LUẬN VĂN: Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với công cuộc cải cách hành chính ở Tuyên Quang

6,038
774
93
thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước dân chủ vừa mới được thiết
lập sau cách mạng tháng Tám. Trung thành với nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến",
Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu của cách mạng tháng Tám ít dùng khái niệm: cách mạng
vô sản, nhà nước vô sản và nền chuyên chính vô sản, thay vào đó là các khái niệm đồng
nghĩa kèm theo cặp từ "quần chúng", "nhân dân". Sau này khi điều kiện cho phép Hồ
Chí Minh đã giải thích rõ ràng hơn:
Về chuyên chính dân chủ nhân dân: chế độ nào cũng có chuyên chính.
Vấn đề là ai chuyên chính với ai? Dưới chế độ thực dân phong kiến, tư bản,
chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ
dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số
phản động chống lại lợi ích nhân dân, chống lại chế độ dân chủ nhân dân [33,
tr.279].
Trong bài viết cho báo Pravđa (Liên Xô) "Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra
con đường giải phóng cho các dân tộc" nhân kỷ niệm 50 năm ngày cách mạng tháng
Mười Nga, Hồ Chí Minh viết:
Giai cấp công nhân nhân dân Việt Nam ngày càng thấm nhuần
những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của cách mạng tháng Mười.
Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp
công nhân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một
đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ
thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng
lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công... [35, tr.303-304].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh việc xây dựng, tổ chức và lãnh đạo chính quyền dân
chủ nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa vào chủ nghĩa Mác-Lênin và phải
bảo đảm xây dựng chính quyền thật sự mạnh mẽ, chắc chắn và sáng suốt của nhân dân.
Sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng với chính quyền nhân tố không thể thiếu để
thực hiện tổ chức xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Cơ sở
lý luận làm cho đường lối lãnh đạo của Đảng và các chính sách nhà nước tỏ ra thật sự
sáng suốt chính là lý luận Mác-Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ
thể ở Việt Nam.
thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại của nhà nước dân chủ vừa mới được thiết lập sau cách mạng tháng Tám. Trung thành với nguyên tắc "dĩ bất biến, ứng vạn biến", Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu của cách mạng tháng Tám ít dùng khái niệm: cách mạng vô sản, nhà nước vô sản và nền chuyên chính vô sản, thay vào đó là các khái niệm đồng nghĩa kèm theo cặp từ "quần chúng", "nhân dân". Sau này khi điều kiện cho phép Hồ Chí Minh đã giải thích rõ ràng hơn: Về chuyên chính dân chủ nhân dân: chế độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với ai? Dưới chế độ thực dân phong kiến, tư bản, chuyên chính là số ít người chuyên chính với đại đa số nhân dân. Dưới chế độ dân chủ nhân dân, chuyên chính là đại đa số nhân dân chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích nhân dân, chống lại chế độ dân chủ nhân dân [33, tr.279]. Trong bài viết cho báo Pravđa (Liên Xô) "Cách mạng tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc" nhân kỷ niệm 50 năm ngày cách mạng tháng Mười Nga, Hồ Chí Minh viết: Giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam ngày càng thấm nhuần những lời dạy của Lênin và những bài học lớn của cách mạng tháng Mười. Cần có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công... [35, tr.303-304]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh việc xây dựng, tổ chức và lãnh đạo chính quyền dân chủ nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dựa vào chủ nghĩa Mác-Lênin và phải bảo đảm xây dựng chính quyền thật sự mạnh mẽ, chắc chắn và sáng suốt của nhân dân. Sự sáng suốt trong lãnh đạo của Đảng với chính quyền là nhân tố không thể thiếu để thực hiện tổ chức xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Cơ sở lý luận làm cho đường lối lãnh đạo của Đảng và các chính sách nhà nước tỏ ra thật sự sáng suốt chính là lý luận Mác-Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh khẳng định: Chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là
nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân vì dân; sở xã hội của nhà nước
toàn thể dân tộc, nền tảng là liên minh công - nông, lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh một nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân
trước hết là một nhà nước thực sự đại biểu cho quyền lợi của nhân dân, thực sự do nhân
dân lập ra, được nhân dân ủng hộ. Đồng thời, đó phải là một chính quyền nhà nước tập
trung, có bộ máy hành chính mạnh mẽ, quản điều hành bằng pháp luật hiệu lực,
hiệu quả thực tếl; đội ngũ cán bộ công chức am hiểu pháp luật, chuyên môn và có đạo
đức phục vụ nhân dân.
Bằng sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý, quan điểm của Học thuyết Mác -
Lênin về nhà nước vào chỉ đạo và xây dựng thành công nhà nước Dân chủ cộng hòa ở
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ là một người Mác xít chân chính, đã bổ sung "cơ sở
lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng sự thắng lợi trên thực tiễn của cách mạng dân tộc dân chủ
mở đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, "những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể
có được" [27, tr.465]. Hồ Chí Minh đã tiếp nối ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga
bằng nắng vàng mùa thu cách mạng tháng Tám trên đất nước Việt Nam, xua tan bóng
đêm của chủ nghĩa thực dân ngự trị trên đất nước gần một thế kỷ.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn
Những công việc của chính quyền non trẻ sau Cách mạng Tháng Tám là sự tiếp
nối những công việc thành quả của chính quyền "nước Việt Nam mới phôi thai"
khu giải phóng trước Cách mạng Tháng Tám. Không thể hiểu thấu đáo cơ sở thực tiễn
của tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của nhân dân" nếu không
tìm hiểu tiến trình xây dựng chính quyền ở giai đoạn này.
Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng được mở
rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn,
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi thuộc các tỉnh Bắc Giang,
Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái...
Hồ Chí Minh khẳng định: Chính quyền nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân và vì dân; cơ sở xã hội của nhà nước là toàn thể dân tộc, nền tảng là liên minh công - nông, lao động trí óc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh một nhà nước mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân trước hết là một nhà nước thực sự đại biểu cho quyền lợi của nhân dân, thực sự do nhân dân lập ra, được nhân dân ủng hộ. Đồng thời, đó phải là một chính quyền nhà nước tập trung, có bộ máy hành chính mạnh mẽ, quản lý điều hành bằng pháp luật có hiệu lực, hiệu quả thực tếl; đội ngũ cán bộ công chức am hiểu pháp luật, chuyên môn và có đạo đức phục vụ nhân dân. Bằng sự vận dụng sáng tạo các nguyên lý, quan điểm của Học thuyết Mác - Lênin về nhà nước vào chỉ đạo và xây dựng thành công nhà nước Dân chủ cộng hòa ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ là một người Mác xít chân chính, đã bổ sung "cơ sở lịch sử" của chủ nghĩa Mác bằng sự thắng lợi trên thực tiễn của cách mạng dân tộc dân chủ mở đường lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, "những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được" [27, tr.465]. Hồ Chí Minh đã tiếp nối ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga bằng nắng vàng mùa thu cách mạng tháng Tám trên đất nước Việt Nam, xua tan bóng đêm của chủ nghĩa thực dân ngự trị trên đất nước gần một thế kỷ. 1.1.2. Cơ sở thực tiễn Những công việc của chính quyền non trẻ sau Cách mạng Tháng Tám là sự tiếp nối những công việc và thành quả của chính quyền "nước Việt Nam mới phôi thai" ở khu giải phóng trước Cách mạng Tháng Tám. Không thể hiểu thấu đáo cơ sở thực tiễn của tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" nếu không tìm hiểu tiến trình xây dựng chính quyền ở giai đoạn này. Sang năm 1945, phong trào phát triển mạnh, căn cứ địa cách mạng được mở rộng, hình thành một vùng rộng lớn gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng ngoại vi thuộc các tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái...
Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập khu giải phóng, cử ra Uỷ ban
chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Tại các địa phương
trong khu giải phóng, các Uỷ ban nhân dân cách mạng cũng được thành lập, do nhân
dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của Việt Minh. Khu giải phónghình ảnh "nước
Việt Nam mới phôi thai", "các Uỷ ban nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân
chuẩn bị tổng khởi nghĩa, vừa tập cho nhân dân cầm chính quyền" [5, tr.134-135].
Tiến trình thành lập Chính phủ Việt Nam được Đảng ta và Hồ Chí Minh chuẩn bị
rất kỳ công, có khởi nguồn tự mục tiêu tranh đấu của Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941)
đặc biệt khi thời cơ "ngàn năm có một" xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định
khai mạc Đại hội Quốc dân trong ngày 16-8-1945 tại Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang.
Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào mang tầm vóc lịch sử như Quốc hội đầu tiên
của nước Việt Nam mới.
Asimét L.A.Patti (Archimèdes L.A.Patti), một sĩ quan tình báo Mỹ có mặt ở
Nội ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi đã nhận xét rằng, khi biết tin phát xít Nhật
đã sụp đổ, Hồ Chí Minh "đã hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng vì ông phải
bảo đảm chiếm được một chỗ đứng vững chắc ở... Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ông Hồ biết
rằng ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để
giữ vai trò lãnh đạo và phát triển phong trào" [39, tr.146].
Quốc dân Đại hội Tân Trào là "một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng
của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay" [29, tr.553], Quốc dân Đại hội Tân Trào với tính
cách quan mang tính đại diện quyền lực cao nhất của nhân dân tán thành chủ
trương Tổng khởi nghĩa của Đảng 10 chính sách của Việt Minh, thông qua quyết
định thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, thực
hiện chức năng Chính phủ lâm thời sau cách mạng tháng Tám thắng lợi.
