Luận văn: Thị trường chung với các ưu đãi và rào cản hạn chế nhằm đảm bảo quyền lợi nội bộ

7,309
371
176
lớn: Thứ nhất, nguồn nguyên vật liệu chủ yếu trong nước, nhu cầu nhập khẩu
nguyên ph liệu không đáng kể. Trị giá nguyên ph liệu nhập khẩu chiếm trong giá
thành sản phẩm thấp. Thứ hai, đây là ngành có thể giải quyết được nhiều lao động dôi
dư mà trình độ không cao lắm. Thứ ba là vốn đầu sản xuất kinh doanh hàng TCMN
nói chung không lớn. Một số khâu trong sản xuất có thể sử dụng thiết bị máy móc thay
thế cho lao động thủ công để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Song cũng có thể
làm dần từng bước, không đòi hỏi phải giải quyết ngay một lần vì thế cũng tạo thuận
lợi cho việc chuẩn bị vốn đầu tư. Thứ tư là nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng này trên th
trường EU đang ngày càng gia tăng. Cuối cùng Nhà nước mới đây đã xếp ngành
nghề truyền thống này vào loại ngành nghề được ưu đãi đầu tư.
EU một thị trường lớn về hàng TCMN nhu cầu ổn định. Xuất khẩu hàng
TCMN sang EU trong những năm gần đây tăng khá nhanh, hiện nay chiếm tỷ trọng
gần 1/4 trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam. Đây cũng là th
trường ta xuất được nhiều nhóm hàng này, có nhiều triển vọng mở rộng và đẩy mạnh
tiêu th một số loại hàng mà có khng phát triển. Sản phẩm gỗ, gốm, sứ mỹ nghệ,
cói-song-mây.. là những mặt hàng đang được ưa chuộng và tiêu thụ mạnh tại EU. Khả
năng mở rộng thị trường còn rất lớn, thế nhưng hàng TCMN của ta lại phải cạnh tranh
rất gay gắt với hàng TCMN ca Trung Quốc về giá cả, chất lượng và kiểu dáng. Để
phát triển sản xuất, nâng cao khả ng cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU,
chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Xây dựng qui hoạch phát triển
các doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghvà vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất; (2)
Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN xuất khẩu nên nghiên cứu thiết kế mẫu mã
theo sthích và thẩm mỹ của khách hàng nước ngoài. Thực tế cho thấy những mẫu
mã do phía nước ngoài và việt kiều tại Châu Âu thiết kế đã bán rất chạy; (3) Nhà nước
lớn: Thứ nhất, nguồn nguyên vật liệu chủ yếu có trong nước, nhu cầu nhập khẩu nguyên phụ liệu không đáng kể. Trị giá nguyên phụ liệu nhập khẩu chiếm trong giá thành sản phẩm thấp. Thứ hai, đây là ngành có thể giải quyết được nhiều lao động dôi dư mà trình độ không cao lắm. Thứ ba là vốn đầu tư sản xuất kinh doanh hàng TCMN nói chung không lớn. Một số khâu trong sản xuất có thể sử dụng thiết bị máy móc thay thế cho lao động thủ công để tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Song cũng có thể làm dần từng bước, không đòi hỏi phải giải quyết ngay một lần vì thế cũng tạo thuận lợi cho việc chuẩn bị vốn đầu tư. Thứ tư là nhu cầu tiêu dùng các mặt hàng này trên thị trường EU đang ngày càng gia tăng. Cuối cùng là Nhà nước mới đây đã xếp ngành nghề truyền thống này vào loại ngành nghề được ưu đãi đầu tư. EU là một thị trường lớn về hàng TCMN và có nhu cầu ổn định. Xuất khẩu hàng TCMN sang EU trong những năm gần đây tăng khá nhanh, hiện nay chiếm tỷ trọng gần 1/4 trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng TCMN của Việt Nam. Đây cũng là thị trường ta xuất được nhiều nhóm hàng này, có nhiều triển vọng mở rộng và đẩy mạnh tiêu thụ một số loại hàng mà có khả năng phát triển. Sản phẩm gỗ, gốm, sứ mỹ nghệ, cói-song-mây.. là những mặt hàng đang được ưa chuộng và tiêu thụ mạnh tại EU. Khả năng mở rộng thị trường còn rất lớn, thế nhưng hàng TCMN của ta lại phải cạnh tranh rất gay gắt với hàng TCMN của Trung Quốc về giá cả, chất lượng và kiểu dáng. Để phát triển sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU, chúng ta cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Xây dựng qui hoạch phát triển các doanh nghiệp, hợp tác xã, làng nghề và vùng nguyên liệu phục vụ sản xuất; (2) Các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN xuất khẩu nên nghiên cứu thiết kế mẫu mã theo sở thích và thẩm mỹ của khách hàng nước ngoài. Thực tế cho thấy những mẫu mã do phía nước ngoài và việt kiều tại Châu Âu thiết kế đã bán rất chạy; (3) Nhà nước
nên ưu đãi nhiều hơn đặc biệt là thuế nguyên liệu nhập khẩu cho các doanh nghiệp sản
xuất hàng TCMN để xuất khẩu, điều này slàm giảm giá thành sản phẩm, ng kh
năng cạnh tranh của sản phẩm; (4) Công nghiệp hoá hoặc cơ giới hoá một số khâu để
nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Biện pháp này rất có tác dụng với hàng
gốm sứ. Các mặt hàng gốm của Việt Nam chất lượng và kiểu cách không thua gì
sản phẩm của Trung Quốc, tiềm năng tiêu thụ rất lớn nhưng vẫn chưa phát triển được
bởi chủ yếu được làm bằng tay, chất lượng không đồng đều. Nếu gii hoá được
khâu khai thác đất, nhào nặn và đầu tư cho lò điện, lò gaz để đảm bảo nhiệt độ nung ổn
định thì có thể cho ra sản phẩm chín đều, chất lượng cao; (5) Chú trọng đầu về vốn,
nhất là vốn để cải tiến công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nh sản xuất những
mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang được ưa chuộng tại EU.
