Luận văn: Thị trường chung với các ưu đãi và rào cản hạn chế nhằm đảm bảo quyền lợi nội bộ
7,312
371
176
Nhật Bản đã thâm nhập thị trường EU rất thành công. Phương pháp này được áp dụng
phổ biến đối với các mặt hàng công nghiệp, như: radio, xe máy, tủ lạnh, ti
vi,vv... Với
cách này Nhật Bản đã đẩy mạnh xuất khẩu sang EU. Đầu thập niên 70, hàng Nhật Bản
đã chiếm thị phần lớn và đánh bại hàng của EU. Để hạn chế sự chiếm lĩnh thị
trường
của hàng Nhật Bản và bảo hộ sản xuất trong nước, EU đã đặt ra hàng rào thuế quan
và
phi quan thuế chặt chẽ. Không chịu lùi bước, các nhà sản xuất Nhật Bản đã tìm ra
một
phương pháp mới để vượt hai rào cản của EU là đầu tư vốn sang khu vực này để sản
xuất và xuất khẩu tại chỗ. Như vậy, họ không những giữ được thị phần mà còn có
triển
vọng phát triển. Đây thực sự là một bài học bổ ích cho các nhà sản xuất hàng
xuất
khẩu Việt Nam sang thị trường này.
EU là một trong những thị trường lớn trên thế giới, sở thích và nhu cầu của họ
cũng cao, họ có thu nhập, mức sống cao và khá đồng đều và yêu cầu rất khắt khe
về
chất lượng và độ an toàn của sản phẩm nói chung, còn riêng đối với thực phẩm thì
chất
lượng và vệ sinh là hàng đầu. Yếu tố trước tiên quyết định tiêu dùng của người
Châu
Âu là chất lượng và thời trang của hàng hoá sau đó mới đến giá cả… đối với đại
đa số
các mặt hàng được tiêu thụ trên thị trường này.
Thị trường EU về cơ bản cũng giống như một thị trường quốc gia, do vậy có 3
nhóm người tiêu dùng khác nhau: (1) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức cao, chiếm
gần 20% dân số của EU, dùng hàng có chất lượng tốt nhất và giá cả cũng đắt nhất
hoặc
những mặt hàng hiếm và độc đáo; (2) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức trung
bình,
chiếm 68% dân số, sử dụng chủng loại hàng có chất lượng kém hơn một chút so với
nhóm 1 và giá cả cũng rẻ hơn; (3) Nhóm có khả năng thanh toán ở mức thấp, chiếm
hơn 10% dân số, tiêu dùng những loại hàng có chất lượng và giá đều thấp hơn so
với
hàng của nhóm 2. Hàng hóa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trên thị trường này gồm cả
hàng cao cấp lẫn hàng bình dân phục vụ cho mọi đối tượng.
Xu hướng tiêu dùng trên thị trường EU đang có những thay đổi, như: không
thích sử dụng đồ nhựa mà thích dùng đồ gỗ, thích ăn thủy hải sản hơn ăn thịt,
yêu cầu
về mẫu mốt và kiểu dáng hàng hoá thay đổi nhanh, đặc biệt đối với những mặt hàng
thời trang (giày dép, quần áo,v.v...). Sở thích và thói quen tiêu dùng trên thị
trường này
đang thay đổi rất nhanh cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ.
Ngày nay, yêu cầu của người tiêu dùng EU đề cao hơn về phương thức dịch vụ sau
bán của hàng hoá, kể cả hàng tiêu dùng cũng như hàng công nghệ cao. Và chất
lượng
hàng hoá vẫn luôn là yếu tố quyết định phần lớn mặt hàng được tiêu thụ trên thị
trường
này.
1.2. Kênh phân phối
Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một
quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân
phối này là các Công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các
công ty
bán lẻ độc lập, v.v... .
Các Công ty xuyên quốc gia là các tập đoàn lớn gồm rất nhiều công ty con. Các
cuộc cách mạng khoa học công nghệ ở Tây Âu đã dẫn tới sự thay đổi cơ cấu các
ngành
kinh tế, kéo theo là trào lưu “Nhất thể hoá” và “Tổ chức lại” các Công ty xuyên
quốc
gia.
Xu hướng nhất thể hoá hay là sự sát nhập hợp nhất của các Công ty xuyên quốc
gia đang diễn ra sôi độngvà quá trình này trong EU diễn ra trong hầu hết các
ngành từ
lĩnh vực sản xuất đến lưu thông, và biểu hiện đậm nét ở các ngành: hàng không,
sản
xuất ô tô, tài chính-ngân hàng- bảo hiểm.
