Luận văn Thạc sỹ Quản trị kinh doanh: Giải pháp phát triển tiểu, thủ công nghiệp ngành chế biến nông sản thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình
9,820
280
117
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Lịch sử đã chứng minh rằng tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp là giai đoạn
đầu hình thành và phát triển của nền kinh tế trước khi tiến bước sang một nền
công
nghiệp hiện đại. Trong lịch sử phát triển,Việt Nam là một nước thuần nông và
trải
qua các giai đoạn đấu tranh giữ nước nền kinh tế nước ta trở nên lạc hậu so với
các
nước trong khu vực và thế giới.
Hiện nay, mặc dù nền kinh tế của nước ta đã có những bước tăng trưởng
mạnh mẽ nhưng mức tăng còn chậm và chưa vững chắc, chất lượng tăng trưởng
chưa cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa mạnh, sản xuất hàng hóa còn nhỏ lẻ,
việc
khai thác và phát huy mọi tiềm năng nội lực còn hạn chế. Trong đó tiểu, thủ công
nghiệp (T-TCN) đã tồn tại và phát triển như một bộ phận không thể tách rời của
nền
kinh tế nông nghiệp. Tiểu, thủ công nghiệp hỗ trợ đắc lực cho nông nghiệp trên
nhiều phương diện như cung cấp nông cụ, hàng tiêu dùng, tiêu thụ nguyên liệu từ
sản phẩm nông nghiệp, tăng thu nhập cho người nông dân. Trong quá trình phát
triển T-TCN và ngành nghề nông thôn đã góp phần cung cấp sản phẩm cho thị
trường thành thị, thị trường thế giới và góp phần thúc đẩy hình thành những làng
nghề, khu, cụm điểm T-TCN ở cả nông thôn, thành thị và nó đã được thừa nhận như
một ngành kinh tế quan trọng.
Thực tiễn Việt Nam trong thời gian qua cũng như kinh nghiệm của nhiều
nước trên thế giới cho thấy việc khôi phục và phát triển T-TCN sẽ tạo ra được
nhiều lợi ích. Thu hút được nhiều lao động, tạo ra công ăn việc làm, đặc biệt ở
các
vùng nông thôn, miền núi ven biển, tận dụng thời gian nhàn rỗi, góp phần thu hẹp
và tiến tới xóa bỏ đói nghèo, nâng cao đời sống người dân, đạt mục tiêu "xóa đói
giảm nghèo". Điều đó góp phần chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng giảm tỷ
trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu lao
động theo hướng "rời ruộng không rời quê hương" góp phần phát triển nông thôn
bền vững, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Trường Đại học Kinh tế Huế
2
Quảng Bình là tỉnh thuộc vùng Bắc Trung Bộ, là nơi hẹp nhất trong dải đất
hình chữ S của Việt Nam, là nơi giao thoa của hai nền văn hóa cổ Việt - Chămpa,
với địa hình hẹp và dốc từ Tây sang Đông, 85 % diện tích tự nhiên là đồi núi.
Quảng Bình có nhiều di tích lịch sử, văn hóa nổi tiếng của cả nước, có Động
Phong
Nha là di sản thiên nhiên thế giới, ngoài ra còn là quê hương của nhiều làng
nghề
truyền thống: Nghề đóng tàu thuyền (Lý Hòa, Bố Trạch, Bảo Ninh, thành phố Đồng
Hới); Nước mắm Hàm Hương (Làng Cảnh Dương đã từng cung tiến cho Vua Lê
Chúa Trịnh); Nghề nón ở Quảng Thuận; Nghề dệt tơ lụa Võ Xá; Rượu Võ Xá; Dệt
chiếu cói An Xá; Nghề Mộc; Nghề đúc rèn … Với những yếu tố truyền thống đó đã
tạo cho Quảng Bình những nét riêng biệt và lợi thế để phát triển T-TCN.
Quảng Trạch là một huyện n»m ë phÝa B¾c tØnh Qu¶ng B×nh, với những điều
kiện chung về lịch sử, văn hóa nên cũng đã có những nét giao thoa lẫn nhau trong
phát triển kinh tế, xã hội. Do vậy, Quảng Trạch với những lợi thế riêng của mình
đã
tạo cơ hội cho các ngành nghề T-TCN phát triển từ rất lâu và một trong những
huyện có ngành nghề T-TCN phát triển nhất của tỉnh. Tuy nhiên, trong thời gian
qua do những yếu tố thăng trầm lịch sử, xã hội, cơ chế quản lý, các ngành nghề
T-
TCN đã trải qua nhiều biến động trong đó có nhiều ngành nghề hầu như biến mất.