- Đồ gỗ gia dụng: Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thực hiện một số biện
pháp: (1) Đẩy mạnh, mở rộng công nghiệp sản xuất gỗ ván ép vừa tận dụng nguyên
liệu, tránh bị tác động bởi thời tiết; (2) Mở rộng nghiên cứu sản xuất bàn ghế lắp ghép
hoặc liên doanh lắp ghép đ gỗ, song mây tại thị trường tiêu thtránh chi phí vận
chuyển cao, có thể cả thuế vì thuế thành phẩm khác thuế bán thành phẩm; (3) Đa dạng
hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường EU; (4) Tích cực và ch
động tìm nhiều kênh phân phi để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào EU- th
trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới hiện nay.
Việt Nam khả ng tr thành nước có ngành ngh chế biến gỗ cạnh tranh nhất
trong khu vực bởi giá lao động rẻ và người lao động hết sức khéo léo. Tuy tiềm
năng vchế biến gỗ, nhưng để phát huy hết tiềm năng này trong thời gian tới đây các
cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp cần hết sức chú ý đến xu hướng yếu tố
môi trường. Các tiêu chuẩn về môi trường s được EU đặt ra ngày càng nhiều cho
nên ưu đãi nhiều hơn đặc biệt là thuế nguyên liệu nhập khẩu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng TCMN để xuất khẩu, điều này sẽ làm giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm; (4) Công nghiệp hoá hoặc cơ giới hoá một số khâu để nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Biện pháp này rất có tác dụng với hàng gốm sứ. Các mặt hàng gốm của Việt Nam có chất lượng và kiểu cách không thua gì sản phẩm của Trung Quốc, tiềm năng tiêu thụ rất lớn nhưng vẫn chưa phát triển được bởi chủ yếu được làm bằng tay, chất lượng không đồng đều. Nếu cơ giới hoá được khâu khai thác đất, nhào nặn và đầu tư cho lò điện, lò gaz để đảm bảo nhiệt độ nung ổn định thì có thể cho ra sản phẩm chín đều, chất lượng cao; (5) Chú trọng đầu tư về vốn, nhất là vốn để cải tiến công nghệ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất những mặt hàng thủ công mỹ nghệ đang được ưa chuộng tại EU. - Đồ gỗ gia dụng: Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thực hiện một số biện pháp: (1) Đẩy mạnh, mở rộng công nghiệp sản xuất gỗ ván ép vừa tận dụng nguyên liệu, tránh bị tác động bởi thời tiết; (2) Mở rộng nghiên cứu sản xuất bàn ghế lắp ghép hoặc liên doanh lắp ghép đồ gỗ, song mây tại thị trường tiêu thụ tránh chi phí vận chuyển cao, có thể cả thuế vì thuế thành phẩm khác thuế bán thành phẩm; (3) Đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu phong phú của thị trường EU; (4) Tích cực và chủ động tìm nhiều kênh phân phối để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào EU- thị trường tiêu thụ đồ gỗ lớn nhất thế giới hiện nay. Việt Nam có khả năng trở thành nước có ngành nghề chế biến gỗ cạnh tranh nhất trong khu vực bởi giá lao động rẻ và người lao động hết sức khéo léo. Tuy có tiềm năng về chế biến gỗ, nhưng để phát huy hết tiềm năng này trong thời gian tới đây các cơ quan quản lý Nhà nước và các doanh nghiệp cần hết sức chú ý đến xu hướng yếu tố môi trường. Các tiêu chuẩn về môi trường sẽ được EU đặt ra ngày càng nhiều cho
thương mại đồ gỗ, kể cả việc xác định tính hợp pháp và khả năng tái sinh của khu vực
khai thác. Bi vậy, ta ddàng nhận thấy một yếu tố rất quan trọng quyết định việc
chiếm lĩnh và đứng vững của đồ gỗ gia dụng Việt Nam trên thtrường EU là những
sản phẩm này phải phù hợp với các tiêu chuẩn về môi trường.
- Cao su: cao su của Việt Nam xuất sang thị trường EU ngày càng tăng; năm
1997 đạt 26.224 tấn, chiếm 13,5% tổng khối lượng xuất khẩu của ta; năm 1998 đã lên
tới 48.032 tấn, chiếm 25,1% tổng khối lượng xuất khẩu. Mặt hàng này đang rất
triển vọng thâm nhập vào EU, nhưng do một số hạn chế nhất định nên tốc độ mở
rộng thị phần còn chậm. Chất lượng cao su Việt Nam cho tới nay cũng không thua
kém nhiều so với cao su của các nước trong khu vực nhưng do hạn chế về số lượng và
cơ cấu sản phẩm nên việc thâm nhập thị trường này gặp nhiều khó khăn hơn Indonesia
và Thái Lan. Sản lượng thấp đã hạn chế đáng kể khả năng tiếp cận các bạn hàng lớn,
sức mua ổn định. Cơ cấu sản phẩm đơn điệu cũng hạn chế khả năng xâm nhập thị
trường EU- thị trường tiêu thụ nhiều cao su SR. Để tăng nhanh kim ngch và nâng cao
hiệu quả xuất khẩu cao su sang EU, Việt Nam cần phải thực hiện một số biện pháp
sau: (1) Tập trung thâm canh, tăng năng suất cao su hiện có để hạ giá thành sản phẩm;
(2) Xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các nhà máy chế biến mủ để tập trung sản
xuất cao su SR vì loại cao su này rất được ưa chuộng trên thị trường EU; (3) Có chính
sách đúng đắn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cao su; (4) Phát
triển công nghiệp chế biến sản phẩm cao su và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU để mở
rộng thị phần.