Đây là một nét sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản
Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí, sức mạnh dân tộc và tính
hợp pháp của sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền độc lập tự do bằng tổ chức Đại hội
đại biểu quốc dân để đề ra quyết sách chuyển xoay vận nước bằng phương thức khởi
Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập khu giải phóng, cử ra Uỷ ban chỉ huy lâm thời, thực hiện chức năng của chính quyền cách mạng. Tại các địa phương trong khu giải phóng, các Uỷ ban nhân dân cách mạng cũng được thành lập, do nhân dân cử ra, để thi hành 10 chính sách của Việt Minh. Khu giải phóng là hình ảnh "nước Việt Nam mới phôi thai", "các Uỷ ban nhân dân cách mạng vừa lãnh đạo nhân dân chuẩn bị tổng khởi nghĩa, vừa tập cho nhân dân cầm chính quyền" [5, tr.134-135]. Tiến trình thành lập Chính phủ Việt Nam được Đảng ta và Hồ Chí Minh chuẩn bị rất kỳ công, có khởi nguồn tự mục tiêu tranh đấu của Mặt trận Việt Minh (tháng 5/1941) đặc biệt khi thời cơ "ngàn năm có một" xuất hiện, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã quyết định khai mạc Đại hội Quốc dân trong ngày 16-8-1945 tại Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Đại hội đại biểu quốc dân Tân Trào mang tầm vóc lịch sử như Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam mới. Asimét L.A.Patti (Archimèdes L.A.Patti), một sĩ quan tình báo Mỹ có mặt ở Hà Nội ngay sau khi Tổng khởi nghĩa thắng lợi đã nhận xét rằng, khi biết tin phát xít Nhật đã sụp đổ, Hồ Chí Minh "đã hành động một cách kiên quyết và nhanh chóng vì ông phải bảo đảm chiếm được một chỗ đứng vững chắc ở... Hà Nội, Huế, Sài Gòn. Ông Hồ biết rằng ông phải làm cho mọi người thấy rõ được cả tính chất hợp pháp lẫn sức mạnh để giữ vai trò lãnh đạo và phát triển phong trào" [39, tr.146]. Quốc dân Đại hội Tân Trào là "một tiến bộ lớn trong lịch sử đấu tranh giải phóng của dân tộc ta từ ngót một thế kỷ nay" [29, tr.553], Quốc dân Đại hội Tân Trào với tính cách là cơ quan mang tính đại diện quyền lực cao nhất của nhân dân tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng và 10 chính sách của Việt Minh, thông qua quyết định thành lập Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, thực hiện chức năng Chính phủ lâm thời sau cách mạng tháng Tám thắng lợi. Đây là một nét sáng tạo độc đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Đông Dương và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí, sức mạnh dân tộc và tính hợp pháp của sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền độc lập tự do bằng tổ chức Đại hội đại biểu quốc dân để đề ra quyết sách chuyển xoay vận nước bằng phương thức khởi
nghĩa vũ trang, xoá bỏ chế độ nô dịch thực dân, kiến lập chế độ cộng hoà dân chủ với cơ
quan mang tính quyền lực cao nhất là Đại hội đại biểu quốc dân và Uỷ ban dân tộc giải
phóng do Đại hội đại biểu quốc dân lập ra.
Ngày 25/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người,
Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Nhiều ủy viên Việt Minh trong ủy ban dân tộc giải phóng đã tự
nguyện rút ra để mời thêm nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. Sau này, Hồ Chí Minh ca
ngợi: "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc,
của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính
mà chúng ta phải học tập" [32, T.6, tr.160].
Việc Uỷ ban dân tộc giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hoà theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đáp ứng yêu cầu:
Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được Mặt trận dân tộc thống nhất một cách
rộng rãi và đầy đủ, mời thêm một số nhân sỹ tham gia chính phủ để cùng nhau gánh vác
nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân đã giao phó cho. Và để Chính phủ sớm ra mắt quốc dân
đồng bào trong ngày tổ chức lễ tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Trong "Tuyên cáo về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa"
(Việt Nam dân quốc công báo, Số 1, ngày 29-9-1945), ngày 28-8-71945 có đoạn:
Chính phủ lâm thời không phải chính phủ riêng của Mặt trận Việt
Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không
phải là một chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Thật là một
chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách chỉ đạo cho toàn thể, đợi
ngày triệu tập được Quốc hội đề cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính
thức.
Hỡi quốc dân đồng bào,
Vận mệnh ngàn năm của dân tộc ta đang quyết định trong lúc này đây.
Toàn thể quốc dân hãy khép chặt hàng ngũ, đứng dưới lá quốc kỳ, làm hậu
thuẫn cho Chính phủ lâm thời, nắm chắc tự do độc lập, cải tạo Tổ quốc bấy lâu
đã bị bọn giặc nước tàn phá [24, Tr.324].
nghĩa vũ trang, xoá bỏ chế độ nô dịch thực dân, kiến lập chế độ cộng hoà dân chủ với cơ quan mang tính quyền lực cao nhất là Đại hội đại biểu quốc dân và Uỷ ban dân tộc giải phóng do Đại hội đại biểu quốc dân lập ra. Ngày 25/8/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều ủy viên Việt Minh trong ủy ban dân tộc giải phóng đã tự nguyện rút ra để mời thêm nhân sĩ ngoài Việt Minh tham gia. Sau này, Hồ Chí Minh ca ngợi: "Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học tập" [32, T.6, tr.160]. Việc Uỷ ban dân tộc giải phóng tự cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đáp ứng yêu cầu: Làm sao cho Chính phủ lâm thời tiêu biểu được Mặt trận dân tộc thống nhất một cách rộng rãi và đầy đủ, mời thêm một số nhân sỹ tham gia chính phủ để cùng nhau gánh vác nhiệm vụ nặng nề mà quốc dân đã giao phó cho. Và để Chính phủ sớm ra mắt quốc dân đồng bào trong ngày tổ chức lễ tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong "Tuyên cáo về việc thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (Việt Nam dân quốc công báo, Số 1, ngày 29-9-1945), ngày 28-8-71945 có đoạn: Chính phủ lâm thời không phải là chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng Minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Thật là một chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội đề cử ra một Chính phủ Dân chủ Cộng hòa chính thức. Hỡi quốc dân đồng bào, Vận mệnh ngàn năm của dân tộc ta đang quyết định trong lúc này đây. Toàn thể quốc dân hãy khép chặt hàng ngũ, đứng dưới lá quốc kỳ, làm hậu thuẫn cho Chính phủ lâm thời, nắm chắc tự do độc lập, cải tạo Tổ quốc bấy lâu đã bị bọn giặc nước tàn phá [24, Tr.324].
