triển các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam, bảo đảm cho các nguyên tắc tổ chức nhà nước pháp quyền dân chủ có khả năng định hướng đúng đắn con đường thực hành quyền lực nhà nước phục vụ chủ trương xây dựng: "xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân, đặt mình dưới sự kiểm tra, giám sát của nhân dân" [10, tr.45] như trong về các văn kiện Đại hội lần thứ IX, lần thứ X của Đảng đã ghi nhận. 1.4.2. Bài học về củng cố và kiện toàn bộ máy chính quyền trong điều kiện kháng chiến, kiến quốc Trong điều kiện vừa chiến đấu vừa xây dựng chế độ mới, việc củng cố kiện toàn hệ thống bộ máy chính quyền một cách toàn diện có ý nghĩa cực kỳ trọng đại đối với tiến trình phát triển của cuộc kháng chiến. Trong mấy năm đầu, thực dân Pháp mở rộng phạm vi tái chiếm, nên việc xây dựng và tổ chức chính quyền địa phương gặp nhiều khó khăn. Chiến tranh chia cắt đất nước và các địa phương nên chính phủ quy định quyền hạn của chính quyền các cấp cho phù hợp với tình hình giao thông cản trở. Tinh thần chung là các Uỷ ban kháng chiến hành chính từ cấp xã đến cấp liên khu đều phải đảm nhận nhiệm vụ thay mặt Chính phủ lãnh đạo nhân dân tiến hành kháng chiến chống Pháp trong phạm vi địa phương mình đồng thời phối hợp với các địa phương khác để tiến hành cuộc chiến đấu có hiệu quả nhất. Ngoài những nhiệm vụ chung, Uỷ ban hành chính kháng chiến cấp liên khu còn được trao thêm quyền điều động quân đội, huy động lương thực và thực phẩm trong phạm vi địa phương mình. Những quyền hạn này giúp các ủy ban có cơ sở pháp lý để giải quyết linh hoạt và sáng tạo những vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình.
Việc thực hiện tổ chức chính quyền cách mạng trong vùng địch chiếm đóng được
đặc biệt chú ý song song với chủ trương phá chính quyền địch. Xây dựng chính quyền
các cấp ngày càng vững mạnh với phá tề ngụy có quan hệ hữu cơ với nhau. Năm 1948,
được đánh giá là năm "tổng phá tề" mà điển hình nhất là phong trào phá tề rầm rộ ở Bắc
Bộ.
Xây dựng chính quyền vững mạnh để phát huy đầy đủ vai trò của chính quyền,
của chính phủ là một nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo
vệ độc lập tự do.
Kháng chiến và kiến quốc trường học rèn luyện và phát triển mọi mặt về tổ
chức điều hành đất nước, quản hội, thực thi chức năng, nhiệm vụ của hệ thống
chính quyền cách mạng, huy động cao nhất sức mạnh của nhân dân vào cuộc kháng
chiến vĩ đại đến ngày thắng lợi.
Thực tiễn thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc đã khẳng định những
giá trị quý báu về tư tưởngkinh nghiệm kiến lập Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những giá trị đó tiếp tục được Đảng và Nhà nước kế thừa
và phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
1.4.3. Bài học về xây dựng và rèn luyện phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán
bộ công chức
Trong điều kiện vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước và xây dựng con người
mới. Hệ thống bộ máy nhà nước ngày càng đa dạng, cơ cấu ngày càng có hệ thống và
hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất
coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước
nói riêng. Bởi phẩm chấtnăng lực của cán bộ, công chức, viên chức có ý nghĩa
quyết định sự thành công khi thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính
phủ. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Sửa đổi lối làm việc. Tác phẩm nêu
nhiệm vụ, vai trò, tư cách đạo đức, trách nhiệm, hướng phấn đấu của cán bộ, công chức.
