Luận văn: Thị trường chung với các ưu đãi và rào cản hạn chế nhằm đảm bảo quyền lợi nội bộ

7,311
371
176
Hơn nữa, các công ty con của EU có mặt tại Châu á đóng một vai trò quan trọng trong
đầu tư của EU tại Việt Nam và chiếm một tỷ lệ vốn đáng kể. Vốn thiết bị của các công
ty con này đa phần là thiết bị Châu á. Chính vì vậy, công nghệ nguồn của EU đi theo
các dán đầu tư của các doanh nghiệp EU vào Việt Nam còn hạn chế. Thêm vào đó,
EU rất thế mạnh trong ngành công nghiệp chế biến nông sản và thực phẩm, thế
nhưng cho đến nay vốn đầu tư của EU vào lĩnh vực này của Việt Nam còn rất thấp mà
đây lại là lĩnh vực Việt Nam rất cần vốn đầu tư. Các nhà đầu EU chỉ tập trung chủ
yếu vao các ngành như bia, nước giải khat, mỹ phẩm…Sau khủng hoảng tài chính-tiền
tệ Châu á, lượng đầu cũng có xu hướng suy giảm. Chính vì đầu của EU vào Việt
Nam có những hạn chế như vậy, nên chưa htrợ nhiều cho xuất khẩu của Việt Nam
sang thị trường này.
2.4.3. Viện trợ phát triển chính thức của EU dành cho Việt Nam
Tổng vốn ODA của các nước thành viên Liên Minh Châu Âu và của Uỷ Ban Châu Âu
dành cho Việt Nam đã lên tới n 2,1 tỷ Euro (tương đương hơn 2 tỷ USD, trong đó
riêng năm 1999 900 triu USD). Với những nguồn vốn cam kết này, Liên Minh
Châu Âu trthành nhà tài trvốn lớn thứ ba (sau Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới),
và là đối tác chính của Việt Nam.
Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ODA của EU dành cho Việt Nam tập trung vào 7
lĩnh vực chủ yếu: (1) Phát triển nông thôn và viện trợ nhân đạo; (2) Môi trường và bảo
vệ tài nguyên thiên nhiên; (3) Hợp tác kinh tế; (4) Hỗ trợ các tổ chức phi Chính phủ;
(5) Htrợ các đối tác đầu tư của Cộng đồng Châu Âu; (6) Hợp tác khoa học và công
nghệ; và (7) Viện trợ lương thực. Nhiều chương trìnhdự án trong các lĩnh vực nói
trên đ• được thực hiện trong thời gian qua, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế,
x• hội của Việt Nam.9
Hơn nữa, các công ty con của EU có mặt tại Châu á đóng một vai trò quan trọng trong đầu tư của EU tại Việt Nam và chiếm một tỷ lệ vốn đáng kể. Vốn thiết bị của các công ty con này đa phần là thiết bị Châu á. Chính vì vậy, công nghệ nguồn của EU đi theo các dự án đầu tư của các doanh nghiệp EU vào Việt Nam còn hạn chế. Thêm vào đó, EU rất có thế mạnh trong ngành công nghiệp chế biến nông sản và thực phẩm, thế nhưng cho đến nay vốn đầu tư của EU vào lĩnh vực này của Việt Nam còn rất thấp mà đây lại là lĩnh vực Việt Nam rất cần vốn đầu tư. Các nhà đầu tư EU chỉ tập trung chủ yếu vao các ngành như bia, nước giải khat, mỹ phẩm…Sau khủng hoảng tài chính-tiền tệ Châu á, lượng đầu tư cũng có xu hướng suy giảm. Chính vì đầu tư của EU vào Việt Nam có những hạn chế như vậy, nên chưa hỗ trợ nhiều cho xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này. 2.4.3. Viện trợ phát triển chính thức của EU dành cho Việt Nam Tổng vốn ODA của các nước thành viên Liên Minh Châu Âu và của Uỷ Ban Châu Âu dành cho Việt Nam đã lên tới hơn 2,1 tỷ Euro (tương đương hơn 2 tỷ USD, trong đó riêng năm 1999 là 900 triệu USD). Với những nguồn vốn cam kết này, Liên Minh Châu Âu trở thành nhà tài trợ vốn lớn thứ ba (sau Nhật Bản và Ngân hàng Thế giới), và là đối tác chính của Việt Nam. Trong thời kỳ 1991-1995, vốn ODA của EU dành cho Việt Nam tập trung vào 7 lĩnh vực chủ yếu: (1) Phát triển nông thôn và viện trợ nhân đạo; (2) Môi trường và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên; (3) Hợp tác kinh tế; (4) Hỗ trợ các tổ chức phi Chính phủ; (5) Hỗ trợ các đối tác đầu tư của Cộng đồng Châu Âu; (6) Hợp tác khoa học và công nghệ; và (7) Viện trợ lương thực. Nhiều chương trình và dự án trong các lĩnh vực nói trên đ• được thực hiện trong thời gian qua, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế, x• hội của Việt Nam.9
Trong thời kỳ 1996-2000, Viện trợ phát triển của EU dành cho Việt Nam đã
tăng t32 triệu ECU/năm trong các năm 1994-1995 lên 52 triệu ECU/năm trong thời
kỳ 1996-2000. Sự hỗ trợ của EU đã được tập trung cho các lĩnh vực phát triển ưu tiên
của Việt Nam, đó là: (1) Phát triển nông nghiệp và nông thôn, góp phần xoá đói, giảm
nghèo; (2) Htrợ phát triển nguồn nhân lực và cải thiện dịch vụ y tế; (3) H trợ cải
cách kinh tế và hành chính, hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vc; (4) Hỗ trợ bảo vệ
môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Theo phương hướng ưu tiên nói trên, trong thời gian qua EU hỗ trợ thực hiện
các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nội dung chủ yếu của
các dán bao gồm ng cường các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm; Phát triển thủy
lợi và nâng cao trình độ canh tác; Trồng rừng và phát triển shạ tầng nông thôn
như giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch,vv... .