Song trong những năm gần đây kinh tế nông nghiệp, nông thôn Quảng Trạch đã có
sự khôi phục, phát triển T-TCN và có những tác động tích cực đến đời sống kinh
tế,
xã hội vùng nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Bên cạnh
đó, nhiều ngành T-TCN trong nông thôn mới đã được hình thành và phát triển góp
phần sử dụng các thế mạnh về nguyên liệu, nguồn nhân lực địa phương tạo ra nhiều
việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống góp phần giảm thiểu các tệ nạn xã hội
tạo
ra một bức tranh nông thôn bình yên.
Tuy đã đạt được những kết quả thành công nhưng sự phát triển T-TCN tỉnh
Quảng Bình nói chung và huyện Quảng Trạch nói riêng còn rất nhiều hạn chế, đang
gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại: hầu hết các cơ sở T-TCN được tổ chức sản xuất
trên đất ở của các hộ gia đình nên mặt bằng chật hẹp do vậy không có điều kiện
mở
rộng sản xuất. Bên cạnh đó cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu, không đảm bảo vệ
Trường Đại học Kinh tế Huế
3
sinh môi trường đã hạn chế khả năng thu hút đầu tư, mở rộng và phát triển sản
xuất.
Chất lượng sản phẩm còn hạn chế, hình thức đơn điệu, mẫu mã chưa hấp hẫn,
thiếu thị trường tiêu thụ. Ngành T-TCN phân tán không tạo ra sự gắn kết, hỗ trợ
nhau không có điều kiện chuyên môn hóa, nhất là các ngành đòi hỏi áp dụng kỹ
thuật hiện đại và có sự hợp tác trong sản xuất. Sản xuất T-TCN và ngành nghề
nông
thôn phát triển tự phát, thiếu tính quy hoạch và định hướng của các cấp quản lý
cho
từng ngành nghề vì thế dẫn đến sản xuất manh mún và hiệu quả kinh tế thấp. Thêm
vào đó các chính sách, chương trình hỗ trợ của Nhà nước và tỉnh chưa phù hợp với
tiềm năng phát triển, thậm chí chưa tạo ra môi trường kinh doanh hấp dẫn cho sản
xuất T-TCN phát triển thuận lợi và tạo ra sức cạnh tranh.
Với quan điểm đẩy mạnh phát triển T-TCN trên cơ sở khôi phục, mở rộng
ngành nghề truyền thống và phát triển thêm một số ngành nghề mới phù hợp với địa
phương đẩy nhanh tốc độ CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn. Do đó cần có định
hướng và các giải pháp kinh tế thiết thực nhằm phát triển tiểu, tiểu thủ công
nghiệp
ngành chế biến nông sản thực phẩm huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình phù hợp
với xu hướng phát triển của đất nước cũng như thế giới.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn đề tài: "Giải pháp phát
triển tiểu, thủ công nghiệp ngành chế biến nông sản thực phẩm trên địa bàn
huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình" làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu chung
Đề tài làm cơ sở hoạch định các chính sách và giải pháp phát triển T-TCN ngành
chế biến nông sản thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Trạch. Những định hướng
và giải pháp được đề xuất trong đề tài để làm cơ sở cho việc đưa ra các giải
pháp
phát triển T-TCN ngành chế biến nông sản thực phẩm huyện Quảng Trạch đến năm
2015 và những năm tiếp theo.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn về T-TCN.
Trường Đại học Kinh tế Huế
4
- Phân tích, đánh giá thực trạng một số ngành nghề của T-TCN chế biến nông
sản thực phẩm huyện Quảng Trạch, Quảng Bình.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển T-TCN chế biến nông sản
thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng sản xuất kinh doanh của các cơ sở sản xuất T-TCN ngành chế
biến nông sản thực phẩm; chủ yếu là các Tiểu ngành: chế biến bún bánh, chế biến
nước mắm, làm nón, chế biến mây tre đan và các giải pháp để phát triển T-TCN
ngành chế biến nông sản thực phẩm huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình .
3.2. Đối tượng điều tra, khảo sát của đề tài
Các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong các tiểu ngành: chế biến bún bánh, chế
biến nước mắm, làm nón, chế biến mây tre đan
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nội dung nghiên cứu của đề tài được giới hạn ở những vấn
đề chủ yếu về kinh tế, xã hội, tổ chức phát triển T-TCN ngành chế biến nông sản
thực phẩm huyện Quảng Trạch..
- Phạm vi thời gian: Các tài liệu phục vụ đánh giá thực trạng được thu thập
trong khoảng thời gian từ 2000-2007. Các cơ chế, chính sách định hướng và giải
pháp đề xuất đến năm 2015, định hướng đến 2020.
- Thời gian nghiên cứu : Các vấn đề được nghiên cứu hệ thống ở trên địa bàn
huyện Quảng Trạch trong thời kỳ đổi mới, chủ yếu từ năm 2000 đến 2008.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
4.1. Phương pháp chung
Phương pháp duy vật biện chứng được vận dụng xuyên suốt trong quá trình
nghiên cứu bởi các hiện tượng kinh tế, xã hội nói chung đều chịu sự tác động của
nhiều yếu tố, mỗi một yếu tố lại được đặt trong mối liên hệ ràng buộc với các
yếu tố
khác và có tác động qua lại lẫn nhau. Nghiên cứu ngành nghề T-TCN ngành chế
biến nông sản thực phẩm được đặt trong bối cảnh phát triển chung của ngành nghề
Trường Đại học Kinh tế Huế
5
T-TCN trên địa bàn huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Trong quá trình nghiên
cứu, các yếu tố như dân số, thu nhập của dân cư, điều kiên tự nhiên, điều kiện
kinh
tế, chính trị - xã hội… được đặt trong mối quan hệ thống nhất và đấu tranh giữa
các
mặt đối lập, được xem xét qua nhiều năm, trong một thời gian dài để cho phép
chúng ta có được cách nhìn toàn diện và mang tính khoa học nhằm đưa ra những
giải pháp cụ thể, phù hợp trong từng thời kỳ.
Phương pháp duy vật lịch sử được sử dụng để nghiên cứu trong luận văn, bởi
các hiện tượng kinh tế - xã hội bao giờ cũng tồn tại trong những điều kiện thời
gian và
địa điểm cụ thể. Việc tiếp cận, đánh giá quá trình hình thành và phát triển của
T-TCN
ngành chế biến nông sản thực phẩm cần dựa trên những tiền đề đã được hình thành
trong quá khứ, đứng trên quan điểm lịch sử để kiểm chứng và dự báo sự phát triển
của
T-TCN ngành ngành chế biến nông sản thực phẩm trong hiện tại và tương lai.
4.2. Các phương pháp cụ thể
4.2.1. Phương pháp điều tra, thu nhập tài liệu
* Tài liệu thứ cấp: Nguồn tài liệu được thu nhập từ niên giám thống kê của
tỉnh Quảng Bình, huyện Quảng Trạch, số liệu từ Phòng Công nghiệp - T-TCN của
Sở Công thương Quảng Bình, các báo cáo quy hoạch, phát triển ngành nghề nông
thôn, công nghiệp và T-TCN tỉnh Quảng Bình, tài liệu từ các nguồn sách báo, báo
điện tử, các báo cáo khoa học, công trình nghiên cứu khoa học của nhiều tác giả
liên
quan đến lĩnh vực nghiên cứu.
* Tài liệu sơ cấp: Mỗi tiểu ngành được điều tra theo phương pháp chọn mẫu
ngẫu nhiên. Những thông tin cần thu nhập từ các đơn vị được điều tra (mẫu): các
yếu tố đầu vào, kết quả và hiệu quả sản xuất, quy trình sản xuất, đặc điểm của
lực
lượng lao động, trình độ người quản lý, thị trường tiêu thụ, môi trường ảnh
hưởng
đến phát triển sản xuất kinh doanh, sản phẩm được thực hiện theo mẫu soạn sẵn,
phỏng vấn trực tiếp các chủ đơn vị.