Những nội dung trong tác phẩm đã trở thành nguyên lý chung trong việc rèn luyện, xây
dựng đạo đức, tư cách, sửa đổi lối làm việc, chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp đội ngũ có số
lượng thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến, Chính phủ đã ban hành Quy chế công chức
Việc thực hiện tổ chức chính quyền cách mạng trong vùng địch chiếm đóng được đặc biệt chú ý song song với chủ trương phá chính quyền địch. Xây dựng chính quyền các cấp ngày càng vững mạnh với phá tề ngụy có quan hệ hữu cơ với nhau. Năm 1948, được đánh giá là năm "tổng phá tề" mà điển hình nhất là phong trào phá tề rầm rộ ở Bắc Bộ. Xây dựng chính quyền vững mạnh để phát huy đầy đủ vai trò của chính quyền, của chính phủ là một nhân tố thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bảo vệ độc lập tự do. Kháng chiến và kiến quốc là trường học rèn luyện và phát triển mọi mặt về tổ chức điều hành đất nước, quản lý xã hội, thực thi chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính quyền cách mạng, huy động cao nhất sức mạnh của nhân dân vào cuộc kháng chiến vĩ đại đến ngày thắng lợi. Thực tiễn thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc đã khẳng định những giá trị quý báu về tư tưởng và kinh nghiệm kiến lập Nhà nước pháp quyền Việt Nam của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Những giá trị đó tiếp tục được Đảng và Nhà nước kế thừa và phát triển trong giai đoạn tiếp theo. 1.4.3. Bài học về xây dựng và rèn luyện phẩm chất, năng lực cho đội ngũ cán bộ công chức Trong điều kiện vừa kháng chiến vừa xây dựng đất nước và xây dựng con người mới. Hệ thống bộ máy nhà nước ngày càng đa dạng, cơ cấu ngày càng có hệ thống và hoạt động ngày càng có hiệu quả hơn. Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng đào tạo đội ngũ cán bộ nói chung và cán bộ trong bộ máy quản lý nhà nước nói riêng. Bởi vì phẩm chất và năng lực của cán bộ, công chức, viên chức có ý nghĩa quyết định sự thành công khi thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Sửa đổi lối làm việc. Tác phẩm nêu rõ nhiệm vụ, vai trò, tư cách đạo đức, trách nhiệm, hướng phấn đấu của cán bộ, công chức. Những nội dung trong tác phẩm đã trở thành nguyên lý chung trong việc rèn luyện, xây dựng đạo đức, tư cách, sửa đổi lối làm việc, chấn chỉnh tổ chức, sắp xếp đội ngũ có số lượng thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến, Chính phủ đã ban hành Quy chế công chức
Việt Nam đã tạo nên một bước tiến quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước tạo ra sự
đồng bộ giữa nhân sự và cơ cấu của hệ thống cơ quan hành chính là điều kiện cần thiết
để guồng máy nhà nước vận hành có hiệu quả.
Trong Thư gửi các nhân viên cơ quan Chính phủ, Hồ Chí Minh xin lấy địa vị như một
người anh, và đem kinh nghiệm của cá nhân khuyên gắng các bạn:
Trường kỳ kháng chiến là một viên đá thử vàng đối với mỗi quốc dân,
đồng thời là một trường học để rèn luyện cho cán bộ. Vì vậy, chúng ta: phải
tuyệt đối giữ kỷ luật, phải tuyệt đối giữ bí mật. Đối với đồng sự, phải đonà
kết chặt chẽ, khuyên nhau, giúp nhau. Đối với dân chúng, phải thân cận, phải
giúp đỡ họ mọi việc, phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu [31, tr.148].
Thực tiễn của cuộc kháng chiến, kiến quốc đã làm cho bộ máy chính quyền cùng
đội ngũ công chức thêm trưởng thành, vững mạnh, trong sạch. Một đội ngũ cán bộ viên
chức trung kiên, giàu kinh nghiệm thực tiễn đủ sức điều hành kháng chiến và kiến quốc
đi đến thắng lợi vẻ vang.
1.4.4. Bài học lấy dân làm gốc, đem sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho
dân trong xây dựng nhà nước dân chủ
Cách mạng sự nghiệp của quần chúng. Đó là nguyên cách mạng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, của Đảng và Hồ Chí Minh. Cuộc đời, sự nghiệp, trí tuệ, tình cảm,
con người Hồ Chí Minh gắn liền với dân. Dân tất cả đối với Người, và do đó, xây
dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân là một trong những cống hiến vĩ đại của
Hồ Chí Minh với dân với nước. Cả đời Người chỉ có một ham muốn: "tôi chỉ có một sự
ham muốn, ham muốn tột bậc, làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [30,
tr.161].
Để thực hiện ý nguyện đó, Hồ Chí Minh nhận sự ủy thác của dân: "Bây giờ phải gánh
vác chức Chủ tịch là đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính
vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận" [30, tr.161].