- Rau quả là mặt hàng mới được xuất khẩu sang EU trong những m gần đây,
nhưng tốc độ ng trưởng kim ngạch tương đối nhanh. Tỷ trọng kim ngạch xuất
khẩu quả tươi chiếm khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu qutươi của Việt
thương mại đồ gỗ, kể cả việc xác định tính hợp pháp và khả năng tái sinh của khu vực khai thác. Bởi vậy, ta dễ dàng nhận thấy một yếu tố rất quan trọng quyết định việc chiếm lĩnh và đứng vững của đồ gỗ gia dụng Việt Nam trên thị trường EU là những sản phẩm này phải phù hợp với các tiêu chuẩn về môi trường. - Cao su: cao su của Việt Nam xuất sang thị trường EU ngày càng tăng; năm 1997 đạt 26.224 tấn, chiếm 13,5% tổng khối lượng xuất khẩu của ta; năm 1998 đã lên tới 48.032 tấn, chiếm 25,1% tổng khối lượng xuất khẩu. Mặt hàng này đang rất có triển vọng thâm nhập vào EU, nhưng do có một số hạn chế nhất định nên tốc độ mở rộng thị phần còn chậm. Chất lượng cao su Việt Nam cho tới nay cũng không thua kém nhiều so với cao su của các nước trong khu vực nhưng do hạn chế về số lượng và cơ cấu sản phẩm nên việc thâm nhập thị trường này gặp nhiều khó khăn hơn Indonesia và Thái Lan. Sản lượng thấp đã hạn chế đáng kể khả năng tiếp cận các bạn hàng lớn, có sức mua ổn định. Cơ cấu sản phẩm đơn điệu cũng hạn chế khả năng xâm nhập thị trường EU- thị trường tiêu thụ nhiều cao su SR. Để tăng nhanh kim ngạch và nâng cao hiệu quả xuất khẩu cao su sang EU, Việt Nam cần phải thực hiện một số biện pháp sau: (1) Tập trung thâm canh, tăng năng suất cao su hiện có để hạ giá thành sản phẩm; (2) Xây dựng mới và nâng cấp thiết bị cho các nhà máy chế biến mủ để tập trung sản xuất cao su SR vì loại cao su này rất được ưa chuộng trên thị trường EU; (3) Có chính sách đúng đắn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cao su; (4) Phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm cao su và đẩy mạnh xuất khẩu sang EU để mở rộng thị phần. - Rau quả là mặt hàng mới được xuất khẩu sang EU trong những năm gần đây, nhưng có tốc độ tăng trưởng kim ngạch tương đối nhanh. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu quả tươi chiếm khoảng 10% trong tổng kim ngạch xuất khẩu quả tươi của Việt
Nam. Các loại quả tươi xuất khẩu chủ yếu là: chuối, dứa, cam, vải, nhãn, thanh long,
xoài, dừa,v.v... Giá xuất khẩu và khng cạnh tranh của quả tươi Việt Nam thường
thấp hơn các nước khác. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu quả chế biến sang th trường
này chiếm khoảng 18% trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả chế biến. Các loại rau
qu chế biến xuất khẩu chính là: dưa chuột muối, đậu qumuối, tương chua
tương ớt, nấm muối, nước quả cô đặc, dứa hộp, long nhãn, chuối sấy. Các thị trường
xuất khẩu chủ yếu rau quả chế biến của Việt Nam trong khối EU là Pháp, Đức, Hà Lan
và Italia. Đối thủ cạnh tranh của ta trên thị trường EU chủ yếu là các nước: Thái Lan,
Trung Quốc, Nam Mỹ và mt số nước Châu Phi các điều kiện sản xuất tương t
như Vit Nam. Để đẩy mạnh xuất khẩu rau quả sang thị trường EU, chúng ta phải phát
triển những vùng trồng chuyên canh tng loại rau quả nhất định, đồng thời chú trọng
vấn đề chọn giống, phân bón, kỹ thuật trồng trọt và cả công nghệ sau thu hoạch để cho
sản phẩm có năng suất, chất lượng cao, khối lượng lớn và giá thành hạ.
1.2. Đối với các mặt hàng xuất khẩu mới
- Thực phẩm chế biến: Thị trường EU nhu cầu lớn về thực phẩm chế biến,
như thịt gia súc và gia cầm, nông sản và thuỷ sản chế biến. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu
vào thtrường này thì vấn đan toàn thực phẩm phải đặt lên hàng đầu mà hiên nay
chúng ta mới chủ yếu xuất khẩu thực phẩm nguyên liệu nên hiệu quả kinh tế thu được
rất nhỏ. Để khắc phục tình trạng này và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm chế biến sang
EU, chúng ta cần phải chú trọng công tác nghiên cứu nắm bắt thị hiếu tiêu dùng ca
thtrường EU và đầu vốn, công nghệ vào sản xuất đtạo ra những sản phẩm đáp
ứng thị hiếu tiêu dùng và tho mãn 5 tiêu chuẩn của sản phẩm theo quy định của EU.