* Phương pháp điều tra: Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn
thuần theo khoảng cách nhất định của nhóm điều tra. Sau một quá trình nghiên
cứu,
trao đổi ý kiến với Phòng Công nghiệp - T-TCN của Sở Công thương Quảng Bình,
Trường Đại học Kinh tế Huế
6
các chuyên gia có kinh nghiệm trong ngành, các đơn vị đã nhiều năm kinh nghiệm
sản xuất kinh doanh trong ngành nghề T-TCN cũng như sự quan sát chủ quan của
mình, chúng tôi quyết định tập trung điều tra, nghiên cứu bốn nghề cụ thể sau:
- Nghề chế biến bún bánh ( 29 cơ sở trong số 380 cơ sở )
- Nghề chế biến nước mắm ( 30 cơ sở trong tổng số 130 đơn vị)
- Nghề làm nón ( 40 cơ sở trong tổng số 4.550 cơ sở )
- Nghề mây tre đan ( 31 cơ sở trong số 460 cơ sở )
Đây là nghề có số lượng đơn vị chiếm tỷ trọng lớn trong các nhóm T-TCN
ngành chế biến nông sản thực phẩm trên địa bàn huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng
Bình, thu hút một số lượng lao động lớn, có tổng số vốn đầu tư và tạo ra giá trị
sản
xuất chiếm tỉ trọng cao.
4.2.2 Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu
* Phương pháp phân tổ thống kê: được sử dụng để hệ thống hóa tài liệu điều
tra theo nhiều tiêu thức khác nhau tùy thuộc vào nội dung và mục tiêu nghiên
cứu.
* Phương pháp phân tích tài liệu: Sử dụng hệ thống các phương pháp phân
tích định tính và định lượng của các hiện tượng để tìm hiểu bản chất và tính quy
luật vốn có; kết hợp nghiên cứu các hiện tượng số lớn với nghiên cứu hiên tượng
các biệt; sử dụng kết hợp phương pháp phân tích thống kê, phương pháp phân tích
kinh tế và phương pháp mô hình toán kinh tế.
* Phương pháp toán kinh tế:
Luận văn sử dụng hàm sản xuất Cobb-Douglas để đánh giá mối quan hệ giữa
các yếu tố đầu vào đối với kết quả và hiệu quả sản xuất đối với cả 4 nghề (nghề
chế
biến bún bánh, nghề chế biến nước mắm, nghề làm nón và nghề mây tre đan). Hàm
Cobb-Douglas được chọn để ước lượng hệ số hồi quy mô tả ảnh hưởng của các yếu
tố đầu vào đến kết quả sản xuất và kết quả ước lượng.
* Phương pháp định lượng bằng sử dụng thang điểm Likert 5 điểm:
- Cỡ mẫu: 130 mẫu cho các chủ cơ sở trên 4 ngành nghề gồm có chế biến
bánh, chế biến nước mắm, nghề làm nón và nghề mây tre đánh giá các yếu tố ảnh
hưởng đến ngành nghề của họ.
Trường Đại học Kinh tế Huế
7
- Sử dụng Thang điểm Likert 5 điểm
*Số liệu xử lý bằng chương trình SPSS 15.0
Theo kinh nghiệm của nhiều nghiên cứu về hiệu quả của các đơn vị sản xuất,
kinh doanh với quy mô nhỏ, để đánh giá đúng hiệu quả sản xuất, biến phụ thuộc
của
hàm sản xuất phải là giá trị gia tăng chứ không phải tổng doanh thu. Điều này
cho
phép loại bỏ được những sai sót trong phân tích do sự khác biệt về giá trị
nguyên
vật liệu tạo nên.
4.2.3. Hệ thống các chỉ tiêu sử dụng trong nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hệ thống các chỉ tiêu cơ bản sau:
- Các chỉ tiêu đánh giá nguồn lực sản xuất kinh doanh: Số lượng lao động,
giá trị tài sản cố định, vốn lưu động, mặt bằng sản xuất của các cơ sở sản xuất.
- Các chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh: Giá trị sản xuất (GO),
giá trị gia tăng (VA) .
- Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh: Giá trị sản xuất/Chi phí
trung gian (GO/IC); Giá trị gia tăng/Chi phí trung gian (VA/IC); Giá trị sản
xuất/Lao động (GO/L); Giá trị gia tăng/Lao động (VA / L ).