Các công ty xuyên quốc gia EU tổ chức lại bằng cách tìm nguồn cung ứng từ
nước ngoài, tập trung vào việc phát triển những sản phẩm công nghệ cao ở trong
nước
và hoạt động tiếp thị. Rất nhiều công ty chú trọng tới khâu sản xuất, sau khi tổ
chức lại
đã chuyển phần lớn hoạt động từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiếp thị tiêu
dùng.
Những công ty này chuyển một phần sản xuất của họ ra nước ngoài hoặc tìm kiếm
các
nhà thầu nước ngoài. Việc duy trì vừa đủ sản xuất trong nước cho phép họ có khả
năng
phản ứng nhanh với những thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Đồng thời việc đưa
sản
xuất ra nước ngoài giúp họ có thể tận dụng được lao động rẻ ở nước ngoài để cung
cấp
sản phẩm với giá cạnh tranh. Chính vì vậy mà EU nhập rất nhiều hàng may mặc, da
giày, v.v... từ các nước, những năm gần đây nhập rất nhiều từ Châu á.
Các Công ty xuyên quốc gia EU thường phát triển theo mô hình, gồm: ngân
hàng hoặc công ty tài chính, nhà máy, công ty thương mại, siêu thị, cửa
hàng,v.v... Các
Công ty xuyên quốc gia tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng của mình rất chặt chẽ, họ
chú
trọng từ khâu đầu tư sản xuất hoặc mua hàng đến khâu phân phối hàng cho mạng
lưới
bán lẻ. Do vậy, họ có quan hệ rất chặt chẽ với các nhà thầu nước ngoài (các nhà
xuất
khẩu ở các nước) để đảm bảo nguồn cung cấp hàng ổn định và giữ uy tín với mạng
lưới bán lẻ.
Hình thức tổ chức phổ biến nhất của các kênh phân phối trên thị trường EU là
theo tập đoàn và không theo tập đoàn. Kênh phân phối theo tập đoàn có nghĩa là
các
nhà sản xuất và nhà nhập khẩu của một tập đoàn chỉ cung cấp hàng hoá cho hệ
thống
các cửa hàng và siêu thị của tập đoàn này mà không cung cấp hàng cho hệ thống
bán lẻ
của tập đoàn khác. Còn kênh phân phối không theo tập đoàn thì ngược lại, các nhà
sản
xuất và nhập khẩu của tập đoàn này ngoài việc cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán
lẻ
của tập đoàn mình còn cung cấp hàng hoá cho hệ thống bán lẻ của tập đoàn khác và
các công ty bán lẻ độc lập.
Rất ít trường hợp các siêu thị lớn hoặc các công ty bán lẻ độc lập mua hàng trực
tiếp từ
các nhà xuất khẩu nước ngoài. Mối quan hệ bạn hàng giữa các nhà bán buôn và bán
lẻ
trên thị trường EU không phải là ngẫu nhiên mà phần lớn là do có quan hệ tín
dụng và
mua cổ phần của nhau. Các nhà bán buôn và bán lẻ trong hệ thống phân phối của EU
thường có quan hệ làm ăn lâu đời và rất ít khi mua hàng của các nhà cung cấp
không
quen biết cho dù giá hàng có rẻ hơn nhiều vì uy tín kinh doanh với khách hàng
được
họ đặt lên hàng đầu mà muốn giữ được điều này thì hàng phải đảm bảo chất lượng
và
nguồn cung cấp ổn định. Họ liên kết với nhau chặt chẽ thành một chuỗi mắt xích
trong
kinh doanh bằng các hợp đồng kinh tế. Các cam kết trong hợp đồng được giám sát
nghiêm ngặt bởi các chế tài của luật kinh tế. Vì vậy mà các nhà nhập khẩu của EU
yêu
cầu rất cao về việc tuân thủ chặt chẽ các điều khoản của hợp đồng, đặc biệt là
chất
lượng và thời gian giao hàng.