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước
hết phải là nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
Sau khi giành chính quyền trong cả nước, trước tình hình biến chuyển hết sức
mau lẹ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh quyết định sớm tổ chức
lễ Tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. ngày 2/9/1945, tại Quảng
trường Ba Đình, trên lễ đài, các thành viên chính phủ ra mắt trước đông đảo quần
chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ của dân tộc lần đầu tiên xuất hiện trước công
chúng. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên
ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa đã ra đời. "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập, và sự thực đã
thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy" [24, tr.327-
328].
Tuyên ngôn độc lập bản anh hùng ca chiến đấu chiến thắng của dân tộc
Việt Nam, nêu cao ý chí đấu tranh của toàn dân để giữ vững quyền độc lập, tự do, bảo
vệ chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam. Quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam được
khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân
và quốc tế đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên về sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hoà và giá trị đóng góp vào sự phát triển nền pháp tiến bộ của loài
người.
Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của toàn thể dân Việt
Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chí Minh nhằm xóa bỏ bộ máy thống trị của
đế quốc và bọn phong kiến tay sai, lập nên chính quyền nhân dân trong cả nước. Đây là
sự thắng lợi của đường lối của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về quá trình hình
thành một nhà nước do nhân dân, vì nhân dân, thay thế cho nhà nước thực dân phong
kiến đã tồn tại ở Việt Nam gần một thế kỷ. Cuộc cách mạng tháng Tám đã lật đổ ách
thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân, và "nền quân chủ mấy mươi thế kỷ", thành lập
nước Cộng hòa Dân chủ, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ
nguyên Dân chủ Cộng hòa, kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Nói về ý nghĩa to lớn của cuộc
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, trước hết phải là nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Sau khi giành chính quyền trong cả nước, trước tình hình biến chuyển hết sức mau lẹ, Ban Thường vụ Trung ương Đảng, Tổng bộ Việt Minh quyết định sớm tổ chức lễ Tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, trên lễ đài, các thành viên chính phủ ra mắt trước đông đảo quần chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ của dân tộc lần đầu tiên xuất hiện trước công chúng. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy" [24, tr.327- 328]. Tuyên ngôn độc lập là bản anh hùng ca chiến đấu và chiến thắng của dân tộc Việt Nam, nêu cao ý chí đấu tranh của toàn dân để giữ vững quyền độc lập, tự do, bảo vệ chế độ cộng hòa dân chủ Việt Nam. Quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố trước quốc dân và quốc tế đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng đầu tiên về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và có giá trị đóng góp vào sự phát triển nền pháp lý tiến bộ của loài người. Cuộc tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là sự vùng dậy của toàn thể dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chí Minh nhằm xóa bỏ bộ máy thống trị của đế quốc và bọn phong kiến tay sai, lập nên chính quyền nhân dân trong cả nước. Đây là sự thắng lợi của đường lối của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về quá trình hình thành một nhà nước do nhân dân, vì nhân dân, thay thế cho nhà nước thực dân phong kiến đã tồn tại ở Việt Nam gần một thế kỷ. Cuộc cách mạng tháng Tám đã lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc thực dân, và "nền quân chủ mấy mươi thế kỷ", thành lập nước Cộng hòa Dân chủ, đưa dân tộc Việt Nam bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên Dân chủ Cộng hòa, kỷ nguyên Độc lập, Tự do. Nói về ý nghĩa to lớn của cuộc
Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh chỉ : "Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách
mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công,
đã nắm chính quyền toàn quốc" [32, tr.159].
Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải "tiếp quản" một di sản
kinh tế - xã hội hết sức nghèo nàn, lạc hậu. "Giặc đói" đe dọa sinh mạng của hàng triệu
đồng bào. Nền tài chính quốc gia gần như trống rỗng.
Về mặt xã hội, hậu quả của xã hội cũ rất nặng nề. Sự thất học của đại đa số nhân
dân cũng là một loại giặc "giặc dốt". Chỉ có 10% dân số biết chữ, hầu hết ở bậc tiểu học.
Số công chức có trình độ đại học và cao đẳng trong cả nước chỉ khoảng vài trăm người.
Thực tế đó đã làm cho việc tổ chức hoạt động và xây dựng chế độ mới của nhà nước ta
gặp nhiều, khó khăn. Các tệ nạn xã hội, hủ tục và lối sống lạc hậu do chế độ thực dân
phong kiến, phát xít để lại là gánh nặng cho nhà nước cách mạng non trẻ.
Về chính trị, trong khi các lực lượng Đồng minh kéo vào nước ta, các thế lực
phong kiến phản động, tay sai của thực dân Pháp đã tăng cường hoạt động trở lại. Hàng
chục tổ chức chính trị, đảng phái được thành lập như Đại Việt Cách mạng Đảng, Việt
Nam phục quốc, Việt Nam quốc xã Đảng... do Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Sâm, Ngô
Đình Diệm cầm đầu. Đặc biệt có hai đảng phái chính trị từ nước ngoài trở về theo đội
quân Tưởng là Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân
Đảng (Việt Quốc) ra mặt chống phá chính quyền rất quyết liệt. Hoàn cảnh Việt Nam lúc
này vô cùng khó khăn.
Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng II - 1951, Hồ Chí Minh đã viết:
Nước ta độc lập chưa một tháng, thì phía Nam, quân đội đế quốc Anh
kéo đến. Chúng mượn tiếng lột trang của quân Nhật, nhưng sự thật
chúng là đội quân viễn chinh giúp thực dân Pháp âm mưu cướp lại nước ta.
Phía Bắc thì quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc kéo sang. Chúng
cũng mượn tiếng là lột vũ trang quân Nhật, nhưng kỳ thật chúng ba mục
đích hung ác:
- Tiêu diệt Đảng ta,
- Phá tan Việt Minh,
Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc" [32, tr.159]. Tuy nhiên, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà phải "tiếp quản" một di sản kinh tế - xã hội hết sức nghèo nàn, lạc hậu. "Giặc đói" đe dọa sinh mạng của hàng triệu đồng bào. Nền tài chính quốc gia gần như trống rỗng. Về mặt xã hội, hậu quả của xã hội cũ rất nặng nề. Sự thất học của đại đa số nhân dân cũng là một loại giặc "giặc dốt". Chỉ có 10% dân số biết chữ, hầu hết ở bậc tiểu học. Số công chức có trình độ đại học và cao đẳng trong cả nước chỉ khoảng vài trăm người. Thực tế đó đã làm cho việc tổ chức hoạt động và xây dựng chế độ mới của nhà nước ta gặp nhiều, khó khăn. Các tệ nạn xã hội, hủ tục và lối sống lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến, phát xít để lại là gánh nặng cho nhà nước cách mạng non trẻ. Về chính trị, trong khi các lực lượng Đồng minh kéo vào nước ta, các thế lực phong kiến phản động, tay sai của thực dân Pháp đã tăng cường hoạt động trở lại. Hàng chục tổ chức chính trị, đảng phái được thành lập như Đại Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam phục quốc, Việt Nam quốc xã Đảng... do Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Sâm, Ngô Đình Diệm cầm đầu. Đặc biệt có hai đảng phái chính trị từ nước ngoài trở về theo đội quân Tưởng là Việt Nam cách mạng đồng chí hội (Việt Cách) và Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) ra mặt chống phá chính quyền rất quyết liệt. Hoàn cảnh Việt Nam lúc này vô cùng khó khăn. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng II - 1951, Hồ Chí Minh đã viết: Nước ta độc lập chưa một tháng, thì phía Nam, quân đội đế quốc Anh kéo đến. Chúng mượn tiếng là lột vũ trang của quân Nhật, nhưng sự thật chúng là đội quân viễn chinh giúp thực dân Pháp âm mưu cướp lại nước ta. Phía Bắc thì quân đội Quốc dân Đảng Trung Quốc kéo sang. Chúng cũng mượn tiếng là lột vũ trang quân Nhật, nhưng kỳ thật chúng có ba mục đích hung ác: - Tiêu diệt Đảng ta, - Phá tan Việt Minh,
- Giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập
một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng.
Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi cách để
sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và
thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận
dân tộc thống nhất [32, tr.161].
Theo tư tưởng chỉ đạo Hồ Chí Minh, chính trong những tình thế hiểm nghèo cần
phải sáng suốt, cần có đối sách mềm dẻo, nhân nhượng, hòa hoãn để giữ vững và củng
cố sức mạnh thống nhất của chính quyền nhân dân, thành quả quan trọng nhất của cách
mạng tháng Tám. Hồ Chí Minh hiểu rõ: "vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn
đề chính quyền, giành chính quyền đã khó nhưng giữ vững chính quyền càng khó hơn".
Chính trong thời khắc cực kỳ nghiêm trọng và đầy thử thách này, thiên tài Hồ Chí Minh
và nghị lực cách mạng phi thường của dân tộc đã giúp Người nhạy bén và sáng suốt lựa
chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời có hiệu quả những nhiệm vụ
cùng phức tạp, khó khăn; bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua
thác ghềnh, từng bước tiến lên. Thời gian là một yếu tốcùng cần thiết để "củng cố
dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất", nguồn
sức mạnh của hệ thống chính trị dân chủ vừa mới được thành lập; thời gian sức
mạnh, là lực lượng cho Mặt trận và Chính quyền triển khai công việc tổ chức đoàn kết
toàn dân và xây dựng "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" trở thành một
hệ thống chính quyền thống nhất từ "Chính phủ toàn quốc" đến chính quyền địa phương
trong cả nước Việt Nam.
Sự kiện Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán" là "để phá tan tất cả
những điều hiểu lầm ở ngoài nước và trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng
nước ta". Những người muốn nghiên cứu vchủ nghĩa Mác - Lênin "sẽ gia nhập Hội
nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương".