EU hỗ trợ trong việc cải thiện công tác quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển y
tế, đặc biệt ở vùng nông thôn. Các dán phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực du
lịch, hàng không dân dụng và đào tạo phiên dịch tiếng Anh đang được chuẩn bđể
thực hiện.
Thông qua quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nh (SMEDF), EU đã htrợ cho các
doanh nghiệp vừa và nh Việt Nam phát triển sản xuất u tiên các doanh nghiệp
thuộc các lĩnh vực: trồng trọt và chăn nuôi, chế biến thực phẩm, chế biến lâm sản, sản
xuất hàng hóa tiêu dùng và hàng thủ công, sản xuất đồ điện tử và cơ khí). Quỹ đã góp
phần đáng kể trong phát triển năng lực sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Trong thời kỳ 1996-2000, Viện trợ phát triển của EU dành cho Việt Nam đã tăng từ 32 triệu ECU/năm trong các năm 1994-1995 lên 52 triệu ECU/năm trong thời kỳ 1996-2000. Sự hỗ trợ của EU đã được tập trung cho các lĩnh vực phát triển ưu tiên của Việt Nam, đó là: (1) Phát triển nông nghiệp và nông thôn, góp phần xoá đói, giảm nghèo; (2) Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực và cải thiện dịch vụ y tế; (3) Hỗ trợ cải cách kinh tế và hành chính, hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực; (4) Hỗ trợ bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên thiên nhiên. Theo phương hướng ưu tiên nói trên, trong thời gian qua EU hỗ trợ thực hiện các dự án trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn. Nội dung chủ yếu của các dự án bao gồm tăng cường các dịch vụ khuyến nông, khuyến lâm; Phát triển thủy lợi và nâng cao trình độ canh tác; Trồng rừng và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn như giao thông nông thôn, cung cấp nước sạch,vv... . EU hỗ trợ trong việc cải thiện công tác quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển y tế, đặc biệt ở vùng nông thôn. Các dự án phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực du lịch, hàng không dân dụng và đào tạo phiên dịch tiếng Anh đang được chuẩn bị để thực hiện. Thông qua quỹ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEDF), EU đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam phát triển sản xuất (ưu tiên các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực: trồng trọt và chăn nuôi, chế biến thực phẩm, chế biến lâm sản, sản xuất hàng hóa tiêu dùng và hàng thủ công, sản xuất đồ điện tử và cơ khí). Quỹ đã góp phần đáng kể trong phát triển năng lực sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.
Sở hữu trí tuệ là lĩnh vực rất mới đối với Việt Nam. Trong lĩnh vực này EU h
trợ Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý về sở hữu trí tuệ hài hòa với tập quán
Quốc tế, tăng cường năng lực quản lý và giám sát lĩnh vực quan trọng này.
Nhìn vào sphân chia nguồn viện trợ là thấy được tính đa dạng và phong phú
của các dự án. Bốn lĩnh vực quan trọng nhất là nông nghiệp, phát triển xã hi, y tế và
giao thông thu hút hơn 50% vốn cam kết của EU, tức hơn 1 tỷ Euro tại thời điểm năm
1999. Các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 17% tổng số vốn cam kết (353 triệu
Euro) đáp ứng mong muốn của Việt Nam là đưa lĩnh vực phát triển này trở thành một
trong những lĩnh vực được ưu tiên htrợ.
Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng viện trợ phát triển chính thức của EU dành cho
Việt Nam đ• bước đầu hỗ trợ cho xuất khẩu của Việt Nam sang thtrường EU,dự
án hỗ trợ trực tiếp, có dự án hỗ trợ gián tiếp.
2.5. Đánh giá tổng quát thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU giai
đoạn từ năm 1990 đến nay
Nhìn vào thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường
EU từ năm 1990 đến nay, ta nhận thấy có một số ưu điểm và nhược điểm sau đây:
2.5.1. Ưu điểm
* Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU tăng với tốc độ bình quân khá cao
37,2%/năm thời kỳ 1990-1999, với kết quả này chứng tỏ EU là đối tác hỗ trợ rất lớn
cho những nlực của Việt Nam trong việc cải thiện thâm hụt n cân thương mại.