- Các chỉ tiêu phù hợp để phân tích việc tiêu thụ sản phẩm
5. KẾT CẤU LUẬN VĂN
Ngoài các phần mở đầu, kiến nghị và kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo
và phụ lục, nội dung luận văn gồm : Phần nội dung nghiên cứu gồm có 3 chương :
Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển tiểu, thủ công nghiệp.
Chương 2: Thực trạng phát triển tiểu, thủ công nghiệp ngành chế biến nông sản
thực phẩm huyện Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Những định hướng và giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả phát triển
tiểu, thủ công nghiệp ngành chế biến nông sản thực phẩm huyện Quảng Trạch, tỉnh
Quảng Bình.
Trường Đại học Kinh tế Huế
8
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỂN
VỀ PHÁT TRIỂN TIỂU, THỦ CÔNG NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA CÁC NGÀNH
TIỂU, THỦ CÔNG NGHIỆP
1.1.1. Khái niệm và phân loại tiểu, thủ công nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm tiểu, thủ công nghiệp
Thuật ngữ tiểu, thủ công nghiệp hay tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp
(tiếng Pháp: “Pemeclo; Petie Industries”; tiếng Anh: “Handdicraft; Small
Industry”)
xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX. Thuật ngữ trên ra đời để chỉ một nền sản xuất
công
nghiệp có quy mô nhỏ, không dùng máy móc hoặc dùng máy móc có công suất thấp
ở một số công đoạn sản xuất đã có từ trước và cũng để phân biệt với nền sản xuất
công nghiệp cơ khí hiện đại TBCN đang trên đà phát triển.
Trên thế giới người ta quan niệm thủ công nghiệp như là một thành phần,
một dạng thức, một kiểu loại tiểu công nghiệp. Quan niệm đó đến nay vẫn thống
nhất không có sự tranh luận và ngày nay ở nhiều nơi ngưòi ta không dùng thuật
ngữ
“thủ công nghiệp“ mà chỉ dùng thuật ngữ “tiểu công nghiệp“ để chỉ nền sản xuất
công nghiệp có quy mô nhỏ.
Ở Việt Nam, dưới thời Pháp thuộc, từ nền sản xuất thủ công truyền thống đã
xuất hiện các hình thức hiệp tác giản đơn, sau đó từng bước hình thành các doanh
nghiệp tư nhân, với số công nhân làm thuê nhiều nhất là 300, còn chủ yếu từ 100
công nhân trở xuống. Bởi vậy, khái niệm về tiểu công nghiệp chủ yếu để chỉ bộ
phận sản xuất công nghệ phẩm và hàng tiêu dùng trong phạm vi kinh doanh của tư
sản dân tộc Việt Nam.
Thuật ngử “tiểu công nghiệp“ và thủ công nghiệp được Đảng và Nhà nước
sử dụng trong các văn bản về phát triển kinh tế sau khi giành được chính quyền
tháng 8/1945. Đến năm 1951, chính cương của của Đảng Lao động Việt Nam đề
Trường Đại học Kinh tế Huế
9
cập đến thuật ngữ “tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp“ , nhưng các văn bản của
Đảng, Nhà nuớc thời kỳ này chỉ dùng chung một thuật ngữ là “thủ công nghiệp”.
Trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà nước từ năm 1960 đến nay, đều
dùng thuật ngữ “tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp” [18].
Công trình khoa học “ Tiểu, thủ công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1858 –
1945" của Phó giáo sư Vũ Huy Phúc đã đưa ra khái niệm T- TCN thời cận đại như
sau: “ tiểu, thủ công nghiệp thời cận đại bao gồm toàn bộ nền sản xuất các mặt
hàng
tiêu dùng phi nông nghiệp truyền thống hoặc mới du nhập do người Việt Nam tiến
hành ở nông thôn, ở các làng chuyên nghề và các đô thị, thị trấn, không loại trừ
một bộ phận sản xuất của tư sản công nghiệp nhỏ dân tộc “ [13].