Chúng ta nên đầu sản xuất mặt hàng này cung cấp cho thị trường EU theo hai
Nam. Các loại quả tươi xuất khẩu chủ yếu là: chuối, dứa, cam, vải, nhãn, thanh long, xoài, dừa,v.v... Giá xuất khẩu và khả năng cạnh tranh của quả tươi Việt Nam thường thấp hơn các nước khác. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu quả chế biến sang thị trường này chiếm khoảng 18% trong tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả chế biến. Các loại rau quả chế biến xuất khẩu chính là: dưa chuột muối, đậu quả muối, tương cà chua và tương ớt, nấm muối, nước quả cô đặc, dứa hộp, long nhãn, chuối sấy. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu rau quả chế biến của Việt Nam trong khối EU là Pháp, Đức, Hà Lan và Italia. Đối thủ cạnh tranh của ta trên thị trường EU chủ yếu là các nước: Thái Lan, Trung Quốc, Nam Mỹ và một số nước Châu Phi có các điều kiện sản xuất tương tự như Việt Nam. Để đẩy mạnh xuất khẩu rau quả sang thị trường EU, chúng ta phải phát triển những vùng trồng chuyên canh từng loại rau quả nhất định, đồng thời chú trọng vấn đề chọn giống, phân bón, kỹ thuật trồng trọt và cả công nghệ sau thu hoạch để cho sản phẩm có năng suất, chất lượng cao, khối lượng lớn và giá thành hạ. 1.2. Đối với các mặt hàng xuất khẩu mới - Thực phẩm chế biến: Thị trường EU có nhu cầu lớn về thực phẩm chế biến, như thịt gia súc và gia cầm, nông sản và thuỷ sản chế biến. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này thì vấn đề an toàn thực phẩm phải đặt lên hàng đầu mà hiên nay chúng ta mới chủ yếu xuất khẩu thực phẩm nguyên liệu nên hiệu quả kinh tế thu được rất nhỏ. Để khắc phục tình trạng này và đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm chế biến sang EU, chúng ta cần phải chú trọng công tác nghiên cứu nắm bắt thị hiếu tiêu dùng của thị trường EU và đầu tư vốn, công nghệ vào sản xuất để tạo ra những sản phẩm đáp ứng thị hiếu tiêu dùng và thoả mãn 5 tiêu chuẩn của sản phẩm theo quy định của EU. Chúng ta nên đầu tư sản xuất mặt hàng này cung cấp cho thị trường EU theo hai
hướng: (1) Sản phẩm phục vụ cộng đồng người Việt Nam sống ở EU, như ăn liền,
dầu thực vật, gia vị, nước chấm,v.v...; (2) Sản phẩm phục vụ người dân EU.
- Hàng điện tử- tin học là mặt hàng đang rất có triển vọng xuất khẩu sang EU.
Hiện nay, chúng ta chủ yếu nhập linh kiện về lắp ráp và xuất khẩu. Vì vậy, hiệu quả
xuất khẩu thấp. Do đó, để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng này, ta
phải tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm. Theo dbáo của các chuyên gia kinh tế, nhu
cầu hàng điện tử- tin học trên thtrường thế giới sẽ hồi phục và phát triển mạnh trong
giai đoạn 2001-2010, đặc biệt là thtrường EU đang nhu cầu rất lớn về mặt hàng
này. Đây là một thuận lợi cho ngành điện tử- tin học Việt Nam và cho xuất khẩu hàng
điện tử- tin học của ta sang thị trường EU trong giai đoạn tới.
2. Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu trong khối EU
Như đã trình bày, thtrường chung Châu Âu gồm 15 quốc gia nằm khu vực
Tây và Bắc Âu, tuy có nhiều điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá, nhưng mỗi quốc
gia vẫn có những nét đặc thù riêng vthị hiếu tiêu dùng. Bởi vậy mà thị trường EU có
nhu cầu rất phong phú và đa dạng về hàng hoá, một số mặt hàng có nhu cầu nhập khẩu
rất cao tại thị trường này nhưng lại không mấy được ưa chuộng thị trường nước
khác. Chính vì vậy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào EU trong thời gian tới thì ngay bây
gichúng ta cần phải có định hướng phát triển thị trường xuất khẩu trong khối EU.
Như vậy, chúng ta mới có thể củng cố thị phần hiện có và mở rộng thêm thị trường.
* Thị trường Đức:
Đức là thị trường lớn nhất trong khối EU, với 81,5 triệu người tiêu dùng (1996).
Đây cũng là th trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong Liên Minh, chiếm tỷ
trọng 22,7%-30,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta sang EU hàng năm. Đức là th
trường xuất khẩu truyền thống các mặt hàng sau đây: giày dép; hàng may mặc; cà phê;
hướng: (1) Sản phẩm phục vụ cộng đồng người Việt Nam sống ở EU, như mì ăn liền, dầu thực vật, gia vị, nước chấm,v.v...; (2) Sản phẩm phục vụ người dân EU. - Hàng điện tử- tin học là mặt hàng đang rất có triển vọng xuất khẩu sang EU. Hiện nay, chúng ta chủ yếu nhập linh kiện về lắp ráp và xuất khẩu. Vì vậy, hiệu quả xuất khẩu thấp. Do đó, để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng này, ta phải tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, nhu cầu hàng điện tử- tin học trên thị trường thế giới sẽ hồi phục và phát triển mạnh trong giai đoạn 2001-2010, đặc biệt là thị trường EU đang có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này. Đây là một thuận lợi cho ngành điện tử- tin học Việt Nam và cho xuất khẩu hàng điện tử- tin học của ta sang thị trường EU trong giai đoạn tới. 2. Định hướng phát triển thị trường xuất khẩu trong khối EU Như đã trình bày, thị trường chung Châu Âu gồm 15 quốc gia nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu, tuy có nhiều điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá, nhưng mỗi quốc gia vẫn có những nét đặc thù riêng về thị hiếu tiêu dùng. Bởi vậy mà thị trường EU có nhu cầu rất phong phú và đa dạng về hàng hoá, một số mặt hàng có nhu cầu nhập khẩu rất cao tại thị trường này nhưng lại không mấy được ưa chuộng ở thị trường nước khác. Chính vì vậy, muốn đẩy mạnh xuất khẩu vào EU trong thời gian tới thì ngay bây giờ chúng ta cần phải có định hướng phát triển thị trường xuất khẩu trong khối EU. Như vậy, chúng ta mới có thể củng cố thị phần hiện có và mở rộng thêm thị trường. * Thị trường Đức: Đức là thị trường lớn nhất trong khối EU, với 81,5 triệu người tiêu dùng (1996). Đây cũng là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam trong Liên Minh, chiếm tỷ trọng 22,7%-30,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta sang EU hàng năm. Đức là thị trường xuất khẩu truyền thống các mặt hàng sau đây: giày dép; hàng may mặc; cà phê;
chè, các sản phẩm bằng da, đồ gốm, sứ, cao su và các sản phẩm từ cao su; các sản
phẩm mây tre đan; các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong; rau quả chế biến; thủy
hải sản; ngũ cốc chế biến; đồ gỗ gia dụng. Đặc biệt, hai m trlại đây Đức nhu
cầu nhập khẩu rất lớn về giày dép và dụng cụ thể thao từ Việt Nam. Quả tươi qu
chế biến cũng có triển vọng tiêu thtrên thị trường này.