Xuất khẩu của Việt Nam sang EU chiếm tỷ trọng trung bình là 17,7% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1995-1999. EU thtrường xuất khẩu lớn
thứ 3 của Việt Nam sau ASEAN (22,4%) và Nhật Bản (19,5%). Nhưng chỉ tính riêng 3
năm (1997-1999), tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Sở hữu trí tuệ là lĩnh vực rất mới đối với Việt Nam. Trong lĩnh vực này EU hỗ trợ Việt Nam xây dựng một khuôn khổ pháp lý về sở hữu trí tuệ hài hòa với tập quán Quốc tế, tăng cường năng lực quản lý và giám sát lĩnh vực quan trọng này. Nhìn vào sự phân chia nguồn viện trợ là thấy được tính đa dạng và phong phú của các dự án. Bốn lĩnh vực quan trọng nhất là nông nghiệp, phát triển xã hội, y tế và giao thông thu hút hơn 50% vốn cam kết của EU, tức hơn 1 tỷ Euro tại thời điểm năm 1999. Các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 17% tổng số vốn cam kết (353 triệu Euro) đáp ứng mong muốn của Việt Nam là đưa lĩnh vực phát triển này trở thành một trong những lĩnh vực được ưu tiên hỗ trợ. Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng viện trợ phát triển chính thức của EU dành cho Việt Nam đ• bước đầu hỗ trợ cho xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, có dự án hỗ trợ trực tiếp, có dự án hỗ trợ gián tiếp. 2.5. Đánh giá tổng quát thực trạng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU giai đoạn từ năm 1990 đến nay Nhìn vào thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU từ năm 1990 đến nay, ta nhận thấy có một số ưu điểm và nhược điểm sau đây: 2.5.1. Ưu điểm * Kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU tăng với tốc độ bình quân khá cao 37,2%/năm thời kỳ 1990-1999, với kết quả này chứng tỏ EU là đối tác hỗ trợ rất lớn cho những nỗ lực của Việt Nam trong việc cải thiện thâm hụt cán cân thương mại. Xuất khẩu của Việt Nam sang EU chiếm tỷ trọng trung bình là 17,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 1995-1999. EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam sau ASEAN (22,4%) và Nhật Bản (19,5%). Nhưng chỉ tính riêng 3 năm (1997-1999), tỷ trọng của thị trường EU trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam là 20,9%, sau ASEAN (23,6%) và trên Nhật Bản (16,5%). Điều này cho thấy thị
trường EU ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt
Nam. Từ năm 1997 đến nay, trong quan hệ thương mại với EU, Việt Nam luôn có xuất
siêu.
* Việt Nam đã phát huy được lợi thế so sánh của mình trong việc tập trung xuất
khẩu một số mặt hàng có thế mạnh vào thị trường các nước EU. Việt Nam đã và đang
đặt trọng tâm tiêu th hàng công nghiệp và nông sản nhiệt đới chế biến, hàng may
mặc, hàng th công mỹ nghệ, hàng điện tử,v.v... vào th trường rộng lớn này. Đồng
thời, Việt Nam đã từng bước đầu nhm tăng nhanh chất lượng sản phẩm để tạo ra
những sản phẩm hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường EU.
* Việc khai thông thị trường EU đã đòi hỏi chúng ta phải phát triển svật
chất và năng lực của một số ngành trong nông nghiệp, trong các lĩnh vực như: chế biến
điều, rau quả, cao su, cà phê, thc phẩm,v.v... Riêng với ngành thy sản đã làm chuyển
biến đáng kể năng lực khai thác, nuôi trồng và năng lực hậu cần, dịch vụ, làm chuyển
đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế vùng biển. Đồng thời, sự phát triển về xuất khẩu đối
với một số mặt hàng nông nghiệp như phê, điều, chè; hàng công ngh phẩm n
may mặc, giày dép đã tạo cho sự chuyển đổi nhanh chóng về chất lượng sản phẩm,
mẫu mã sự đổi mới không ngừng về sản phẩm làm ra. Vai trò của ngành dệt may,
giày dép, thủy hi sản đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết công ăn việc làm
cho người lao động. Và cũng nhờ đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp mà tiến trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng nhanh, đặc biệt là sự thay đổi lớn trong cơ cấu
công nghiệp - nông nghiệp - dch vụ.