Trong thời kỳ đổi mới đã có nhiều tác giả nghiên cứu về ngành T-TCN, với
nhiều cách tiếp cận khác nhau đã đưa ra những quan niệm về ngành T-TCN. Tiến
sỹ, Nguyễn Ty trong luận án Phó tiến sỹ kinh tế đã quan niệm: ” Thủ công nghiệp
ở
nông thôn hay còn gọi là công nghiệp nông thôn ở trình độ thấp là một bộ phận
của
hệ thống công nghiệp mà trong đó quá trình lao động chủ yếu dựa vào lao động
chân tay sử dụng các công cụ sản xuất giản đơn để chế biến nguyên liệu ra sản
phẩm ” và “ tiểu công nghiệp hay còn gọi là công nghiệp có quy mô nhỏ, sử dụng
công cụ lao động nữa cơ khí hoặc các máy móc nhỏ hiện đại để chế biến nguyên
liệu ra các sản phẩm cho xã hội” Tác giả kết luận “ Thủ công nghiệp, tiểu thủ
công
nghiệp nông thôn cũng là một bộ phận của công nghiệp, tồn tại khách quan trong
các phương thức sản xuất của xã hội. [31].
Từ những quan niệm trên, chúng ta có thể tiếp cận với khái niệm về T-TCN
từ những góc độ khác nhau và có thể rút ra một số điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất, các quan niệm trên về T-TCN đứng riêng rẻ không có giá trị phổ
biến cho các nước trên thế giới, nhưng có giá trị bổ sung cho nhau và là một
trong
những cơ sở để các nước thể chế hóa thành luật, hoạch định các chính sách riêng
cho khu vực này và giúp cho sự quản lý, điều hành các chương trình của Chính phủ
về phát triển T-TCN. Nội dung các định nghĩa có sự thay đổi theo thời gian, tùy
thuộc vào điều kiện phát triển của mỗi nước.
Trường Đại học Kinh tế Huế
10
Thứ hai, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp là một bộ phận của hệ thống
công nghiệp. Trong quá trình sản xuất, lao động thủ công nghiệp chủ yếu là lao
động thủ công với các công cụ sản xuất thô sơ; còn lao động tiểu công nghiệp thì
chủ yếu là lao động sử dụng máy móc với các công cụ lao động bán cơ khí và cơ
khí ở trình độ công nghệ khác nhau và với quy mô nhỏ.
Thứ ba, có thể lấy số lượng công nhân và mức vốn cố định làm tiêu chí để
xác định các cơ sở sản xuất T-TCN. Các nước trên thế giới và các tổ chức nghiên
cứu về tiểu công nghiệp khi xác định doanh nghiệp công nghiệp quy mô nhỏ đều
lấy số lao động và vốn sản xuất của các cơ sở T-TCN làm tiêu chí xác định.
Ở nước ta hiện nay, quy mô của các cơ sở sản xuất T-TCN không vượt quá
giới hạn của tiêu chí xác định các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nông thôn. Từ
những vấn đề nêu trên, cùng với sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật và
xu
hướng phát triển của ngành T-TCN nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay của đất nước, chúng ta
có
thể quan niệm: Tiểu, thủ công nghiệp là những hoạt động sản xuất công nghiệp quy
mô nhỏ trên địa bàn nông thôn, trong quá trình sản xuất, kinh doanh sử dụng công
cụ lao động thủ công, công cụ bán cơ khí và trong một chừng mực nhất định sử
dụng công cụ cơ khí và máy móc hiện đại cùng các nguồn lực ở nông thôn để sản
xuất ra nhiều loại sản phẩm nhằm thoả mãn các nhu cầu khác nhau của xã hội hoặc
để khôi phục giá trị sử dụng của sản phẩm được tiêu dùng trong quá trình sản
xuất
và trong sinh hoạt.
Như vậy T-TCN nông thôn là ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất
- một bộ phận cấu thành nền sản xuất vật chất của xã hội, tồn tại khách quan
trong
các phương thức sản xuất của xã hội và nằm trong hệ thống công nghiệp nông thôn,
là một nền công nghiệp có quy mô nhỏ, kỹ thuật và công nghệ sản xuất có sự kết
hợp đa dạng giữa lao động thủ công, lao động cơ khí, phương tiện và máy móc hiện
đại. Trong quá trình hoạt động, các nguồn lực ở nông thôn như: lao động, vốn,
tài
nguyên… được sử dụng để sản xuất ra nhiều loại hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu
dùng của xã hội và sản xuất của nhiều ngành kinh tế khác nhau. Các chủ thể tham
Trường Đại học Kinh tế Huế