Như vậy, bằng việc công khai thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác và tờ báo
Sự thật cùng các chỉ thị, nghị quyết, trên thực tế Đảng ta vẫn tiếp tục tuyên truyền chủ
nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, giữ vững được mối liên hệ giữa
- Giúp bọn phản động Việt Nam đánh đổ chính quyền nhân dân, để lập một chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Đứng trước tình hình gay go và cấp bách ấy, Đảng phải dùng mọi cách để sống còn, hoạt động và phát triển, để lãnh đạo kín đáo và có hiệu quả hơn, và có thời giờ củng cố dần dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất [32, tr.161]. Theo tư tưởng chỉ đạo Hồ Chí Minh, chính trong những tình thế hiểm nghèo cần phải sáng suốt, cần có đối sách mềm dẻo, nhân nhượng, hòa hoãn để giữ vững và củng cố sức mạnh thống nhất của chính quyền nhân dân, thành quả quan trọng nhất của cách mạng tháng Tám. Hồ Chí Minh hiểu rõ: "vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền, giành chính quyền đã khó nhưng giữ vững chính quyền càng khó hơn". Chính trong thời khắc cực kỳ nghiêm trọng và đầy thử thách này, thiên tài Hồ Chí Minh và nghị lực cách mạng phi thường của dân tộc đã giúp Người nhạy bén và sáng suốt lựa chọn những đối sách đúng đắn nhằm giải quyết kịp thời có hiệu quả những nhiệm vụ vô cùng phức tạp, khó khăn; bình tĩnh chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh, từng bước tiến lên. Thời gian là một yếu tố vô cùng cần thiết để "củng cố dần lực lượng của chính quyền nhân dân, củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất", nguồn sức mạnh của hệ thống chính trị dân chủ vừa mới được thành lập; thời gian là sức mạnh, là lực lượng cho Mặt trận và Chính quyền triển khai công việc tổ chức đoàn kết toàn dân và xây dựng "chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" trở thành một hệ thống chính quyền thống nhất từ "Chính phủ toàn quốc" đến chính quyền địa phương trong cả nước Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự giải tán" là "để phá tan tất cả những điều hiểu lầm ở ngoài nước và trong nước có thể trở ngại cho tiền đồ giải phóng nước ta". Những người muốn nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin "sẽ gia nhập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương". Như vậy, bằng việc công khai thành lập Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác và tờ báo Sự thật cùng các chỉ thị, nghị quyết, trên thực tế Đảng ta vẫn tiếp tục tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng, giữ vững được mối liên hệ giữa
Đảng và quần chúng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc.
Tình hình những tháng năm đầu của cách mạng là thời kỳ chồng chất những khó
khăn thử thách với Đảng và chính quyền nhân dân trên mọi phương diện từ nội trị, kinh
tế, quân sự, đến ngoại giao.
Với tư cách là thượng khách của nước Pháp, trong chuyến thăm Pháp năm 1946,
Hồ Chí Minh là hiện thân của ý chí độc lập dân tộc, hoà bình và hữu nghị của nước Việt
Nam mới, Người đã làm hết sức mình để cố tránh một cuộc chiến tranh đổ máu cho hai
dân tộc Việt - Pháp kéo dài khoảng thời gian hoà hoãn để củng cố chính quyền,
chuẩn bị lực lượng cho cách mạng ở trong nước.
Trước những câu hỏi có tính "cân não" về xu hướng cộng sản, ở một thời điểm
nhạy cảm, của các nhà báo Pháp phỏng vấn Hồ Chủ tịch, Người điềm tĩnh trả lời:
Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi
nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm, Đức chúa Giêsu đã nói
là ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện
được.
Còn khi nào thì chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể trả lời
được. Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải kỹ nghệ,
nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình.
ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ [30, tr.272].
Qua đó, ta có thể thấy Hồ Chí Minh luôn đứng ở thực tại, cho dù trong những
hoàn cảnh ngặt nghèo, Người vẫn tỏa sáng một tầm nhìn bao quát, những biến chuyển
biện chứng của lịch sử vận động khách quan đều thông qua những điều kiện cụ thể. ở đó
con người không thể áp đặt ý muốn chủ quan cho lịch sử được. Hòa bình, hợp tác thân
thiện là những điều kiện để hai dân tộc Việt - Pháp có thể thực hiện được, còn chế độ
chính trị xã hội là do dân chúng mỗi nước tự quyết định. Lịch sử đã khẳng định về
một "cơ hội hòa bình đã để lỡ" là do tham vọng duy trì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời
của Chính phủ Pháp lúc bấy giờ đối với vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
Đảng và quần chúng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc. Tình hình những tháng năm đầu của cách mạng là thời kỳ chồng chất những khó khăn thử thách với Đảng và chính quyền nhân dân trên mọi phương diện từ nội trị, kinh tế, quân sự, đến ngoại giao. Với tư cách là thượng khách của nước Pháp, trong chuyến thăm Pháp năm 1946, Hồ Chí Minh là hiện thân của ý chí độc lập dân tộc, hoà bình và hữu nghị của nước Việt Nam mới, Người đã làm hết sức mình để cố tránh một cuộc chiến tranh đổ máu cho hai dân tộc Việt - Pháp và kéo dài khoảng thời gian hoà hoãn để củng cố chính quyền, chuẩn bị lực lượng cho cách mạng ở trong nước. Trước những câu hỏi có tính "cân não" về xu hướng cộng sản, ở một thời điểm nhạy cảm, của các nhà báo Pháp phỏng vấn Hồ Chủ tịch, Người điềm tĩnh trả lời: Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác. Cách đây 2000 năm, Đức chúa Giêsu đã nói là ta phải yêu mến các kẻ thù của ta. Điều đó đến bây giờ vẫn chưa thực hiện được. Còn khi nào thì chủ nghĩa Các Mác thực hiện thì tôi không thể trả lời được. Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả năng của mình. ở nước chúng tôi, những điều kiện ấy chưa có đủ [30, tr.272]. Qua đó, ta có thể thấy Hồ Chí Minh luôn đứng ở thực tại, cho dù trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, Người vẫn tỏa sáng một tầm nhìn bao quát, những biến chuyển biện chứng của lịch sử vận động khách quan đều thông qua những điều kiện cụ thể. ở đó con người không thể áp đặt ý muốn chủ quan cho lịch sử được. Hòa bình, hợp tác thân thiện là những điều kiện để hai dân tộc Việt - Pháp có thể thực hiện được, còn chế độ chính trị xã hội là do dân chúng ở mỗi nước tự quyết định. Lịch sử đã khẳng định về một "cơ hội hòa bình đã để lỡ" là do tham vọng duy trì chủ nghĩa thực dân đã lỗi thời của Chính phủ Pháp lúc bấy giờ đối với vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
Lịch sử Cách mạng Việt Nam hiện đại ghi nhận rằng giai đoạn đầu Cách mạng
Tháng Tám 1945 đến 1946 là giai đoạn chính quyền nhân dân chịu nhiều thử thách nặng
nề, khó khăn nguy hiểm nhất. Hoàn cảnh lịch sử ra đời những nhiệm vụ to lớn,
những thử thách sống còn đòi hỏi chính quyền non trẻ của nhân dân phải tỏ rõ là một hệ
thống chính quyền phải mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, sát cánh cùng toàn thể dân
tộc bằng sức mạnh nội lực của đất nước đã giải phóng quyết giữ vững quyền độc lập
tự do của cả dân tộc Việt Nam. Hệ thống chính quyền nhà nước mới muốn thực sự
chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân thì nó phải được xây dựng trên nền
tảng dân chủ. Các quan quyền lực nhà nước của chính quyền nhân dân phải do
nhân dân bầu ra bằng cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhân dân
thực sự sử dụng quyền dân chủ của mình để ứng cử bầu cử để chọn ra những
người đủ đức, đủ tài gánh vác công việc chung của chính quyền nhân dân.
1.2. sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Thực hiện chính quyền mạnh
mẽ và sáng suốt của nhân dân
Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nhiệm vụ của nhà nước hết sức nặng nề,
một mặt phải khắc phục những khó khăn nghiêm trọng như giải quyết nạn đói, nạn dốt,
thói xấu cùng những bất công, chia rẽ tôn giáo, mất dân chủ trong xã hội do chế độ cũ
để lại, mặt khác, chính quyền nhân dân, đặc biệt là chính quyền cấp xã đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước ở địa phương. Tệ
tham ô, lãng phí, công thần, "làm quan cách mạng", lên mặt, nhũng nhiễu nhân dân... đã
sớm được Hồ Chí Minh nhận dạng và cảnh báo qua những bài báo, bức thư của Người
đã cho công bố. Chính những khuyết tật, những căn bệnh cả cũ lẫn mới đó đã làm cho
khả năng tập hợp sức mạnh và trí tuệ sáng suốt của nhân dân, của cấp chính quyền
sở bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và uy tín cả hệ thống chính quyền dân chủ
mới.
Trên cương vị người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy sự
cần thiết phải lãnh đạo, tổ chức xây dựng hệ thống chính quyền dân chủ phải thật sự
mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Chế độ dân chủ phải được vận hành bằng nền hành
chính dân chủ mới.
Lịch sử Cách mạng Việt Nam hiện đại ghi nhận rằng giai đoạn đầu Cách mạng Tháng Tám 1945 đến 1946 là giai đoạn chính quyền nhân dân chịu nhiều thử thách nặng nề, khó khăn và nguy hiểm nhất. Hoàn cảnh lịch sử ra đời và những nhiệm vụ to lớn, những thử thách sống còn đòi hỏi chính quyền non trẻ của nhân dân phải tỏ rõ là một hệ thống chính quyền phải mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân, sát cánh cùng toàn thể dân tộc bằng sức mạnh nội lực của đất nước đã giải phóng quyết giữ vững quyền độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Hệ thống chính quyền nhà nước mới muốn thực sự là chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân thì nó phải được xây dựng trên nền tảng dân chủ. Các cơ quan quyền lực nhà nước của chính quyền nhân dân phải do nhân dân bầu ra bằng cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Nhân dân thực sự sử dụng quyền dân chủ của mình để ứng cử và bầu cử để chọn ra những người đủ đức, đủ tài gánh vác công việc chung của chính quyền nhân dân. 1.2. sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân Sau Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, nhiệm vụ của nhà nước hết sức nặng nề, một mặt phải khắc phục những khó khăn nghiêm trọng như giải quyết nạn đói, nạn dốt, thói xấu cùng những bất công, chia rẽ tôn giáo, mất dân chủ trong xã hội do chế độ cũ để lại, mặt khác, chính quyền nhân dân, đặc biệt là chính quyền cấp xã đã bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước ở địa phương. Tệ tham ô, lãng phí, công thần, "làm quan cách mạng", lên mặt, nhũng nhiễu nhân dân... đã sớm được Hồ Chí Minh nhận dạng và cảnh báo qua những bài báo, bức thư của Người đã cho công bố. Chính những khuyết tật, những căn bệnh cả cũ lẫn mới đó đã làm cho khả năng tập hợp sức mạnh và trí tuệ sáng suốt của nhân dân, của cấp chính quyền cơ sở bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn tại và uy tín cả hệ thống chính quyền dân chủ mới. Trên cương vị người đứng đầu Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy sự cần thiết phải lãnh đạo, tổ chức xây dựng hệ thống chính quyền dân chủ phải thật sự mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Chế độ dân chủ phải được vận hành bằng nền hành chính dân chủ mới.