2.5.2. Nhược điểm
Nam là 20,9%, sau ASEAN (23,6%) và trên Nhật Bản (16,5%). Điều này cho thấy thị trường EU ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam. Từ năm 1997 đến nay, trong quan hệ thương mại với EU, Việt Nam luôn có xuất siêu. * Việt Nam đã phát huy được lợi thế so sánh của mình trong việc tập trung xuất khẩu một số mặt hàng có thế mạnh vào thị trường các nước EU. Việt Nam đã và đang đặt trọng tâm tiêu thụ hàng công nghiệp và nông sản nhiệt đới chế biến, hàng may mặc, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử,v.v... vào thị trường rộng lớn này. Đồng thời, Việt Nam đã từng bước đầu tư nhằm tăng nhanh chất lượng sản phẩm để tạo ra những sản phẩm hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường EU. * Việc khai thông thị trường EU đã đòi hỏi chúng ta phải phát triển cơ sở vật chất và năng lực của một số ngành trong nông nghiệp, trong các lĩnh vực như: chế biến điều, rau quả, cao su, cà phê, thực phẩm,v.v... Riêng với ngành thủy sản đã làm chuyển biến đáng kể năng lực khai thác, nuôi trồng và năng lực hậu cần, dịch vụ, làm chuyển đổi nhanh chóng cơ cấu kinh tế vùng biển. Đồng thời, sự phát triển về xuất khẩu đối với một số mặt hàng nông nghiệp như cà phê, điều, chè; hàng công nghệ phẩm như may mặc, giày dép đã tạo cho sự chuyển đổi nhanh chóng về chất lượng sản phẩm, mẫu mã và sự đổi mới không ngừng về sản phẩm làm ra. Vai trò của ngành dệt may, giày dép, thủy hải sản đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Và cũng nhờ đẩy mạnh xuất khẩu hàng công nghiệp mà tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngày càng nhanh, đặc biệt là sự thay đổi lớn trong cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. 2.5.2. Nhược điểm
* Hàng của ta xuất sang EU chất lượng chưa đạt sự đồng đều và còn nghèo v
chủng loại, thường tập trung cao độ vào mt số ít mặt hàng, 3 trong sđó (giầy dép,
dệt may, cà phê) chiếm 3/4 kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU. S tập trung cao độ
này ddẫn đến nguy cơ ri ro lớn cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam do những
thay đổi không dự tính được như chính sách thương mại của EU đột ngột thay đổi gây
bất lợi cho xuất khẩu của Việt Nam vào thtrường này và cũng thể có sự thay đổi
thái độ của người tiêu dùng EU như ty hàng hoá hay phản ứng của các nhà sản xuất
trong khối đối với việc hàng hoá nước ngoài thâm nhập thị trường này. Mặt khác, chất
lượng hàng Việt Nam không ổn định nên chưa đáp ứng được nhu cầu khắt khe của thị
trường EU. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này do công ngh chế biến lạc hậu,
nguồn nguyên liệu không bảo đảm và các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong
điều kiện thiếu thông tin thị trường và giá cả, cũng như thông tin v thị hiếu và mặt
hàng được ưa chuộng tại các thời điểm trong năm. Trong khi đó, hầu hết các công ty
nhập khẩu lớn của những thị trường n EU, Nhật Bản,v.v... đều n phòng đại
diện tại Việt Nam nên họ nắm bắt rất kịp thời tình hình nguyên liệu của ta và đòi giảm
giá khi chúng ta bước vào vụ thu hoạch.
* Kinh nghiệm trong kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn
nhiều hạn chế, không biết nắm bắt hội, kém hiểu biết luật lệ của thị trường EU,
thiếu thông tin, chưa biết tiếp cận thị trường, làm ăn tùy tiện, manh mún, việc chấp
hành chưa đúng đầy đcác điều khoản trong hợp đồng vẫn còn xảy ra. Điều này
hoàn toàn chưa phù hợp với truyền thống và tập quán kinh doanh của Châu Âu.
* Môi trường kinh doanh tại Việt Nam (cơ shạ tầng, chế,chính sách, luật
pháp, thtục xuất nhập khẩu …) vẫn chưa thực sự thu hút và hấp dẫn mạnh mẽ các
doanh nghiệp EU vào đầu và kinh doanh tại Việt Nam. Một số hạn chế trong việc
* Hàng của ta xuất sang EU chất lượng chưa đạt sự đồng đều và còn nghèo về chủng loại, thường tập trung cao độ vào một số ít mặt hàng, 3 trong số đó (giầy dép, dệt may, cà phê) chiếm 3/4 kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU. Sự tập trung cao độ này dễ dẫn đến nguy cơ rủi ro lớn cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam do những thay đổi không dự tính được như chính sách thương mại của EU đột ngột thay đổi gây bất lợi cho xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này và cũng có thể có sự thay đổi thái độ của người tiêu dùng EU như tẩy hàng hoá hay phản ứng của các nhà sản xuất trong khối đối với việc hàng hoá nước ngoài thâm nhập thị trường này. Mặt khác, chất lượng hàng Việt Nam không ổn định nên chưa đáp ứng được nhu cầu khắt khe của thị trường EU. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do công nghệ chế biến lạc hậu, nguồn nguyên liệu không bảo đảm và các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong điều kiện thiếu thông tin thị trường và giá cả, cũng như thông tin về thị hiếu và mặt hàng được ưa chuộng tại các thời điểm trong năm. Trong khi đó, hầu hết các công ty nhập khẩu lớn của những thị trường như EU, Nhật Bản,v.v... đều có văn phòng đại diện tại Việt Nam nên họ nắm bắt rất kịp thời tình hình nguyên liệu của ta và đòi giảm giá khi chúng ta bước vào vụ thu hoạch. * Kinh nghiệm trong kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế, không biết nắm bắt cơ hội, kém hiểu biết luật lệ của thị trường EU, thiếu thông tin, chưa biết tiếp cận thị trường, làm ăn tùy tiện, manh mún, việc chấp hành chưa đúng và đầy đủ các điều khoản trong hợp đồng vẫn còn xảy ra. Điều này hoàn toàn chưa phù hợp với truyền thống và tập quán kinh doanh của Châu Âu. * Môi trường kinh doanh tại Việt Nam (cơ sở hạ tầng, cơ chế,chính sách, luật pháp, thủ tục xuất nhập khẩu …) vẫn chưa thực sự thu hút và hấp dẫn mạnh mẽ các doanh nghiệp EU vào đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Một số hạn chế trong việc
nhập khẩu của EU vào Việt Nam cũng tác động tiêu cực lại: EU chưa dành nhiều
ưu đãi cho hàng xuất khẩu của ta chúng ta vẫn chưa nhập khẩu được công nghệ
nguồn từ EU để tạo tiền đề thay đổi cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu
sang thị trường này.