* Thị trường Pháp:
Pháp th trường lớn thứ ba trong khối EU, với 58 triệu người tiêu dùng
(1996) th trường xuất khẩu lớn th hai của Việt Nam trong Liên Minh. Th
trường này chiếm tỷ trọng 15,9% - 16,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
sang EU trong những năm gần đây. Người tiêu dùng Pháp rất ưa chuộng các mặt hàng:
đồ gỗ gia dụng, lụa, sợi dệt, kính và đồ dùng thủy tinh, hàng dệt may, các sản phẩm
bằng da thuộc, đá quý, nhựa và các sản phẩm nhựa, hàng mây tre đan, thảm, rau qu
và hạt, giày dép; cà phê, chè và các loại gia vị; trang thiết bị nội thất, máy móc thiết bị
điện và các bộ phận của chúng; dụng cụ giải trí và thể thao; nhiên liệu khoáng dầu; các
sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong của Việt Nam. Từ năm 1998, thtrường Pháp có
nhu cầu rất lớn về gốm sứ, dụng cụ thể thao, nhiên liệu khoáng, cà phê, sản phẩm da
thuộc, giày dép đồ gỗ gia dụng Việt Nam. Pháp là thtrường tiềm ng cho xuất
khẩu của Việt Nam trong khối EU.
* Thị trường Anh:
Anh th trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam trong Liên Minh th
trường lớn thứ 2 trong khối, với 58,5 triệu người tiêu dùng (1996). Th trường này
chiếm tỷ trọng 14,4%-14,9% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU trong thập kỷ
90. Hiện tại, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như: giày dép; hàng dệt may; đồ
gốm sứ; nhiên liệu khoáng dầu và các sản phẩm của chúng; xe có động cơ không thuộc
chè, các sản phẩm bằng da, đồ gốm, sứ, cao su và các sản phẩm từ cao su; các sản phẩm mây tre đan; các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong; rau quả chế biến; thủy hải sản; ngũ cốc chế biến; đồ gỗ gia dụng. Đặc biệt, hai năm trở lại đây Đức có nhu cầu nhập khẩu rất lớn về giày dép và dụng cụ thể thao từ Việt Nam. Quả tươi và quả chế biến cũng có triển vọng tiêu thụ trên thị trường này. * Thị trường Pháp: Pháp là thị trường lớn thứ ba trong khối EU, với 58 triệu người tiêu dùng (1996) và là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam trong Liên Minh. Thị trường này chiếm tỷ trọng 15,9% - 16,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong những năm gần đây. Người tiêu dùng Pháp rất ưa chuộng các mặt hàng: đồ gỗ gia dụng, lụa, sợi dệt, kính và đồ dùng thủy tinh, hàng dệt may, các sản phẩm bằng da thuộc, đá quý, nhựa và các sản phẩm nhựa, hàng mây tre đan, thảm, rau quả và hạt, giày dép; cà phê, chè và các loại gia vị; trang thiết bị nội thất, máy móc thiết bị điện và các bộ phận của chúng; dụng cụ giải trí và thể thao; nhiên liệu khoáng dầu; các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong của Việt Nam. Từ năm 1998, thị trường Pháp có nhu cầu rất lớn về gốm sứ, dụng cụ thể thao, nhiên liệu khoáng, cà phê, sản phẩm da thuộc, giày dép và đồ gỗ gia dụng Việt Nam. Pháp là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu của Việt Nam trong khối EU. * Thị trường Anh: Anh là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam trong Liên Minh và thị trường lớn thứ 2 trong khối, với 58,5 triệu người tiêu dùng (1996). Thị trường này chiếm tỷ trọng 14,4%-14,9% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU trong thập kỷ 90. Hiện tại, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam như: giày dép; hàng dệt may; đồ gốm sứ; nhiên liệu khoáng dầu và các sản phẩm của chúng; xe có động cơ không thuộc
loại xe điện hoặc xe lu; nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ; quả và hạt ăn
được, vỏ quả họ chanh hoặc họa; sợi dệt; các sản phẩm bằng da thuộc; thủy hải sản;
ngọc trai thiên nhiên, đá quý,v.v... đang được tiêu thụ mạnh ở Anh. Bên cạnh đó, Anh
cũng là mt thị trường đầy triển vọng cho việc tiêu th các mặt hàng tiêu dùng khác
như: đồ gốm sứ, đồ chơi, đồ gỗ gia dụng, thực phẩm, hàng điện máy, than đá, chè, đồ
uống, thực phẩm, rau quả và đồ hộp.
* Thị trường Hà Lan:
Thị trường lớn thứ 6 trong EU là Hà Lan, với 15,4 triệu người tiêu dùng (1996),
đồng thời là thtrường xuất khẩu lớn thứ của Việt Nam trong khối. Thị trường này
chiếm tỷ trọng 8,8%-14,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam sang
EU. Các mặt hàng của ta được ưa chuộng tại thtrường này phải kđến: hàng điện
máy; thực phẩm chế biến; rau, quả và hạt đã qua chế biến; sợi dệt; nhựa và các sản
phm nha; các sản phẩm gỗ nội thất; các sản phẩm bằng da thuộc; đồ chơi, dụng cụ
dùng cho giải trí và th dục thể thao; nhiên liệu khoáng dầu và các sản phẩm của
chúng; kính đồ dùng thủy tinh; giày dép; phê, chè các loại gia vị; các sản
phẩm mây tre đan. Đặc biệt mấy năm gần đây, thị trường Hà Lan có nhu cầu rất lớn về
các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong; thực phẩm chế biến; đồ gỗ gia dụng, các
sản phẩm gốm, hàng điện máy của Việt Nam.
* Thị trường Bỉ:
Bỉ là thị trường lớn thứ 8 trong khối EU, với 10,1 triệu người tiêu dùng (1996)
là thtrường xuất khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam trong Liên Minh. Thtrường này
chiếm tỷ trọng 8,6%-9,1% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU. Nói tới Bỉ là
chúng ta biết ngay đây chính là thị trường thủy hải sản lớn nhất của Việt Nam trong
khối EU. Ngoài mặt hàng này, người dân Bỉ rất thích tiêu dùng một số mặt hàng khác
loại xe điện hoặc xe lu; nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ; quả và hạt ăn được, vỏ quả họ chanh hoặc họ dưa; sợi dệt; các sản phẩm bằng da thuộc; thủy hải sản; ngọc trai thiên nhiên, đá quý,v.v... đang được tiêu thụ mạnh ở Anh. Bên cạnh đó, Anh cũng là một thị trường đầy triển vọng cho việc tiêu thụ các mặt hàng tiêu dùng khác như: đồ gốm sứ, đồ chơi, đồ gỗ gia dụng, thực phẩm, hàng điện máy, than đá, chè, đồ uống, thực phẩm, rau quả và đồ hộp. * Thị trường Hà Lan: Thị trường lớn thứ 6 trong EU là Hà Lan, với 15,4 triệu người tiêu dùng (1996), đồng thời là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư của Việt Nam trong khối. Thị trường này chiếm tỷ trọng 8,8%-14,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của Việt Nam sang EU. Các mặt hàng của ta được ưa chuộng tại thị trường này phải kể đến: hàng điện máy; thực phẩm chế biến; rau, quả và hạt đã qua chế biến; sợi dệt; nhựa và các sản phẩm nhựa; các sản phẩm gỗ nội thất; các sản phẩm bằng da thuộc; đồ chơi, dụng cụ dùng cho giải trí và thể dục thể thao; nhiên liệu khoáng dầu và các sản phẩm của chúng; kính và đồ dùng thủy tinh; giày dép; cà phê, chè và các loại gia vị; các sản phẩm mây tre đan. Đặc biệt mấy năm gần đây, thị trường Hà Lan có nhu cầu rất lớn về các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong; thực phẩm chế biến; đồ gỗ gia dụng, các sản phẩm gốm, hàng điện máy của Việt Nam. * Thị trường Bỉ: Bỉ là thị trường lớn thứ 8 trong khối EU, với 10,1 triệu người tiêu dùng (1996) và là thị trường xuất khẩu lớn thứ 5 của Việt Nam trong Liên Minh. Thị trường này chiếm tỷ trọng 8,6%-9,1% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU. Nói tới Bỉ là chúng ta biết ngay đây chính là thị trường thủy hải sản lớn nhất của Việt Nam trong khối EU. Ngoài mặt hàng này, người dân Bỉ rất thích tiêu dùng một số mặt hàng khác
của Việt Nam như: Ngc trai thiên nhiên, đá quý hoặc đá bán quý; nhiên liệu khoáng
dầu và các sản phẩm của chúng; nhựa và các sản phẩm nhựa; thực phẩm chế biến; các
sản phẩm bằng da thuộc; xe có động , không thuộc loại xe điện hoặc xe lu; các sản
phẩm mây tre đan; thảm; kính và đồ dùng thủy tinh; giày dép, đồ chơi, dụng cụ dành
cho giải trí và thể dục thể thao; động vật sống; rau và c ăn được; hàng may mặc (trừ
dệt kim); đồ gốm, sứ, gvà các sản phẩm bằng gỗ, quả và hạt ăn được; đồ gỗ gia
dụng; cao su và các sản phẩm từ cao su. Với tốc độ ng trưởng kim ngạch xuất khẩu
Việt Nam - Bỉ là 42,87%/năm, đây thực sự là thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt
Nam. Người Bỉ ngày càng có thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam.
* Thị trường Italia:
Thtrường xuất khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam trong Liên Minh Italia. Với
57,3 triệu người tiêu dùng (1996), đây là th trường lớn thứ 4 trong khối. Thị trường
này chiếm tỷ trọng 7,1%-8,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong
những m qua. thể nói đây là th trường xuất khẩu tiềm năng đối với nhiều mặt
hàng của ta như: đồ chơi, dụng cụ dùng cho giải trí và thể dục thể thao; rau và c ăn
được; cà phê, chè và các loại gia vị; thủy hải sản; cao su và các sản phẩm từ cao su; gỗ
các sản phẩm gỗ; hàng điện máy; nhiên liệu khoáng dầu và các sản phẩm của
chúng; các sản phẩm mây tre đan; giày dép; quần áo và hàng may sẵn; ngọc trai thiên
nhiên, đá quý bán đá quý; thảm; sợi dệt và động vật sống; rau, quả chế biến; đồ
gốm sứ.
Kim ngạch xuất khẩu của khá nhiều sản phẩm Việt Nam sang thị trường này
trong mấy năm gần đây tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ
so với nhu cầu nhập khẩu của Italia. Các mặt hàng xuất khẩu chính của ta sang Italia là
giày dép, hàng mây tre, đồ gỗ, hàng gốm sứ, hàng dệt may, thủy sản, cà phê, chè, cao
của Việt Nam như: Ngọc trai thiên nhiên, đá quý hoặc đá bán quý; nhiên liệu khoáng dầu và các sản phẩm của chúng; nhựa và các sản phẩm nhựa; thực phẩm chế biến; các sản phẩm bằng da thuộc; xe có động cơ, không thuộc loại xe điện hoặc xe lu; các sản phẩm mây tre đan; thảm; kính và đồ dùng thủy tinh; giày dép, đồ chơi, dụng cụ dành cho giải trí và thể dục thể thao; động vật sống; rau và củ ăn được; hàng may mặc (trừ dệt kim); đồ gốm, sứ, gỗ và các sản phẩm bằng gỗ, quả và hạt ăn được; đồ gỗ gia dụng; cao su và các sản phẩm từ cao su. Với tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Bỉ là 42,87%/năm, đây thực sự là thị trường xuất khẩu tiềm năng của Việt Nam. Người Bỉ ngày càng có thói quen tiêu dùng hàng Việt Nam. * Thị trường Italia: Thị trường xuất khẩu lớn thứ 6 của Việt Nam trong Liên Minh là Italia. Với 57,3 triệu người tiêu dùng (1996), đây là thị trường lớn thứ 4 trong khối. Thị trường này chiếm tỷ trọng 7,1%-8,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU trong những năm qua. Có thể nói đây là thị trường xuất khẩu tiềm năng đối với nhiều mặt hàng của ta như: đồ chơi, dụng cụ dùng cho giải trí và thể dục thể thao; rau và củ ăn được; cà phê, chè và các loại gia vị; thủy hải sản; cao su và các sản phẩm từ cao su; gỗ và các sản phẩm gỗ; hàng điện máy; nhiên liệu khoáng dầu và các sản phẩm của chúng; các sản phẩm mây tre đan; giày dép; quần áo và hàng may sẵn; ngọc trai thiên nhiên, đá quý và bán đá quý; thảm; sợi dệt và động vật sống; rau, quả chế biến; đồ gốm sứ. Kim ngạch xuất khẩu của khá nhiều sản phẩm Việt Nam sang thị trường này trong mấy năm gần đây tăng trưởng đáng kể, tuy nhiên mới chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với nhu cầu nhập khẩu của Italia. Các mặt hàng xuất khẩu chính của ta sang Italia là giày dép, hàng mây tre, đồ gỗ, hàng gốm sứ, hàng dệt may, thủy sản, cà phê, chè, cao
su. Đáng chú ý đa snhững mặt hàng nêu trên hiện nay hàng Trung Quốc đang
chiếm lĩnh thị trường. Vgiá cả, hầu hết các mặt hàng của ta xuất sang Italia đều vấp
phải sự cạnh tranh mạnh của hàng Trung Quốc. Cụ thể, giày của Việt Nam tuy có chất
lượng tốt hơn mẫu mã đẹp n so với hàng Trung Quốc, nhưng giá lại cao hơn
khoảng 15%. Giá các mặt hàng may mc và th công mỹ nghệ của ta cao n của
Trung Quốc khoảng 10%. Tuy nhiên, nhu cầu của thị trường này vcác mặt hàng nêu
trên rất lớn, mặt khác khách hàng Italia cũng đang muốn tìm kiếm một thị trường
mới tại Việt Nam.
Các mặt hàng th công mỹ ngh và mây tre đan ththâm nhập nhiều n
vào th trường Italia nếu các doanh nghiệp Việt Nam tích cực tham gia các hội chợ
triển lãm của Italia tổ chức hàng năm để dần tìm hiểu nhu cầu, cải tiến mẫu mã và chất
lượng hàng hoá phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Hơn nữa, thịt các loại và nhiều
mặt hàng hải sản khác của Việt Nam nếu đáp ứng được tiêu chuẩn vệ sinh của EU thì
có thể xuất khẩu được nhiều sang Italia.
* Thị trường Tây Ban Nha:
Tây Ban Nha th trường lớn thứ 5 trong khối EU, với 39,2 triệu người tiêu
dùng (1996), th trường xuất khẩu lớn thứ 7 của Việt Nam trong Liên Minh. Th
trường này chiếm tỷ trọng 5,2%-5,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
EU. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Tây Ban Nha tăng lên hàng năm (31,77%/năm).
Điều này chứng t thị trường Tây Ban Nha đã chấp nhận hàng hoá của Việt Nam.
Người tiêu dùng đã quen dần với các sản phẩm của ta. Những mặt hàng xuất khẩu chủ
yếu sang Tây Ban Nha những m qua phải kể đến: giày dép, hàng may mặc (trừ dệt
kim), hàng điện y, phê, thủy hải sản, hoá chất, cao su thiên nhiên các sản
phẩm của nó; đồ da và túi du lịch, hàng mây tre đan; giấy, đồ gốm sứ; các sản phẩm
su. Đáng chú ý là đa số những mặt hàng nêu trên hiện nay hàng Trung Quốc đang chiếm lĩnh thị trường. Về giá cả, hầu hết các mặt hàng của ta xuất sang Italia đều vấp phải sự cạnh tranh mạnh của hàng Trung Quốc. Cụ thể, giày của Việt Nam tuy có chất lượng tốt hơn và mẫu mã đẹp hơn so với hàng Trung Quốc, nhưng giá lại cao hơn khoảng 15%. Giá các mặt hàng may mặc và thủ công mỹ nghệ của ta cao hơn của Trung Quốc khoảng 10%. Tuy nhiên, nhu cầu của thị trường này về các mặt hàng nêu trên là rất lớn, mặt khác khách hàng Italia cũng đang muốn tìm kiếm một thị trường mới tại Việt Nam. Các mặt hàng thủ công mỹ nghệ và mây tre đan có thể thâm nhập nhiều hơn vào thị trường Italia nếu các doanh nghiệp Việt Nam tích cực tham gia các hội chợ triển lãm của Italia tổ chức hàng năm để dần tìm hiểu nhu cầu, cải tiến mẫu mã và chất lượng hàng hoá phù hợp với thị hiếu của khách hàng. Hơn nữa, thịt các loại và nhiều mặt hàng hải sản khác của Việt Nam nếu đáp ứng được tiêu chuẩn vệ sinh của EU thì có thể xuất khẩu được nhiều sang Italia. * Thị trường Tây Ban Nha: Tây Ban Nha là thị trường lớn thứ 5 trong khối EU, với 39,2 triệu người tiêu dùng (1996), là thị trường xuất khẩu lớn thứ 7 của Việt Nam trong Liên Minh. Thị trường này chiếm tỷ trọng 5,2%-5,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU. Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam - Tây Ban Nha tăng lên hàng năm (31,77%/năm). Điều này chứng tỏ thị trường Tây Ban Nha đã chấp nhận hàng hoá của Việt Nam. Người tiêu dùng đã quen dần với các sản phẩm của ta. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu sang Tây Ban Nha những năm qua phải kể đến: giày dép, hàng may mặc (trừ dệt kim), hàng điện máy, cà phê, thủy hải sản, hoá chất, cao su thiên nhiên và các sản phẩm của nó; đồ da và túi du lịch, hàng mây tre đan; giấy, đồ gốm sứ; các sản phẩm
sắt thép; đồ chơi, dụng cụ dùng cho giải trí và thể dục thể thao. Nhu cầu tiêu thụ những
mặt hàng nêu trên của Việt Nam đang ngày càng tăng tại Tây Ban Nha.
Ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống, chúng ta còn rất nhiều mặt hàng
khả năng thâm nhập vào Tây Ban Nha, như: động vật sống, ngũ cốc, da động vật
sống, sách, báo và tranh ảnh, thảm.
* Thị trường Thụy Điển:
Th trường lớn th10 trong EU là Thụy Điển, với 8,8 triệu người tiêu dùng
(1996), đồng thời là th trường xuất khẩu lớn thứ 8 của Việt Nam trong khối. Thị
trường này chiếm tỷ trọng 2,0%-2,6% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU. Tuy
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thụy Điển chưa lớn lắm nhưng có xu hướng
tăng đều trong mấy năm gần đây. Theo nhận định của Thương vViệt Nam tại Thụy
Điển, trong thời gian tới nhiều mặt hàng của ta có khả năng thâm nhập mạnh hơn vào
thị trường này. Ngoài ra, Thụy Điển sẽ là một thị trường tiềm năng đối với nhiều mặt
hàng khác mà Việt Nam có khả năng xuất khẩu.
Những mặt hàng của Việt Nam đã thâm nhập được vào thtrường Thụy Điển
là: giày dép, hàng may mặc (trừ dệt kim), đồ gỗ, đồ da, túi du lịch, cà phê, cao su thiên
nhiên, nhựa và các sản phẩm nhựa; hàng mây tre đan; giấy, hàng điện máy; xe có động
cơ, không thuộc loại xe điện hoặc xe lu; sản phẩm sắt và thép; ngũ cốc và rau quả chế
biến, đồ gốm, sứ.
Nhiều mặt hàng của ta khả ng xuất khẩu, nhưng chưa thâm nhập được
hoặc mới chỉ xâm nhập rất ít vào thtrường Thụy Điển, như: động vật sống, các sản
phẩm sữa, trứng chim và mật ong; đồ uống; các sản phẩm dược, lụa, chè, dứa hộp, hạt
tiêu, hạt điều, tôm đông lạnh, hàng thêu ren,v.v... Trong khi đó một số nước Châu á và
sắt thép; đồ chơi, dụng cụ dùng cho giải trí và thể dục thể thao. Nhu cầu tiêu thụ những mặt hàng nêu trên của Việt Nam đang ngày càng tăng tại Tây Ban Nha. Ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống, chúng ta còn rất nhiều mặt hàng có khả năng thâm nhập vào Tây Ban Nha, như: động vật sống, ngũ cốc, da động vật sống, sách, báo và tranh ảnh, thảm. * Thị trường Thụy Điển: Thị trường lớn thứ 10 trong EU là Thụy Điển, với 8,8 triệu người tiêu dùng (1996), đồng thời là thị trường xuất khẩu lớn thứ 8 của Việt Nam trong khối. Thị trường này chiếm tỷ trọng 2,0%-2,6% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU. Tuy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Thụy Điển chưa lớn lắm nhưng có xu hướng tăng đều trong mấy năm gần đây. Theo nhận định của Thương vụ Việt Nam tại Thụy Điển, trong thời gian tới nhiều mặt hàng của ta có khả năng thâm nhập mạnh hơn vào thị trường này. Ngoài ra, Thụy Điển sẽ là một thị trường tiềm năng đối với nhiều mặt hàng khác mà Việt Nam có khả năng xuất khẩu. Những mặt hàng của Việt Nam đã thâm nhập được vào thị trường Thụy Điển là: giày dép, hàng may mặc (trừ dệt kim), đồ gỗ, đồ da, túi du lịch, cà phê, cao su thiên nhiên, nhựa và các sản phẩm nhựa; hàng mây tre đan; giấy, hàng điện máy; xe có động cơ, không thuộc loại xe điện hoặc xe lu; sản phẩm sắt và thép; ngũ cốc và rau quả chế biến, đồ gốm, sứ. Nhiều mặt hàng của ta có khả năng xuất khẩu, nhưng chưa thâm nhập được hoặc mới chỉ xâm nhập rất ít vào thị trường Thụy Điển, như: động vật sống, các sản phẩm sữa, trứng chim và mật ong; đồ uống; các sản phẩm dược, lụa, chè, dứa hộp, hạt tiêu, hạt điều, tôm đông lạnh, hàng thêu ren,v.v... Trong khi đó một số nước Châu á và