Hệ thống phân phối của EU đã hình thành lên một tổ hợp rất chặt chẽ và có
nguồn gốc lâu đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là việc dễ
đối
với các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện nay. Các doanh nghiệp xuất khẩu của ta muốn
tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường EU thì phải tiếp cận được
với các
nhà nhập khẩu EU. Có thể tiếp cận với các nhà nhập khẩu EU bằng hai cách: thứ
nhất,
tìm các nhà nhập khẩu EU để xuất khẩu trực tiếp (tìm các nhà nhập khẩu này qua
các
Thương vụ của Việt Nam tại EU, Phái đoàn EC tại Hà Nội, các Đại sứ quán của các
nước EU tại Việt Nam); thứ hai, những doanh nghiệp Việt Nam có tiềm lực kinh tế
nên thành lập liên doanh với các Công ty xuyên quốc gia EU để trở thành công ty
con.
2. Các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất
được bảo vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo
quyền
lợi cho người tiêu dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất
và
có các hệ thống báo động giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm
tra các
sản phẩm ở biên giới. EU đã thông qua những quy định bảo vệ quyền lợi của người
tiêu dùng về độ an toàn chung của các sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng
cáo,
bán hàng tận nhà, nhãn hiệu,v.v... Các tổ chức chuyên nghiên cứu đại diện cho
giới
tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định chuẩn Quốc gia hoặc Châu Âu. Hiện nay ở EU
có
3 tổ chức định chuẩn: Uỷ Ban Châu Âu về Định chuẩn, Uỷ Ban Châu Âu về Định
chuẩn điện tử, Viện Định chuẩn Viễn thông Châu Âu. Tất cả các sản phẩm chỉ có
thể
bán được ở thị trường này với điều kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn chung
của
EU, các luật và định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản
phẩm
được sản xuất ra từ các nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt được mức an
toàn
ngang với tiêu chuẩn của EU. Quy chế bảo đảm an toàn của EU đối với một số loại
sản
phẩm tiêu dùng như sau:
- Các sản phẩm thực phẩm, đồ uống đóng gói phải ghi rõ tên sản phẩm, nh•n
mác, danh mục thành phẩm, thành phần, trọng lượng ròng, thời gian sử dụng, cách
sử
dụng, địa chỉ của nước sản xuất hoặc nơi bán, nơi sản xuất, các điều kiện đặc
biệt để
bảo quản, để chuẩn bị sử dụng hoặc các thao tác bằng tay, mã số và mã vạch để dễ
nhận dạng lô hàng.
- Các loại thuốc men đều phải được kiểm tra, đăng ký và được các cơ quan có
thẩm quyền của các quốc gia thuộc EU cho phép trước khi sản phẩm được bán ra
trên
thị trường EU. Giữa các cơ quan có thẩm quyền này và Uỷ Ban Châu Âu về Định
chuẩn thiết lập một hệ thống thông tin trao đổi tức thời có khả năng nhanh chóng
thu
hồi bất cứ loại thuốc nào có tác dụng phụ đang được bán trên thị trường.
- Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho
biết các loại sợi cấu thành nên loại vải hay luạ được bán ra trên thị trường EU.
Bất cứ
loại vải hay lụa nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều loại sợi mà một
trong
các loại ấy chiếm tối thiểu 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể đề tên
loại sợi
đó kèm theo tỷ lệ về trọng lượng, hoặc đề tên của loại sợi đó kèm tỷ lệ tối
thiểu 85%,
hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm. Nếu sản phẩm gồm hai hoặc nhiều loại
sợi
mà không loại sợi nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu ít nhất
cũng
phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất, kèm theo tên các loại sợi khác
đã được
sử dụng.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, EU tích cực tham gia chống nạn hàng
giả bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền.
Ngoài việc ban hành và thực hiện quy chế trên, EU đưa ra các Chỉ thị kiểm soát
từng nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người tiêu dùng ( phụ lục
2).
3. Chính sách thương mại chung của EU
EU ngày nay được xem như là một đại quốc gia ở Châu Âu. Bởi vậy, chính
sách thương mại chung của EU cũng giống như chính sách thương mại của một quốc
gia. Nó bao gồm chính sách thương mại nội khối và chính sách ngoại thương.
3.1. Chính sách thương mại nội khối
Chính sách thương mại nội khối tập trung vào việc xây dựng và vận hành thị
trường chung Châu Âu nhằm xoá bỏ việc kiểm soát biên giới lãnh thổ quốc gia,
biên
giới hải quan (xoá bỏ các hàng rào thuế quan và phi quan thuế) để tự do lưu
thông
hàng hoá, sức lao động, dịch vụ và vốn; và điều hoà các chính sách kinh tế và xã
hội
của các nước thành viên.