Là Chủ tịch nước, trong suốt hai cuộc kháng chiến, Người thấu hiểu sự hy sinh to
lớn của dân. Vì vậy, Người luôn luôn chú ý đến vai trò và quyền lợi của dân trong tiến
Việt Nam đã tạo nên một bước tiến quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước tạo ra sự đồng bộ giữa nhân sự và cơ cấu của hệ thống cơ quan hành chính là điều kiện cần thiết để guồng máy nhà nước vận hành có hiệu quả. Trong Thư gửi các nhân viên cơ quan Chính phủ, Hồ Chí Minh xin lấy địa vị như một người anh, và đem kinh nghiệm của cá nhân khuyên gắng các bạn: Trường kỳ kháng chiến là một viên đá thử vàng đối với mỗi quốc dân, đồng thời là một trường học để rèn luyện cho cán bộ. Vì vậy, chúng ta: phải tuyệt đối giữ kỷ luật, phải tuyệt đối giữ bí mật. Đối với đồng sự, phải đonà kết chặt chẽ, khuyên nhau, giúp nhau. Đối với dân chúng, phải thân cận, phải giúp đỡ họ mọi việc, phải làm cho dân tin, dân phục, dân yêu [31, tr.148]. Thực tiễn của cuộc kháng chiến, kiến quốc đã làm cho bộ máy chính quyền cùng đội ngũ công chức thêm trưởng thành, vững mạnh, trong sạch. Một đội ngũ cán bộ viên chức trung kiên, giàu kinh nghiệm thực tiễn đủ sức điều hành kháng chiến và kiến quốc đi đến thắng lợi vẻ vang. 1.4.4. Bài học lấy dân làm gốc, đem sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân trong xây dựng nhà nước dân chủ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đó là nguyên lý cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Đảng và Hồ Chí Minh. Cuộc đời, sự nghiệp, trí tuệ, tình cảm, con người Hồ Chí Minh gắn liền với dân. Dân là tất cả đối với Người, và do đó, xây dựng nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân là một trong những cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh với dân với nước. Cả đời Người chỉ có một ham muốn: "tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" [30, tr.161]. Để thực hiện ý nguyện đó, Hồ Chí Minh nhận sự ủy thác của dân: "Bây giờ phải gánh vác chức Chủ tịch là đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận" [30, tr.161]. Là Chủ tịch nước, trong suốt hai cuộc kháng chiến, Người thấu hiểu sự hy sinh to lớn của dân. Vì vậy, Người luôn luôn chú ý đến vai trò và quyền lợi của dân trong tiến
trình cách mạng, Người nói: "nước ta là nước dân chủ: bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự
nghiệp kháng chiến, kiến quốc công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ
Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều nơi dân" [31,
tr.698].
Bài học lấy dân làm gốc, đem sức dân để làm lợi cho dân mà Hồ Chí Minh đã
dạy không chỉ cho cán bộ công chức, đảng viên mà còn cho cả nhân dân trong mối quan
hệ nhân dân làm chủ - Chính phủ là công bộc của dân. Bài học ấy chỉ ra rằng, mọi chủ
trương chính sách pháp luật của nhà nước phải bắt nguồn từ giải quyết những yêu cầu
mà cuộc sống đặt ra cho nhân dân nên nhân dân mới thiết thực ủng hộ. Mọi quyết định,
hành vi của cơ quan, cán bộ nhà nước có tác động đến dân thì phải cân nhắc "có lợi cho
dân thì hết sức làm, có hại cho dân thì hết sức tránh" trước và sau khi thực hiện.
Tình trạng mất dân chủ có quan hệ với trình độ và năng lực làm chủ của cả "chủ
lẫn tớ". Cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham ô, lãng phí là cuộc đấu tranh giành lấy
dân chủ, công bằng đã bị "giặc nội xâm" chiếm đoạt. Bài học lấy dân làm gốc, đem sức
dân để làm lợi cho dân mà Hồ Chí Minh đã dạy còn nguyên giá trị đến bây giờ.
trình cách mạng, Người nói: "nước ta là nước dân chủ: bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" [31, tr.698]. Bài học lấy dân làm gốc, đem sức dân để làm lợi cho dân mà Hồ Chí Minh đã dạy không chỉ cho cán bộ công chức, đảng viên mà còn cho cả nhân dân trong mối quan hệ nhân dân làm chủ - Chính phủ là công bộc của dân. Bài học ấy chỉ ra rằng, mọi chủ trương chính sách pháp luật của nhà nước phải bắt nguồn từ giải quyết những yêu cầu mà cuộc sống đặt ra cho nhân dân nên nhân dân mới thiết thực ủng hộ. Mọi quyết định, hành vi của cơ quan, cán bộ nhà nước có tác động đến dân thì phải cân nhắc "có lợi cho dân thì hết sức làm, có hại cho dân thì hết sức tránh" trước và sau khi thực hiện. Tình trạng mất dân chủ có quan hệ với trình độ và năng lực làm chủ của cả "chủ lẫn tớ". Cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham ô, lãng phí là cuộc đấu tranh giành lấy dân chủ, công bằng đã bị "giặc nội xâm" chiếm đoạt. Bài học lấy dân làm gốc, đem sức dân để làm lợi cho dân mà Hồ Chí Minh đã dạy còn nguyên giá trị đến bây giờ.
Chương 2
công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
ở tuyên quang hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh
2.1. Những thành công và hạn chế của bộ máy chính quyền tuyên quang
hiện nay
2.1.1. Những thành công
Đảng bộ, chính quyền nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang truyền
thống yêu nước, đoàn kết, cách mạng, vượt qua biết bao hy sinh gian khổ, viết nên
những trang sử hào hùng của quê hương từng Thủ đô khu giải phóng trong cách
mạng tháng Tám 1945, Thủ đô kháng chiến trong kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược và là tỉnh Anh hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai mươi năm cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là
trong 5 năm thực hiện Nghị quyết lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ
tỉnh lần thứ XIII, trong bối cảnh có rất nhiều khó khăn của một tỉnh nghèo, không có lợi
thế nhiều về kinh tế, trình độ sản xuất chưa phát triển, thường xuyên phải đối phó với
thiên tai nặng nề, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang
đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực: kinh tế, văn
hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh bình quân hàng năm đạt 11,04%, cơ cấu kinh
tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, các ngành dịch vụ.
Sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển tương đối vững chắc. Sản lượng lương thực đạt
cao, bình quân lương thực đầu người đạt 420kg một năm, bảo đảm được an ninh lương
thực trong địa bàn tỉnh. Chăn nuôi tiếp tục được phát triển. Có nhiều cố gắng và làm tốt
công tác trồng và bảo vệ rừng, là một trong những tỉnh có độ che phủ của rừng cao nhất
nước, đạt 63%. Đây là công việc đáng khen, đáng được biểu dương. Công nghiệp, xây
dựng ngày càng được chú trọng đầu tư và để có những chuyển biến bước đầu. Tỉnh đã
hoàn thành quy hoạch giao thông, công nghiệp, du lịch, dịch vụ và đã thực hiện một số
dự án công nghiệp quan trọng, đã xây dựng ban hành chính sách khuyến khích, ưu
Chương 2 công cuộc cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt ở tuyên quang hiện nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh 2.1. Những thành công và hạn chế của bộ máy chính quyền ở tuyên quang hiện nay 2.1.1. Những thành công Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang có truyền thống yêu nước, đoàn kết, cách mạng, vượt qua biết bao hy sinh gian khổ, viết nên những trang sử hào hùng của quê hương từng là Thủ đô khu giải phóng trong cách mạng tháng Tám 1945, Thủ đô kháng chiến trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và là tỉnh Anh hùng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hai mươi năm cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đặc biệt là trong 5 năm thực hiện Nghị quyết lần thứ IX của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII, trong bối cảnh có rất nhiều khó khăn của một tỉnh nghèo, không có lợi thế nhiều về kinh tế, trình độ sản xuất chưa phát triển, thường xuyên phải đối phó với thiên tai nặng nề, nhưng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang đã nỗ lực phấn đấu, đạt được những thành tựu đáng kể trên các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh bình quân hàng năm đạt 11,04%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, các ngành dịch vụ. Sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển tương đối vững chắc. Sản lượng lương thực đạt cao, bình quân lương thực đầu người đạt 420kg một năm, bảo đảm được an ninh lương thực trong địa bàn tỉnh. Chăn nuôi tiếp tục được phát triển. Có nhiều cố gắng và làm tốt công tác trồng và bảo vệ rừng, là một trong những tỉnh có độ che phủ của rừng cao nhất nước, đạt 63%. Đây là công việc đáng khen, đáng được biểu dương. Công nghiệp, xây dựng ngày càng được chú trọng đầu tư và để có những chuyển biến bước đầu. Tỉnh đã hoàn thành quy hoạch giao thông, công nghiệp, du lịch, dịch vụ và đã thực hiện một số dự án công nghiệp quan trọng, đã xây dựng và ban hành chính sách khuyến khích, ưu
đãi đầu tư. Quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cấp các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ,
huyện lộ, tiếp tục mở đường giao thông nông thôn, xây dựng nhiều cầu lớn, cầu vừa và
nhỏ, đến nay ô tô có thể đến được hầu hết các thôn, bản trong toàn tỉnh, sóng điện thoại
di động đã có ở trung tâm các huyện, thị xã; tất cả các xã, phường, thị trấn đều có điện
lưới quốc gia và điện thoại.
Trong điều kiện kinh tế còn hết sức khó khăn, tỉnh vẫn luôn chú trọng đầu tư các
lĩnh vực văn hóa, xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân. Hệ thống trường lớp các bậc
học được mở rộng trên địa bàn toàn tỉnh, lớp học được tổ chức đến tận thôn, bản, các
phòng học được ngói hóa, nhiều trường, lớp học được xây dựng kiên cố. Phong trào xây
dựng xã hội học tập được nhân dân hưởng ứng khá tích cực. Sau khi đạt chuẩn phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi hoàn thành phổ cập giáo dục trung học sở, tỉnh
đang tích cực thực hiện phổ cập bậc trung học. Các lĩnh vực y tế, văn hóa, thể dục thể
thao được đầu phát triển. Tất cả các xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế, nhà văn
hóa. Hầu hết dân cư được xem truyền hình, nghe đài phát thanh. Tỷ lệ hộ nghèo giảm,
tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc xóa nhà tạm, nhà dột nát cho các hộ nghèo. Đây là nỗ
lực của toàn Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, toàn dân của tỉnh Tuyên Quang thật đáng
trân trọng trong quá trình đi lên theo đường lối đổi mới của Đảng.
Công tác xây dựng hệ thống chính trị thường xuyên được quan tâm chỉ đạo góp
phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của các cấp, chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc,
các đoàn thể nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và
phát triển địa phương.
thể nói, Đảng bộ, chính quyền nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã vượt qua
nhiều khó khăn thử thách để đạt được những kết quả quan trọng; đời sống vật chất
tinh thần nhân dân các dân tộc ngày càng được nâng cao; sự thống nhất trong Đảng, sự
đồng thuận trong xã hội được tăng cường, quốc phòng được bảo đảm, an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Những thành tựu đạt được và kinh nghiệm tích lũy
trong những năm qua đã tạo được tiền đề, những yếu tố thuận lợi để tỉnh tiếp tục có
bước đi nhanh và bền vững hơn trong thời gian tới.
đãi đầu tư. Quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng, nâng cấp các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, tiếp tục mở đường giao thông nông thôn, xây dựng nhiều cầu lớn, cầu vừa và nhỏ, đến nay ô tô có thể đến được hầu hết các thôn, bản trong toàn tỉnh, sóng điện thoại di động đã có ở trung tâm các huyện, thị xã; tất cả các xã, phường, thị trấn đều có điện lưới quốc gia và điện thoại. Trong điều kiện kinh tế còn hết sức khó khăn, tỉnh vẫn luôn chú trọng đầu tư các lĩnh vực văn hóa, xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân. Hệ thống trường lớp các bậc học được mở rộng trên địa bàn toàn tỉnh, lớp học được tổ chức đến tận thôn, bản, các phòng học được ngói hóa, nhiều trường, lớp học được xây dựng kiên cố. Phong trào xây dựng xã hội học tập được nhân dân hưởng ứng khá tích cực. Sau khi đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tỉnh đang tích cực thực hiện phổ cập bậc trung học. Các lĩnh vực y tế, văn hóa, thể dục thể thao được đầu tư phát triển. Tất cả các xã, phường, thị trấn đều có trạm y tế, nhà văn hóa. Hầu hết dân cư được xem truyền hình, nghe đài phát thanh. Tỷ lệ hộ nghèo giảm, tỉnh đã cơ bản hoàn thành việc xóa nhà tạm, nhà dột nát cho các hộ nghèo. Đây là nỗ lực của toàn Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể, toàn dân của tỉnh Tuyên Quang thật đáng trân trọng trong quá trình đi lên theo đường lối đổi mới của Đảng. Công tác xây dựng hệ thống chính trị thường xuyên được quan tâm chỉ đạo góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp, chính quyền, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương. Có thể nói, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Tuyên Quang đã vượt qua nhiều khó khăn thử thách để đạt được những kết quả quan trọng; đời sống vật chất và tinh thần nhân dân các dân tộc ngày càng được nâng cao; sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội được tăng cường, quốc phòng được bảo đảm, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Những thành tựu đạt được và kinh nghiệm tích lũy trong những năm qua đã tạo được tiền đề, những yếu tố thuận lợi để tỉnh tiếp tục có bước đi nhanh và bền vững hơn trong thời gian tới.