Qua thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, ta thấy
cần lưu ý một số điểm sau:
* Quy mô xuất khẩu của Việt Nam sang EU còn quá nhso với tiềm năng
kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu
Việt Nam-EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU là không đáng kể, chừng
0,12% và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU cũng chỉ chiếm 15,1% tổng kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguyên nhân của tình trạng này là do cho đến nay vẫn
tồn tại những trở ngại nhất định trong việc mở rộng qui xuất khẩu này, chẳng hạn
chưa có Hiệp định Thương mại Việt Nam-EU... Với con số tỷ trọng nêu trên cho thấy
hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU phụ thuộc khá lớn
vào EU. Với tình hìnhy nếu như không quan hhợp tác thiện chí và tương tr
lẫn nhau thì bất kỳ một sự thay đổi nào trong chính sách ngoại thương của EU hoặc thị
trường EU, như: Strừng phạt buôn bán, các lệnh cấm nhập khẩu một số mặt hàng t
Việt Nam vì lý do nào đó, áp đặt hạn ngạch hoặc loại bỏ mặt hàng nào đó ra khỏi danh
sách được hưởng GSP, áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu Việt
Nam,v.v... đều gây tác hại đối với nền kinh tế Việt Nam.
* Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU còn chưa hợp lý:
Việt Nam xuất sang EU nông sản, thuỷ hải sản chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô hoặc
mới qua sơ chế và một số hàng công nghiệp nhẹ, hàng gia công. Tuy kim trong quan
hthương mại với EU, xuất khẩu của Việt Nam luôn suất siêu, nhưng chúng ta cũng
nhập khẩu của EU vào Việt Nam cũng có tác động tiêu cực lại: EU chưa dành nhiều ưu đãi cho hàng xuất khẩu của ta và chúng ta vẫn chưa nhập khẩu được công nghệ nguồn từ EU để tạo tiền đề thay đổi cơ cấu và nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu sang thị trường này. Qua thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU, ta thấy cần lưu ý một số điểm sau: * Quy mô xuất khẩu của Việt Nam sang EU còn quá nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam-EU trong tổng kim ngạch nhập khẩu của EU là không đáng kể, chừng 0,12% và kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU cũng chỉ chiếm 15,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Nguyên nhân của tình trạng này là do cho đến nay vẫn tồn tại những trở ngại nhất định trong việc mở rộng qui mô xuất khẩu này, chẳng hạn chưa có Hiệp định Thương mại Việt Nam-EU... Với con số tỷ trọng nêu trên cho thấy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU phụ thuộc khá lớn vào EU. Với tình hình này nếu như không có quan hệ hợp tác thiện chí và tương trợ lẫn nhau thì bất kỳ một sự thay đổi nào trong chính sách ngoại thương của EU hoặc thị trường EU, như: Sự trừng phạt buôn bán, các lệnh cấm nhập khẩu một số mặt hàng từ Việt Nam vì lý do nào đó, áp đặt hạn ngạch hoặc loại bỏ mặt hàng nào đó ra khỏi danh sách được hưởng GSP, áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng xuất khẩu Việt Nam,v.v... đều gây tác hại đối với nền kinh tế Việt Nam. * Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU còn chưa hợp lý: Việt Nam xuất sang EU nông sản, thuỷ hải sản chủ yếu ở dạng nguyên liệu thô hoặc mới qua sơ chế và một số hàng công nghiệp nhẹ, hàng gia công. Tuy kim trong quan hệ thương mại với EU, xuất khẩu của Việt Nam luôn suất siêu, nhưng chúng ta cũng
phải tính đến khối lượng hàng hxuất khẩu là rất lớn mà hiệu quả kinh tế thu được
lại rất hạn chế, bên cạnh đó, trong đàm phán phía EU li thường đưa ra hiện tượng
xuất siêu này để đòi hỏi mở cửa n nữa cho hàng hoá của họ vào thtrường Việt
Nam. Do vậy trong tương lai, chúng ta cần phải thay đổi cấu hàng xuất khẩu, gia
tăng xuất khẩu những mặt hàng tinh chế, hàm lượng giá trị gia ng cao sang th
trường này.