Một thị trường chung Châu Âu bảo đảm tạo ra các cơ hội tương tự cho mọi
người trong thị trường chung và ngăn ngừa cạnh tranh được tạo ra do sự méo mó về
thương mại. Một thị trường đơn lẻ không thể vận hành một cách suôn sẻ nếu như
không thống nhất các điều kiện cạnh tranh áp dụng. Vì mục đích này, các nước EU
đều nhất trí tạo ra một hệ thống bảo hộ sự cạnh tranh tự do trên thị trường.
3.2. Chính sách ngoại thương
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương
chung đối với các nước ngoài khối. Uỷ ban Châu Âu (EC) là người đại diện duy
nhất
cho Liên Minh trong việc đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp
tranh chấp trong lĩnh vực này.
Chính sách ngoại thương của EUgồm: chính sách thương mại tự trị và chính
sách thương mại dựa trên cơ sở Hiệp định, được xây dựng dựa trên các nguyên tắc
sau:
không phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại và cạnh tranh công bằng. Các
biện
pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách này là thuế quan, hạn chế về số
lượng,
hàng rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá: đẩy mạnh tự do hoá thương
mại. Hiện nay, 15 nước thành viên EU cùng áp dụng một biểu thuế quan chung đối
với
hàng hoá xuất nhập khẩu. Các chính sách phát triển ngoại thương của EU từ 1951
đến
nay là những nhóm chính sách chủ yếu sau: Chính sách khuyến khích xuất khẩu,
chính
sách thay thế nhập khẩu, chính sách tự do hoá thương mại và chính sách hạn chế
xuất
khẩu tự nguyện. Việc ban hành và thực hiện các chính sách này có liên quan chặt
chẽ
đến tình hình phát triển kinh tế, tiến trình nhất thể hóa Châu Âu và khả năng
cạnh
tranh trong từng thời kỳ của các sản phẩm của Liên Minh trên thị trường thế
giới.
Ngoài các chính sách, EU có Quy chế nhập khẩu chung ( Phụ lục 2).
Để đảm bảo cạnh tranh công bằng trong thương mại, EU đã thực hiện các biện
pháp: Chống bán phá giá (Anti-dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng
giả.
EU đã ban hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán
phá giá” để ngăn chặn tình trạng hàng hoá xâm nhập ồ ạt từ bên ngoài vào cũng
như để
bảo vệ cho các nhà sản xuất trong nước.Trong khi đó, các biện pháp chống hàng
giả
của EU cho phép ngăn chặn không cho nhập khẩu những hàng hoá đánh cắp bản
quyền.
Bên cạnh các biện pháp trên-mà chủ yếu là để chống cạnh tranh không lành
mạnh và bảo hộ sản xuất trong nước, EU còn sử dụng một biện pháp để đẩy mạnh
thương mại với các nước đang phát triển và chậm phát triển. Đó là Hệ thống Ưu
đãi
Thuế quan Phổ cập (GSP)- Một công cụ quan trọng của EU để hỗ trợ các nước nói
trên. Bằng cách này, EU có thể làm cho nhóm các nước đang phát triển (trong đó
có
Việt Nam) và nhóm các nước chậm phát triển dễ dàng thâm nhập vào thị trường của
mình. Nhóm các nước chậm phát triển được hưởng ưu đãi cao hơn nhóm các nước
đang phát triển.
Chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) của EUmới đây nhất được quy
định trong văn bản của Hội đồng (EC) số 2820 ngày 21/12/1998 về việc áp dụng một
chương trình ưu đãi thuế quan phổ cập trong nhiều năm kể từ 1/7/1999 đến
31/12/2001
đối với tất cả các sản phẩm có xuất xứ từ các nước đang phát triển. Theo chương
trình
này EU chia các sản phẩm được hưởng GSP thành 4 nhóm với 4 mức thuế ưu đãi khác
nhau dựa trên mức độ nhậy cảm đối với bên nhập khẩu, mức độ phát triển của nước
xuất khẩu và những văn bản thoả thuận đã ký kết giữa hai bên. ( phụ lục 3).
*Các biện pháp khuyến khích trong GSP của EU: So với ưu đãi mà các nước và
khu vực khác dành cho các nước đang phát triển, mức ưu đãi của EU vào loại thấp
nhất. Trong hệ thống GSP của EU qui định khuyến khích tăng thêm mức ưu đãi 10%,
20%, 35% đối với hàng nông sản và 15%, 25% và 35% đối với hàng công nghệ phẩm.
Theo GSP của EU bắt đầu có hiệu lực từ 1/7/1999 thì những trường hợp sau được
hưởng ưu đãi thêm:
- Bảo vệ quyền của người lao động.
- Bảo vệ môi trường.
Hàng của các nước đang và chậm phát triển khi nhập khẩu vào thị trường EU
muốn được hưởng GSP thì phải tuân thủ các quy định của EU về xuất xứ hàng hóa và
phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ mẫu A (C/O form A) do cơ quan có thẩm
quyền của các nước được hưởng GSP cấp.
*Quy định của EU về xuất xứ hàng hóa:
- Đối với các sản phẩm hoàn toàn được sản xuất tại lanh thổ nước hưởng
GSP, như: khoáng sản, động thực vật, thủy sản đánh bắt trong lãnh hải và các
hàng
hóa sản xuất từ các sản phẩm đó được xem là có xuất xứ và được hưởng GSP.
- Đối với các sản phẩm có thành phần nhập khẩu: EU quy định hàm lượng trị giá
sản phẩm sáng tạo tại nước hưởng GSP (tính theo giá xuất xưởng) phải đạt 60%
tổng
trị giá hàng liên quan. Tuy nhiên, đối với một số nhóm hàng thì hàm lượng này
thấp
hơn. EU quy định cụ thể tỷ lệ trị giá và công đoạn gia công đối với một số nhóm
hàng
mà yêu cầu phần trị giá sáng tạo thấp hơn 60% (điều hòa nhiệt độ, tủ lạnh không
dưới
40; tượng, đồ trang trí làm từ kim loại không dưới 30%; giày dép chỉ được hưởng
GSP
nếu các bộ phận như: mũi, đế,v.v... ở dạng rời sản xuất ở trong nước hưởng GSP
hoặc
nhập khẩu; v.v...).
EU cũng quy định xuất xứ cộng gộp, theo đó hàng của một nước có thành phần
xuất xứ từ một nước khác trong cùng một tổ chức khu vực cũng được hưởng GSP thì
các thành phần đó cũng được xem là có xuất xứ từ nước liên quan. Thí dụ, Việt
Nam
xuất khẩu sang EU một mặt hàng trong đó thành phần xuất xứ của Việt Nam chiếm
20% trị giá, còn lại 15% nhập khẩu của Indonesia, 10% của Thái Lan, 15% của
Singapore. Xuất xứ cộng gộp của hàng Việt nam sẽ là: 20% + 15% + 10% + 15% =
60%. Mặt hàng này lẽ ra không được hưởng GSP (vì hàm lượng trị giá Việt Nam chưa
được 50%), nhưng nhờ cộng gộp (60%) đã đủ điều kiện hưởng GSP.
Hàng xuất khẩu của việt Nam vào thị trường EU được hưởng ưu đãi thuế quan
phổ cập (GSP) từ 1/7/1996 cho đến nay.
Trong việc quản lý nhập khẩu, EU phân biệt 2 nhóm nước: nhóm áp dụng cơ
chế kinh tế thị trường (nhóm I) và nhóm có nền thương nghiệp quốc doanh (nhóm
II) -
State trading. Hàng hóa nhập khẩu vào EU từ các nước thuộc nhóm II (trong đó có
Việt Nam) chịu sự quản lý chặt thường phải xin phép trước khi nhập khẩu. Sau khi
Việt Nam và EU ký Hiệp định Hợp tác (1995) với điều khoản đối xử tối huệ quốc và
mở rộng thị trường cho hàng hóa của nhau thì quy định xin phép trước đối với
nhập
khẩu hàng Việt Nam được hủy bỏ (trên thực tế). Tuy nhiên, cho đến trước ngày
14/5/2000 (ngày EU đưa ra quyết định “Công nhận Việt Nam áp dụng cơ chế kinh tế
thị trường”), EU vẫn xem Việt Nam là nước có nền thương nghiệp quốc doanh và
phân biệt đối xử hàng của Việt Nam với hàng của các nước kinh tế thị trường khi
tiến
hành điều tra và thi hành các biện pháp chống bán phá giá.
4. Tình hình nhập khẩu của EU trong những năm gần đây
Liên Minh Châu Âu có nền ngoại thương lớn thứ 2 thế giới (sau Mỹ), là thị
trường xuất khẩu lớn nhất và thị trường nhập khẩu lớn thứ 2. Hàng năm, EU nhập