2.1.2. Những khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện trạng Tuyên Quang vẫn một trong
những tỉnh nghèo, trình độ phát triển kinh tế 5 năm qua của tỉnh vẫn còn thấp so với
nhiều tỉnh trong khu vực và cả nước do thiếu chiến lược phát triển kinh tế, thiếu những
khâu đột phá để phát huy tiềm năng thế mạnh của địa phương. Nói một cách khác, tiềm
năng và thế mạnh rất nhiều nhưng còn bị lãng quên hoặc chưa được đánh thức. Sản xuất
nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong cấu kinh tế, sản xuất công nghiệp - xây
dựng và các ngành dịch vụ tăng ở mức thấp, nguồn thu ngân sách trên địa bàn còn quá
nhỏ bé. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm;
công tác quy hoạch chưa được chú trọng đúng mức ngay từ đầu. Các vùng kinh tế trọng
điểm chậm hình thành. Sản xuất nông, lâm nghiệp chưa tạo được hàng hóa có giá trị
cao. Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển còn hạn chế; các dự án đầu
công nghiệp quy mô nhỏ, tiến độ đầu tư chậm, các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn
đổi mới công nghệ sản xuất, nhất là trong lĩnh vực chế biến nông, lâm sản; quy mô sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhỏ bé. Một số lĩnh vực văn hóa xã hội còn
bất cập so với yếu cầu. Đời sống của các hộ thoát nghèo và thành tích đạt được trong
giáo dục - đào tạo nhất là chất lượng chưa thật vững chắc. Các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng
xa, vùng các dân tộc ít người còn chưa được quan tâm đúng mức và thường xuyên. Dân
chủ trong sinh hoạt Đảng chưa thực sự được phát huy đúng mức. Việc đổi mới nội dung và
phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể một số cơ sở còn chậm. Một số
phong trào quần chúng chưa có chiều sâu.
Thực hiện Quy chế dân chủ sở một số nơi chưa được chú trọng, còn hình
thức. Công tác đào tạo, sử dụng cán bộ đôi lúc chưa theo quy hoạch, chưa phát huy được
hết trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên tắc
tập trung dân chủ đôi lúc chưa được thực hiện đúng thực chất của nó. Tự phê bình và phê
bình cần được thực hiện tốt hơn nữa. Đoàn kết nội bộ trong một số cấp ủy cần được chăm
lo và củng cố thường xuyên hơn. Bộ máy chính quyền các cấp chưa thật năng động trong
điều hành công việc, quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Một số việc thuộc
thẩm quyền chưa được giải quyết kịp thời, dứt điểm, còn né tránh và đùn đẩy trách nhiệm.
2.1.2. Những khó khăn, hạn chế Bên cạnh những kết quả đạt được, hiện trạng Tuyên Quang vẫn là một trong những tỉnh nghèo, trình độ phát triển kinh tế 5 năm qua của tỉnh vẫn còn thấp so với nhiều tỉnh trong khu vực và cả nước do thiếu chiến lược phát triển kinh tế, thiếu những khâu đột phá để phát huy tiềm năng thế mạnh của địa phương. Nói một cách khác, tiềm năng và thế mạnh rất nhiều nhưng còn bị lãng quên hoặc chưa được đánh thức. Sản xuất nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế, sản xuất công nghiệp - xây dựng và các ngành dịch vụ tăng ở mức thấp, nguồn thu ngân sách trên địa bàn còn quá nhỏ bé. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm; công tác quy hoạch chưa được chú trọng đúng mức ngay từ đầu. Các vùng kinh tế trọng điểm chậm hình thành. Sản xuất nông, lâm nghiệp chưa tạo được hàng hóa có giá trị cao. Việc huy động các nguồn lực cho đầu tư phát triển còn hạn chế; các dự án đầu tư công nghiệp quy mô nhỏ, tiến độ đầu tư chậm, các thành phần kinh tế chưa mạnh dạn đổi mới công nghệ sản xuất, nhất là trong lĩnh vực chế biến nông, lâm sản; quy mô sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp còn nhỏ bé. Một số lĩnh vực văn hóa xã hội còn bất cập so với yếu cầu. Đời sống của các hộ thoát nghèo và thành tích đạt được trong giáo dục - đào tạo nhất là chất lượng chưa thật vững chắc. Các hộ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc ít người còn chưa được quan tâm đúng mức và thường xuyên. Dân chủ trong sinh hoạt Đảng chưa thực sự được phát huy đúng mức. Việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể ở một số cơ sở còn chậm. Một số phong trào quần chúng chưa có chiều sâu. Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở một số nơi chưa được chú trọng, còn hình thức. Công tác đào tạo, sử dụng cán bộ đôi lúc chưa theo quy hoạch, chưa phát huy được hết trí tuệ của đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật trong phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên tắc tập trung dân chủ đôi lúc chưa được thực hiện đúng thực chất của nó. Tự phê bình và phê bình cần được thực hiện tốt hơn nữa. Đoàn kết nội bộ trong một số cấp ủy cần được chăm lo và củng cố thường xuyên hơn. Bộ máy chính quyền các cấp chưa thật năng động trong điều hành công việc, quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn hạn chế. Một số việc thuộc thẩm quyền chưa được giải quyết kịp thời, dứt điểm, còn né tránh và đùn đẩy trách nhiệm.
Việc tổ chức sắp xếp lại thôn bản một số nơi còn hình thức, chưa thuận lợi cho quản lý của
chính quyền và sinh hoạt của nhân dân. Công tác xây dựng chính quyền ở một số cơ sở
chưa được quan tâm đúng mức. Công tác tiếp n, tiếp xúc cử tri tuy đã được cải tiến
nhưng còn nhiều nội dung chưa được giải quyết thuyết phục cho dân khi đến với cơ quan
chính quyền.
Những tồn tại trên đây không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh
mà còn ảnh hưởng nhất định đến niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của các cấp
ủy Đảng, sự quản lý điều hành của các cấp chính quyền.
2.2. cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân ở tuyên quang
2.2.1. Cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền trong sạch và vững
mạnh - nhiệm vụ hàng đầu cấp bách ở Tuyên Quang hiện nay
Trên những thành quả đạt được của 20 năm đổi mới và những chuyển biến tích
cực trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội sau 5 năm (2001 - 2005) thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIII và kiên quyết khắc phục những
yếu kém, khó khăn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh là phải
vượt qua. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010, Đại hội họp từ ngày 10/12/2005 đến
13/12/2005 tại tỉnh Tuyên Quang) là Đại hội "dân chủ, kỷ cương, năng động, sáng tạo,
chủ động hội nhập". Đại hội xác định: giai đoạn 2006 - 2010 nhiệm vụ cải cách hành
chính là một trong những khâu đột phá của tỉnh Tuyên Quang.
Nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang trong thời kỳ mới
là tiếp tục xây dựng tỉnh ngày càng phát triển mà trọng tâm là đẩy mạnh phát triển kinh
tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông lâm nghiệp với phương châm "chớp thời cơ,
đột phá mạnh, liên kết rộng, hợp tác sâu". Động lực phát triển là truyền thống lịch sử
văn hóa và đại đoàn kết các dân tộc. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh nêu
cao quyết tâm chính trị, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy kinh tế, chủ động nắm bắt thời
cơ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi
Việc tổ chức sắp xếp lại thôn bản một số nơi còn hình thức, chưa thuận lợi cho quản lý của chính quyền và sinh hoạt của nhân dân. Công tác xây dựng chính quyền ở một số cơ sở chưa được quan tâm đúng mức. Công tác tiếp dân, tiếp xúc cử tri tuy đã được cải tiến nhưng còn nhiều nội dung chưa được giải quyết thuyết phục cho dân khi đến với cơ quan chính quyền. Những tồn tại trên đây không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh mà còn ảnh hưởng nhất định đến niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của các cấp chính quyền. 2.2. cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân ở tuyên quang 2.2.1. Cải cách hành chính nhằm xây dựng chính quyền trong sạch và vững mạnh - nhiệm vụ hàng đầu cấp bách ở Tuyên Quang hiện nay Trên những thành quả đạt được của 20 năm đổi mới và những chuyển biến tích cực trên các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội sau 5 năm (2001 - 2005) thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIII và kiên quyết khắc phục những yếu kém, khó khăn của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc trong tỉnh là phải vượt qua. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV (Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XIV, nhiệm kỳ 2005 - 2010, Đại hội họp từ ngày 10/12/2005 đến 13/12/2005 tại tỉnh Tuyên Quang) là Đại hội "dân chủ, kỷ cương, năng động, sáng tạo, chủ động hội nhập". Đại hội xác định: giai đoạn 2006 - 2010 nhiệm vụ cải cách hành chính là một trong những khâu đột phá của tỉnh Tuyên Quang. Nhiệm vụ của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tuyên Quang trong thời kỳ mới là tiếp tục xây dựng tỉnh ngày càng phát triển mà trọng tâm là đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông lâm nghiệp với phương châm "chớp thời cơ, đột phá mạnh, liên kết rộng, hợp tác sâu". Động lực phát triển là truyền thống lịch sử văn hóa và đại đoàn kết các dân tộc. Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh nêu cao quyết tâm chính trị, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy kinh tế, chủ động nắm bắt thời cơ, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân. Khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, lợi
thế của tỉnh, mở rộng hợp tác, liên doanh, liên kết, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành
phần kinh tế phát triển, chủ động hội nhập quốc tế; đột phá mạnh trên các lĩnh vực quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp, giao thông, thông tin, các chính
sách khuyến khích đầu tư ưu đãi và kêu gọi đầu tư, cải cách hành chính; đảm bảo quốc
phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đái hóa, mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Xác định nhiệm vụ cải cách hành chính là một khâu đột phá để thực hiện thắng
lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh trong Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh là một
bước phát triển về đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang. Những yếu
kém trong tổ chức điều hành, những bất cập trong quy hoạch, kế hoạch, thực hiện phát
triển kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền trong những năm qua đều có quan hệ đến
cải cách hành chính ở tỉnh chưa đúng tính chất và tầm quan trọng của nhiệm vụ này. Trong
cả nhiệm kỳ Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII (2001 - 2005) chưa ban hành một nghị
quyết chuyên đề nào về chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính và ủy ban nhân dân tỉnh cũng
chưa có chương trình cải cách hành chính. Sự chậm trễ trên còn phản ánh trên cả phương
diện tổ chức thực hiện, việc thành lập Ban chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh Tuyên Quang
theo Quyết định số 88/2004/QĐ-UB ngày 27/12/2004, đã cho thấy một nguyên nhân thuộc
về nhận thức của các cấp lãnh đạo và quản lý nhà nước ở tỉnh Tuyên Quang chưa thực sự
chú trọng thực hiện Quyết định số 136/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010.
Nền hành chính quốc gia một cấu thành quan trọng trong tổ chức nhà nước.
Không thể cải cách nhà nước dân chủ theo hướng pháp quyền hội chủ nghĩa nếu
không tiến hành mạnh mẽ căn bản cải cách nền hành chính nhà nước. Nền hành
chính nhà nước là bộ phận thực thi quyền hành pháp, hành chính để trực tiếp thực hiện
chức năng quản lý nhà nước một cách trực tiếp thường xuyên đối với các đối tượng
là cơ quan, tổ chức, cá nhân... trong xã hội. Quan hệ nhà nước và các tổ chức kinh tế -
xã hội với công dân được thiết lập và giải quyết trực tiếp thông qua hoạt động của nền
hành chính. Mọi chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng Nhà nước được thực
thế của tỉnh, mở rộng hợp tác, liên doanh, liên kết, tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển, chủ động hội nhập quốc tế; đột phá mạnh trên các lĩnh vực quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp, giao thông, thông tin, các chính sách khuyến khích đầu tư ưu đãi và kêu gọi đầu tư, cải cách hành chính; đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đái hóa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Xác định nhiệm vụ cải cách hành chính là một khâu đột phá để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế của tỉnh trong Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh là một bước phát triển về đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang. Những yếu kém trong tổ chức điều hành, những bất cập trong quy hoạch, kế hoạch, thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của các cấp chính quyền trong những năm qua đều có quan hệ đến cải cách hành chính ở tỉnh chưa đúng tính chất và tầm quan trọng của nhiệm vụ này. Trong cả nhiệm kỳ Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XIII (2001 - 2005) chưa ban hành một nghị quyết chuyên đề nào về chỉ đạo thực hiện cải cách hành chính và ủy ban nhân dân tỉnh cũng chưa có chương trình cải cách hành chính. Sự chậm trễ trên còn phản ánh trên cả phương diện tổ chức thực hiện, việc thành lập Ban chỉ đạo cải cách hành chính tỉnh Tuyên Quang theo Quyết định số 88/2004/QĐ-UB ngày 27/12/2004, đã cho thấy một nguyên nhân thuộc về nhận thức của các cấp lãnh đạo và quản lý nhà nước ở tỉnh Tuyên Quang chưa thực sự chú trọng thực hiện Quyết định số 136/QĐ-TTg ngày 17/9/2001 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2010. Nền hành chính quốc gia là một cấu thành quan trọng trong tổ chức nhà nước. Không thể cải cách nhà nước dân chủ theo hướng pháp quyền xã hội chủ nghĩa nếu không tiến hành mạnh mẽ và căn bản cải cách nền hành chính nhà nước. Nền hành chính nhà nước là bộ phận thực thi quyền hành pháp, hành chính để trực tiếp thực hiện chức năng quản lý nhà nước một cách trực tiếp và thường xuyên đối với các đối tượng là cơ quan, tổ chức, cá nhân... trong xã hội. Quan hệ nhà nước và các tổ chức kinh tế - xã hội với công dân được thiết lập và giải quyết trực tiếp thông qua hoạt động của nền hành chính. Mọi chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước được thực