* Hình thức xuất khẩu hàng hoá ca Việt Nam sang EU còn giản đơn: Chúng ta
xuất khẩu hàng hoá sang EU chyếu dưới hình thức xuất khẩu trực tiếp và qua trung
gian ch chưa gắn liền với các hình thức hợp tác kinh tế khác, đặc biệt là với đầu tư,
liên doanh, liên kết và htrợ phát triển chính thức (ODA). Chính vì vy mà các doanh
nghiệp Việt Nam chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Mặt khác, do vị trí
địa và thói quen buôn bán, Việt Nam chủ yếu tập trung vào th trường Châu á,
chiếm 60% - 70% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong đó, 40% - 50% khối lượng
hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Châu á là đi Châu Âu hoặc xuất xứ từ
Châu Âu. Việc buôn bán qua trung gian đã gây thiệt hại không nh cho các doanh
nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp EU. Xuất khẩu qua trung gian đã làm cho
nhiều mặt hàng của ta chất lượng không thua kém so với các sản phẩm cùng loi của
Trung Quốc và các nước ASEAN đôi khi giá còn rẻ hơn mà vẫn không thể thâm nhập
được vào thtrường EU. Nguyên nhân do hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp thị
của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém, thiếu chiến lược, phần nhiều tập trung
vào các mục tiêu và lợi ích trước mắt. Dẫn đến tình trạng có một số doanh nghiệp EU
chán nản, nghi ngại trong việc xây dựng và phát triển quan hệ bạn hàng với Việt Nam.
Tóm lại, khả năng mở rộng và phát triển xuất khẩu của Việt Nam sang EU là rất
lớn, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải nhanh chóng giải quyết những tồn tại và khắc phục
phải tính đến khối lượng hàng hoá xuất khẩu là rất lớn mà hiệu quả kinh tế thu được lại rất hạn chế, bên cạnh đó, trong đàm phán phía EU lại thường đưa ra hiện tượng xuất siêu này để đòi hỏi mở cửa hơn nữa cho hàng hoá của họ vào thị trường Việt Nam. Do vậy trong tương lai, chúng ta cần phải thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu, gia tăng xuất khẩu những mặt hàng tinh chế, hàm lượng giá trị gia tăng cao sang thị trường này. * Hình thức xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU còn giản đơn: Chúng ta xuất khẩu hàng hoá sang EU chủ yếu dưới hình thức xuất khẩu trực tiếp và qua trung gian chứ chưa gắn liền với các hình thức hợp tác kinh tế khác, đặc biệt là với đầu tư, liên doanh, liên kết và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Chính vì vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa có chỗ đứng vững chắc trên thị trường này. Mặt khác, do vị trí địa lý và thói quen buôn bán, Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường Châu á, chiếm 60% - 70% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Trong đó, 40% - 50% khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam với Châu á là đi Châu Âu hoặc có xuất xứ từ Châu Âu. Việc buôn bán qua trung gian đã gây thiệt hại không nhỏ cho các doanh nghiệp Việt Nam cũng như doanh nghiệp EU. Xuất khẩu qua trung gian đã làm cho nhiều mặt hàng của ta chất lượng không thua kém so với các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc và các nước ASEAN đôi khi giá còn rẻ hơn mà vẫn không thể thâm nhập được vào thị trường EU. Nguyên nhân là do hoạt động xúc tiến thương mại, tiếp thị của nhiều doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém, thiếu chiến lược, phần nhiều tập trung vào các mục tiêu và lợi ích trước mắt. Dẫn đến tình trạng có một số doanh nghiệp EU chán nản, nghi ngại trong việc xây dựng và phát triển quan hệ bạn hàng với Việt Nam. Tóm lại, khả năng mở rộng và phát triển xuất khẩu của Việt Nam sang EU là rất lớn, vấn đề đặt ra là Việt Nam phải nhanh chóng giải quyết những tồn tại và khắc phục
các mặt hạn chế để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU
phát triển tương xứng với tiềm năng kinh tế của ta và đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của
thị trường EU.
II. Triển vọng hàng hoá của Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU
1. Những nhân tố tác động tới khng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào th
trường EU
1.1. Những nhân tố chung
1.1.1. Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế
Trong xu thế tự do hoá thương mại, khi tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá
kinh tế, các nước thành viên phải mở cửa thị trường, giảm dần hàng rào thuế quan và
xoá bỏ hàng rào phi quan thuế để cho hàng hoá được tự do lưu chuyển giữa các nước,
thúc đẩy mậu dịch quốc tế phát triển mạnh.
Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế với các mặt
tích cực và tiêu cực sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự hợp tác-cạnh tranh phức tạp
giữa các đối tác. Cục diện này tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị trường xuất khẩu sang
EU nơi thuế suất thấp và đỡ bị các hàng rào phi quan thuế ngăn cản, đồng thời hàng
xuất khẩu của ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên th trường
EU, trước mắt là việc Trung Quốc vốn có sức mạnh cạnh tranh cao vừa mới ký Hiệp
định thương mại với EU và triển vọng sẽ gia nhập tổ chức thương mại thế giới vào
năm 2001, từ đó Trung Quốc sẽ tận dụng được những ưu đãi của chế toàn cầu hoá
đem lại.
Vì vy có thể nói rằng xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu
hoá kinh tế là nhân tquan trọng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt
các mặt hạn chế để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang EU phát triển tương xứng với tiềm năng kinh tế của ta và đáp ứng nhu cầu nhập khẩu của thị trường EU. II. Triển vọng hàng hoá của Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU 1. Những nhân tố tác động tới khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam vào thị trường EU 1.1. Những nhân tố chung 1.1.1. Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế Trong xu thế tự do hoá thương mại, khi tham gia vào khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, các nước thành viên phải mở cửa thị trường, giảm dần hàng rào thuế quan và xoá bỏ hàng rào phi quan thuế để cho hàng hoá được tự do lưu chuyển giữa các nước, thúc đẩy mậu dịch quốc tế phát triển mạnh. Xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế với các mặt tích cực và tiêu cực sẽ tiếp tục diễn biến thông qua sự hợp tác-cạnh tranh phức tạp giữa các đối tác. Cục diện này tạo thuận lợi cho ta mở rộng thị trường xuất khẩu sang EU nơi thuế suất thấp và đỡ bị các hàng rào phi quan thuế ngăn cản, đồng thời hàng xuất khẩu của ta sẽ phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường EU, trước mắt là việc Trung Quốc vốn có sức mạnh cạnh tranh cao vừa mới ký Hiệp định thương mại với EU và triển vọng sẽ gia nhập tổ chức thương mại thế giới vào năm 2001, từ đó Trung Quốc sẽ tận dụng được những ưu đãi của cơ chế toàn cầu hoá đem lại. Vì vậy có thể nói rằng xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế là nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá ca Việt Nam sang thị trường EU nói
riêng. Nhưng đồng thời nó cũng đem lại thách thức rất lớn cho xuất khẩu Việt Nam.
1.1.2. Sự phát triển của Diễn đàn Hợp tác á - Âu (ASEM)
Diễn đàn Hợp tác á-Âu là cơ chế đối thoại và hợp tác cấp cao giữa Châu Âu và
Châu á, với sự tham dự của những người đứng đầu các Nhà nước và Chính phủ của 10
nước Châu á là: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Philippines, Bruney,
Malaysia, Indonesia, Singapore, Việt Nam và 15 nước thành viên EU. Diễn đàn Hợp
tác á-Âu lần thứ nhất (ASEAM I) được t chức tại Bangkok vào ngày 1-2/3/1996.
Diễn đàn Hợp tác á-Âu lần thứ hai (ASEAM II) được tổ chức tại London vào ngày 3-
4/4/1998. Và Diễn đàn Hợp tác á-Âu lần thứ ba (ASEAM III) được tổ chức tại Seoul
vào ngày 20-21/10/2000.
ASEM gắn kết, phát triển mối quan hệ giữa Châu Âu và Châu á. Đó là cơ hội để hai
bên củng cố, ng cường hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế-tài chính, chính trị, n hoá-
xã hội và những vấn đề toàn cầu khác.
Trong Hội ngh ASEM II và ASEM III, các nước EU đã đưa ra cam kết về
thương mại và đầu nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam á, trong đó Việt Nam. Về
thương mại, các nước EU cam kết nâng mức hạn ngạch cho hàng xut khẩu của các
nước ASEAN vào EU giảm các loại hàng chịu giới hạn về hạn ngạch. Về đầu ,
các nước EU cam kết sẽ có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp EU đẩy
mạnh đầu trực tiếp và tăng cường viện trợ ODA cho các nước ASEAN. ASEM ra
đời đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong tiến trình hợp tác á-Âu. Nó đồng thời cũng
là một cơ hội to lớn cho hàng hoá ca Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU.
1.1.3. Phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU
Nam nói chung và thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường EU nói riêng. Nhưng đồng thời nó cũng đem lại thách thức rất lớn cho xuất khẩu Việt Nam. 1.1.2. Sự phát triển của Diễn đàn Hợp tác á - Âu (ASEM) Diễn đàn Hợp tác á-Âu là cơ chế đối thoại và hợp tác cấp cao giữa Châu Âu và Châu á, với sự tham dự của những người đứng đầu các Nhà nước và Chính phủ của 10 nước Châu á là: Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan, Philippines, Bruney, Malaysia, Indonesia, Singapore, Việt Nam và 15 nước thành viên EU. Diễn đàn Hợp tác á-Âu lần thứ nhất (ASEAM I) được tổ chức tại Bangkok vào ngày 1-2/3/1996. Diễn đàn Hợp tác á-Âu lần thứ hai (ASEAM II) được tổ chức tại London vào ngày 3- 4/4/1998. Và Diễn đàn Hợp tác á-Âu lần thứ ba (ASEAM III) được tổ chức tại Seoul vào ngày 20-21/10/2000. ASEM gắn kết, phát triển mối quan hệ giữa Châu Âu và Châu á. Đó là cơ hội để hai bên củng cố, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế-tài chính, chính trị, văn hoá- xã hội và những vấn đề toàn cầu khác. Trong Hội nghị ASEM II và ASEM III, các nước EU đã đưa ra cam kết về thương mại và đầu tư nhằm hỗ trợ các nước Đông Nam á, trong đó có Việt Nam. Về thương mại, các nước EU cam kết nâng mức hạn ngạch cho hàng xuất khẩu của các nước ASEAN vào EU và giảm các loại hàng chịu giới hạn về hạn ngạch. Về đầu tư, các nước EU cam kết sẽ có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp EU đẩy mạnh đầu tư trực tiếp và tăng cường viện trợ ODA cho các nước ASEAN. ASEM ra đời đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong tiến trình hợp tác á-Âu. Nó đồng thời cũng là một cơ hội to lớn cho hàng hoá của Việt Nam thâm nhập vào thị trường EU. 1.1.3. Phát triển quan hệ hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và EU
Năm 1995, Uỷ Ban Châu Âu đã ký một Hiệp định Hợp tác với Việt Nam nhằm
mục tiêu h trợ Việt Nam trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường
thông qua việc hình thành một “đối thoại có tổ chức” giữa hai bên. Các mục tiêu chính
là: (1) Đảm bảo phát triển và tăng trưởng thương mại và đầu ; (2) Htrợ cho phát
triển bền vững đặc biệt đối với những tầng lớp dân nghèo nhất; (3) Tăng cường hợp
tác kinh tế; (4) Hỗ trợ cho bảo vệ môi trường và quản lý bền vững những tài nguyên
thiên nhiên. Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Hợp tác Việt Nam-EU (1997-2000) đạt
được kết quả sau: EU đã trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng của Việt
Nam, bạn hàng thương mại lớn thứ hai (11% kim ngạch ngoại thương của Việt
Nam), là nhà đầu tư lớn thứ ba (4,38 tỷ USD vốn đăng ký), và cũng là nhà tài trợ ODA
cho Việt Nam lớn thứ ba (hơn 2 tỷ USD). EU tài trợ cho tất cả các lĩnh vực quan trọng
trong đời sống xã hội của Việt Nam.
Việt Nam đang trong quá trình hi nhập quốc tế và đã đạt được những kết quả nhất
định, từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Việc phát triển quan
hhợp tác giữa Việt Nam -EU sẽ tạo ra những lợi ích kinh tế mà hai bên ththu
được: với một nền sản xuất ở trình độ cao EU rất cần những thị trường giàu tiềm năng
như Việt Nam, ngược lại, Việt Nam đang tiếp tục quá trình chuyển dịch sang nền kinh
tế thị trường và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên rất cần sự hợp tác và h
trợ của EU. Với thế mạnh về vốn và công nghệ, EU có thể giúp Việt Nam khai thác có
hiệu quả lợi thế về tài nguyên và lao động. Nhu cầu của Việt Nam và EU bổ sung cho
nhau tt: những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà
EU có nhu cầu nhập khẩu lớn (da giày, dệt may, thuỷ hải sản…), ngược lại chúng ta đã
đang cần nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, công nghệ cao, nguyên liệu để sản
xuất hàng xuất khẩu,v.v... phục vụ cho quá trình CNH-HĐH EU thể đáp ng
Năm 1995, Uỷ Ban Châu Âu đã ký một Hiệp định Hợp tác với Việt Nam nhằm mục tiêu hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường thông qua việc hình thành một “đối thoại có tổ chức” giữa hai bên. Các mục tiêu chính là: (1) Đảm bảo phát triển và tăng trưởng thương mại và đầu tư; (2) Hỗ trợ cho phát triển bền vững đặc biệt đối với những tầng lớp dân cư nghèo nhất; (3) Tăng cường hợp tác kinh tế; (4) Hỗ trợ cho bảo vệ môi trường và quản lý bền vững những tài nguyên thiên nhiên. Sau 5 năm thực hiện Hiệp định Hợp tác Việt Nam-EU (1997-2000) đạt được kết quả sau: EU đã trở thành một trong những đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam, là bạn hàng thương mại lớn thứ hai (11% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam), là nhà đầu tư lớn thứ ba (4,38 tỷ USD vốn đăng ký), và cũng là nhà tài trợ ODA cho Việt Nam lớn thứ ba (hơn 2 tỷ USD). EU tài trợ cho tất cả các lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội của Việt Nam. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế và đã đạt được những kết quả nhất định, từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Việc phát triển quan hệ hợp tác giữa Việt Nam -EU sẽ tạo ra những lợi ích kinh tế mà hai bên có thể thu được: với một nền sản xuất ở trình độ cao EU rất cần những thị trường giàu tiềm năng như Việt Nam, ngược lại, Việt Nam đang tiếp tục quá trình chuyển dịch sang nền kinh tế thị trường và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên rất cần sự hợp tác và hỗ trợ của EU. Với thế mạnh về vốn và công nghệ, EU có thể giúp Việt Nam khai thác có hiệu quả lợi thế về tài nguyên và lao động. Nhu cầu của Việt Nam và EU bổ sung cho nhau tốt: những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam lại là những mặt hàng mà EU có nhu cầu nhập khẩu lớn (da giày, dệt may, thuỷ hải sản…), ngược lại chúng ta đã và đang cần nhập khẩu máy móc thiết bị tiên tiến, công nghệ cao, nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu,v.v... phục vụ cho quá trình CNH-HĐH mà EU có thể đáp ứng