Sự ra đời tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân"
là một quá trình nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong điều kiện
Việt Nam từ một nước nô lệ tiến lên một quốc gia độc lập. Đó là sự thay đổi lớn, một
cuộc cách mạng trong tư tưởng và thực tiễn chỉ đạo xây dựng chính quyền dân chủ ở
Việt Nam. Lịch sử Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lịch sử Hiến pháp Việt
Nam gắn liền với tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh.
Hiến pháp là nền tảng để xây dựng chế độ dân chủ hiện đại, Hiến pháp là cơ sở
pháp lý về sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Thực hiện một xã hội tự do, dân chủ
cho nhân dân một chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của dân cần phải một Hiến
pháp dân chủ. ý thức rất sớm vấn đề này, nên suốt 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của
Hiến pháp Việt Nam mà Người còn trực tiếp làm Trưởng ban soạn thảo hai bản Hiến
pháp 1946, Hiến pháp 1959.
Sự cần thiết phải xây dựng và tổ chức một chính quyền nhà nước mạnh mẽ, sáng
suốt của nhân dân được Hồ Chí Minh nhận thức thể hiện rất sớm từ phiên họp đầu
tiên (ngày 3/9/1945) của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại
phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng Những nhiệm vụ
cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó những vấn đề cấp bách,
thiết thực chính quyền mới ra đời "chưa quen với kỹ thuật hành chính, phải giải
quyết trong hoàn cảnh đất nước còn chồng chất những khó khăn thiếu thốn" [30, tr.7].
Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, các Bộ trưởng đã thảo luận và đều nhất
trí tán thành những đề nghị của Người. Việc đề xuất ra những chủ trương, chính sách,
nhiệm vụ đúng đắn, kịp thời để giải quyết công việc, thể hiện bản lĩnh trí tuệ, năng lực tổ
chức, quản lý sáng suốt của Chính phủ, đặc biệt là người đứng đầu.
Cùng với các quyết sách mạnh mẽ để giải quyết nạn đói, nạn dốt, bãi bỏ các thứ
thuế bất công, thực hành: cần, kiệm, liêm, chính trong chiến dịch giáo dục lại tinh thần
nhân dân. Người tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết, Hồ Chí Minh đã đề
cập ngay đến sự cần thiết: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính
phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.
Sự ra đời tư tưởng "thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân" là một quá trình nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của cách mạng Việt Nam trong điều kiện Việt Nam từ một nước nô lệ tiến lên một quốc gia độc lập. Đó là sự thay đổi lớn, một cuộc cách mạng trong tư tưởng và thực tiễn chỉ đạo xây dựng chính quyền dân chủ ở Việt Nam. Lịch sử Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và lịch sử Hiến pháp Việt Nam gắn liền với tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Hiến pháp là nền tảng để xây dựng chế độ dân chủ hiện đại, Hiến pháp là cơ sở pháp lý về sự tồn tại và phát triển của nhà nước. Thực hiện một xã hội tự do, dân chủ cho nhân dân và một chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của dân cần phải có một Hiến pháp dân chủ. ý thức rất sớm vấn đề này, nên suốt 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiến pháp Việt Nam mà Người còn trực tiếp làm Trưởng ban soạn thảo hai bản Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959. Sự cần thiết phải xây dựng và tổ chức một chính quyền nhà nước mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân được Hồ Chí Minh nhận thức và thể hiện rất sớm từ phiên họp đầu tiên (ngày 3/9/1945) của Hội đồng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại phiên họp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày với các Bộ trưởng Những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đó là những vấn đề cấp bách, thiết thực mà chính quyền mới ra đời "chưa quen với kỹ thuật hành chính, phải giải quyết trong hoàn cảnh đất nước còn chồng chất những khó khăn thiếu thốn" [30, tr.7]. Sau khi nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày, các Bộ trưởng đã thảo luận và đều nhất trí tán thành những đề nghị của Người. Việc đề xuất ra những chủ trương, chính sách, nhiệm vụ đúng đắn, kịp thời để giải quyết công việc, thể hiện bản lĩnh trí tuệ, năng lực tổ chức, quản lý sáng suốt của Chính phủ, đặc biệt là người đứng đầu. Cùng với các quyết sách mạnh mẽ để giải quyết nạn đói, nạn dốt, bãi bỏ các thứ thuế bất công, thực hành: cần, kiệm, liêm, chính trong chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân. Người tuyên bố: tín ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết, Hồ Chí Minh đã đề cập ngay đến sự cần thiết: "Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu.