Luận văn thạc sỹ kinh tế: Năng lực tài chính của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam giai đoạn hội nhập WTO thực trạng và giải pháp
1,674
887
116
85
hiệu vốn chưa có tiền lệ tại Việt Nam. Giải pháp hiệu quả hơn cả là BIDV có thể
thuê một tổ chức quốc tế đánh giá lại tài sản, tuy nhiên đây cũng là thách thức
lớn
do chi phí thuê tư vấn nước ngoài có thể lên tới vài trăm ngàn đến triệu USD. Do
đó, ngân hàng cần cân nhắc để đưa ra phương án hiệu quả nhất.
3.2.2. Giải pháp nâng cao chất lượng tài sản
Nâng cao chất lượng tài sản là một trong những mục tiêu hàng đầu của BIDV
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, nếu các biện pháp thực hiện không triệt để
hoặc chỉ duy trì trong ngắn hạn thì nguy cơ tăng nợ xấu mới trong khi nợ xấu cũ
chưa xử lý được hết là khó tránh khỏi. Do vậy, các giải pháp cần được đưa ra và
triển khai đồng bộ, cụ thể:
Triệt để xử lý nợ xấu hiện tại:
BIDV cần có các chính sách xử lý các khoản nợ xấu tích luỹ một cách triệt
để thông qua các biện pháp sau:
+ Tận thu nợ xấu: có nhiều biện pháp để có thể tận thu các khoản nợ xấu,
tuy nhiên, tuỳ từng khoản vay, từng khách hàng và từng bối cảnh cụ thể mà ngân
hàng quyết định lựa chọn phương án nào để đạt hiệu quả cao nhất. Cụ thể:
Tích cực đôn đốc, theo sát khách hàng để thu hồi nợ: khi khoản nợ bị
phân loại nợ xấu, ngân hàng cần giám sát chặt chẽ tình hình hoạt động
cũng như các nguồn thu của khách hàng để đôn đốc khách hàng trả nợ
Cơ cấu lại nợ đối với những khách hàng có khả năng phát triển, có
khả năng trả nợ và có thiện chí trả nợ: Để thực hiện có hiệu quả,
ngân hàng cần có
Xử lý tài sản bảo đảm, đòi nợ bên bảo lãnh
Đối với những khách hàng không có khả năng phát triển, không có thiện chí
trả nợ,… ngân hàng cần chủ động xử lý các tài sản đảm bảo nợ vay, kể cả tài sản
là
bất động sản bao gồm đất đai, tài sản gắn liền với đất thuộc quyền định đoạt của
ngân hàng theo các hình thức sau: Tự bán công khai trên thị trường; Bán qua
Trung
tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản; Bán cho Công ty mua bán nợ của Nhà nước. Tuy
nhiên, biện pháp này thường mất thời gian dài do thủ tục xử lý tài sản phức tạp.
86
Bán các khoản nợ
Biện pháp này thường được các ngân hàng sử dụng khi không muốn mất thời
gian đòi nợ. Hiện BIDV đã thoả thuận hợp tác mua bán nợ với Công ty mua bán nợ
và tài sản tồn đọng của doanh nghiệp. Năm 2007, BIDV đã thu nợ xấu từ bán nợ nội
bảng là 35 tỷ đồng. Biện pháp này nếu tiếp tục triển khai được sẽ là một nguồn
thu
tốt cho ngân hàng.
Khởi kiện khách hàng ra toà để thu hồi nợ
Biện pháp kiện khách hàng ra toà để đòi nợ được ngân hàng lựa chọn khi các
biện pháp trên không khả thi. Ngân hàng có thể nhờ toà án can thiệp buộc khách
hàng trả nợ, chuyển giao tài sản đảm bảo tiền vay hoặc nếu khách hàng là doanh
nghiệp không trả được nợ ngân hàng với tư cách là chủ nợ chính có thể làm đơn
xin
toà mở thủ tục tuyên bố phá sản theo luật phá sản. Theo quy định của luật này,
kể từ
ngày Toà quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản, các khoản nợ chưa tới
hạn được coi là tới hạn, các chủ nợ không được tính lãi đối với thời gian chưa
tới
hạn. Việc ngừng tính lãi (dù nợ chưa trả) là không có lợi cho ngân hàng. Do vậy,
phá sản là biện pháp cuối cùng để ngân hàng lựa chọn để thu hồi nợ.
Trên thực tế, việc phải sử dụng đến giải pháp này thường không đem lại hiệu
quả cao cho việc đòi nợ của ngân hàng vì thủ tục rắc rối, khách hàng thường là
không còn khả năng trả nợ, tài sản đảm bảo có tranh chấp về pháp lý hoặc không
đủ
giá trị bù đắp cho khoản vay.
Miễn, giảm một phần lãi để tận thu nợ gốc
Đối với các khách hàng khó khăn do nguyên nhân khách quan (thiên tai, địch
họa), ngân hàng có thể áp dụng chính sách miễn giảm lãi để khuyến khích khách
hàng nỗ lực thu xếp trả nợ gốc.
Sự trợ giúp của Chính phủ
Nhiều trường hợp Ngân hàng phối hợp chặt chẽ với cơ quan chủ quản của
doanh nghiệp để tận thu hồi nợ. Chính phủ dùng vốn ngân sách hỗ trợ ngân hàng để
xử lý nợ không còn khả năng thu hồi. Tổng số nợ được chính phủ xử lý từ năm
87
2003-2005 là 500 tỷ đồng. Tuy nhiên, biện pháp này có hạn chế là không thể áp
dụng thường xuyên vì vốn ngân sách có hạn.
+ Dùng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu ra ngoại bảng
Ngân hàng có thể sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu ra ngoại bảng,
tuy nhiên nghĩa vụ trả nợ của khách hàng đối với ngân hàng không thay đổi. Đồng
thời sử dụng dự phòng để bù đắp cho các khoản bán nợ với giá bán thấp hơn dư nợ
gốc. Do tính chủ động cao nên biện pháp này thường được các ngân hàng vận dụng
tối đa nhằm xử lý nợ xấu nhanh chóng. Tuy nhiên thực chất của biện pháp này là
dùng nội lực của ngân hàng để khắc phục gánh nặng nợ xấu nên việc sử dụng quá
nhiều giải pháp này làm giảm thu nhập của ngân hàng. Do vậy, với những khoản nợ
mà ngân hàng xác định hoàn toàn không có cơ hội thu hồi lại được thì mới nên áp
dụng phương pháp này.
Ngăn ngừa nợ xấu mới phát sinh:
Bên cạnh việc xử lý nợ xấu tồn đọng thì việc kiểm soát chất lượng các khoản
vay hiện tại, ngăn ngừa nợ xấu phát sinh cũng quan trọng không kém trong việc
đảm bảo chất lượng tài sản bền vững của ngân hàng. Đây không chỉ là những biện
pháp trước mắt mà cần là giải pháp mang tính lâu dài của cả hệ thống và có sự
chỉ
đạo sát sao của Ban lãnh đạo.
Nợ xấu của BIDV có thể phát sinh do những nhân tố sau: (i) do bản chất của
tập trung cho vay truyền thống (cho vay lĩnh vực đầu tư xây dựng) của BIDV có
thời
hạn cho vay dài, điều này gây khó khăn cho việc quản lý trạng thái rủi ro tín
dụng, (ii)
quy trình tín dụng vẫn để các chi nhánh có thẩm quyền phê duyệt tín dụng tương
đối
cao, chưa tập trung hết tại hội sở chính dẫn đến việc quản lý các khoản vay khó
khăn,
nợ xấu có nguy cơ phát sinh nhiều tại các chi nhánh, (iii) các ngân hàng có nguy
cơ
gặp rủi ro thua lỗ khi các doanh nghiệp quốc doanh trải qua quá trình cổ phần
hoá:
các uỷ ban cổ phần hoá doanh nghiệp quốc doanh thường yêu cầu xoá nợ tại các
ngân
hàng (tuy cho tới nay, BIDV đã thành công trong việc giữ những khoản này nhưng
nguy cơ phát sinh là có thể xảy ra).
88
Vì vậy, BIDV cần có những chính sách cụ thể, đồng bộ trong công tác quản lý
tín dụng, cụ thể:
Ngân hàng cần duy trì cơ cấu tài sản hợp lý thông qua việc kiểm soát chặt
chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng. Ngân hàng nên tránh việc chạy theo lợi nhuận
dẫn
đến tăng trưởng cho vay nóng, vừa làm cơ cấu tài sản kém thanh khoản vừa dẫn đến
nguy cơ nợ xấu phát sinh do không kiểm soát được toàn bộ chất lượng các khoản
vay mới. Thay vào đó, ngân hàng có thể thực hiện các hoạt động đầu tư góp vốn
liên
doanh, đầu tư vào các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và nhiều tiềm năng phát
triển (đặc
biệt là các doanh nghiệp nhà nước khi phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng,
các
doanh nghiệp chuẩn bị niêm yết/đăng ký giao dịch); tham gia góp vốn thành lập
công ty
cổ phần đầu tư vào các lĩnh vực có tiềm năng phát triển và hiệu quả sinh lời cao
như bất
động sản, tài nguyên và khoáng sản,… Các hoạt động đầu tư này sẽ góp phần nâng
cao
hiệu quả sử dụng vốn của ngân hàng, điều chỉnh đa dạng cơ cấu tài sản có, lành
mạnh hoá
bảng tổng kết tài sản. Ngoài ra, cần tiếp tục giảm tỷ trọng cho vay trong lĩnh
xây
dựng, giảm tỷ lệ cho vay trung và dài hạn, danh mục cho vay nên hướng về các
khoản cho vay thương mại.
Mặt khác, quy trình tín dụng cũng cần triển khai và giám sát triển khai chặt
chẽ. Với mô hình mới hiện nay, BIDV nên dần tập trung thẩm quyền cho vay đối
với doanh nghiệp tại Hội sở chính, Giám đốc các chi nhánh chỉ được phán quyết
cho vay đối với cá nhân với giá trị không quá lớn. Bên cạnh đó, việc đánh giá
thẩm
định khoản vay cũng cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt như: thực hiện phân
loại khách hàng hiện có ngay khi khách hàng bắt đầu có quan hệ để có những chính
sách định hướng quan hệ tín dụng phù hợp với từng nhóm từng đối tượng khách
hàng; phân tích đánh giá thực trạng tín dụng thương mại, định kỳ rà soát phân
loại
tín dụng để kịp thời có biện pháp xử lý, không cho vay đối với các khách hàng có
lịch sử tín dụng xấu. Bên cạnh đó, ngân hàng cần thực hiện quản lý danh mục đầu
tư và danh mục nợ xấu để có biện pháp xử lý kịp thời, kiểm soát, hạn chế nợ xấu
mới phát sinh tại từng chi nhánh.
89
Ngoài ra, BIDV cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
hiện nay để kết quả phân loại nợ phản ánh một cách chính xác chất lượng tín dụng
của BIDV. Việc trích lập dự phòng rủi ro cũng phải được nghiên cứu để đưa vào áp
dụng theo phương pháp chiết khấu dòng tiền phù hợp với thông lệ quốc tế. Để tiếp
tục kiểm soát chặt chẽ hoạt động tín dụng, việc giao kế hoạch kinh doanh sẽ dựa
trên chi tiết từng danh mục cho vay ngay từ đầu năm. Như vậy, hoạt động quản lý
tín dụng của BIDV phải được thực hiện chi tiết đến từng ngành nghề kinh doanh,
từng vùng, từng loại hình sản phẩm.
Riêng đối với dư nợ tín dụng chỉ định theo kế hoạch nhà nước, BIDV có thể
đề nghị Nhà nước hỗ trợ nguồn vốn tương ứng 100% dư nợ trên và BIDV sẽ chuyển
giao toàn bộ dư nợ này sang DATC để xử lý.
Bên cạnh đó, tuy BIDV đã có Hội đồng quản lý Tài sản Nợ - Tài sản Có
(ALCO) nhưng hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Trong thời gian tới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cũng như hiệu quả hoạt động của ALCO và Hội đồng tín dụng là giải
pháp quan trọng cần thực hiện để nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và chất
lượng tài sản nói riêng của BIDV.
Như vậy, với các giải pháp đồng bộ và sự định hướng, giám sát chặt chẽ của
Ban lãnh đạo thì chất lượng tài sản của ngân hàng sẽ được cải thiện, giúp ngân
hàng
có sự phát triển an toàn, bền vững trong quá trình hội nhập.
3.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng quản lý
Khả năng quản lý là một trong những điểm yếu chính của các ngân hàng Việt
Nam nói chung, của BIDV nói riêng so với các ngân hàng trong khu vực và trên thế
giới. Lợi ích học hỏi kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng nước ngoài khi Việt
Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới là điều không thể phủ nhận. Tuy nhiên,
việc
học hỏi kinh nghiệm đó như thế nào, áp dụng những điều đó vào thực tế ngân hàng
sao cho hợp lý và hiệu quả mới là một bài toán khó. Vì vậy, cần có những giải
pháp
mang tính chất dài hạn cho vấn đề này.
Đầu tiên và trước hết, BIDV cần nâng cao năng lực của Ban lãnh đạo, đặc
biệt là năng lực quản lý các nguồn lực tài chính. Đây là khó khăn chung của các
90
lãnh đạo của các ngân hàng Việt Nam hiện nay, đặc biệt là với BIDV khi ngân hàng
chuyển đổi sang mô hình ngân hàng cổ phần và sau này là tập đoàn tài chính ngân
hàng. Để đáp ứng được yêu cầu của mô hình mới và đòi hỏi của hội nhập, Ban lãnh
đạo cần nhanh nhạy hơn trước những biến động của nền kinh tế trong nước cũng
như thế giới, chuyên nghiệp hơn trong công tác quản trị điều hành, học hỏi những
kinh nghiệm quản lý của các ngân hàng nước ngoài. Hiện nay BIDV đã rất chú
trọng vấn đề này và cũng tham gia nhiều khoá đào tạo trong và ngoài nước cho Ban
lãnh đạo, tuy nhiên, việc đầu tư thời gian của Ban lãnh đạo vào các khoá học này
là
chưa đủ. Trong thời gian tới, khi BIDV cổ phần hoá và có nhà đầu tư chiến lược
nước ngoài thì cần tranh thủ sự giúp đỡ hỗ trợ về kinh nghiệm quản lý từ phía
họ.
Mặt khác, với nguồn hỗ trợ của WB qua dự án hỗ trợ kỹ thuật (TA), BIDV cần tiếp
tục khai thác để đào tạo Ban lãnh đạo cấp cao, đáp ứng được những đòi hỏi khắt
khe
của thị trường trong giai đoạn hội nhập.
Tuy nhiên, để làm được điều đó thì Ban lãnh đạo cần thay đổi từ chính tư duy
lãnh đạo. Ban lãnh đạo cần là những người đi đầu nhận thức được sự cần thiết của
việc phải chuyển đổi cũng như tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực tài
chính
của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Thứ hai, BIDV cần nâng cao hiệu quả quản lý vốn bằng cơ chế quản lý thống
nhất tại hội sở chính thông qua việc tiếp tục hoàn thiện và vận hành thông suốt
mô
hình mới chuyển đổi. Tuy mô hình mới hiện nay của BIDV đã theo thông lệ quốc tế
là hướng về khách hàng và theo sản phẩm, tập trung thẩm quyền về hội sở chính,
đảm bảo tách bạch chức năng của Hội đồng quản trị và Ban điều hành nhưng việc
triển khai mô hình một cách thông suốt là không đơn giản. Ngoài ra, cần phải có
chiến lược cụ thể cho từng khách hàng, từng sản phẩm để việc huy động và sử dụng
vốn mới đạt kết quả cao nhất. Hơn nữa, BIDV cần có các thành viên độc lập trong
Ban lãnh đạo (không phải do Nhà nước đề cử) để đảm bảo các quyết định không bị
ảnh hưởng quá nhiều từ phía Chính phủ. Ngân hàng cũng cần chuẩn hoá các quy
trình và thủ tục quản lý theo hướng đồng bộ, hiện đại và tự động hóa. Cần đầu tư
phát huy vai trò của các đơn vị quan trọng như quản lý rủi ro, đặc biệt là rủi
ro tác
91
nghiệp và rủi ro thị trường, và hội đồng ALCO đang còn rất sơ khai, để đảm bảo
công tác quản lý rủi ro và quản lý thanh khoản của ngân hàng đạt hiệu quả cao.
Về quản lý thông tin, ngân hàng cần phát huy những ưu điểm đã có và tiếp
tục hoàn thiện để giúp quản lý các thông tin tài chính một cách chính xác và
hiệu
quả. Cụ thể, ngoài các báo cáo tài chính theo cả hai chuẩn mực kế toán Việt Nam
và
quốc tế, ngân hàng cần có các báo cáo phân tích rủi ro thị trường và thanh khoản
thường xuyên. BIDV cần tiếp tục thực hiện các khuyến nghị mà tổ chức định hạng
tín nhiệm Moody’s đã đưa ra nhằm nâng cao năng lực tài chính của ngân hàng. Mặt
khác, việc hoàn thiện và đi vào vận hành hệ thống quản lý thông tin (MIS) cũng
là
đòi hỏi cấp thiết của một ngân hàng hiện đại để đảm bảo tính cập nhất, chính xác
và
thống nhất thông tin trong toàn hệ thống.
3.2.4. Giải pháp nâng cao khả năng sinh lời
Khả năng sinh lời của ngân hàng hiện nay là khá tốt. Tuy nhiên, ngân hàng
cần tiếp tục thực hiện nhiều biện pháp nhằm duy trì và nâng cao khả năng sinh
lời
trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để nâng cao khả năng sinh lời cho
ngân hàng, một mặt, BIDV cần tăng cường doanh thu, mặt khác cần quản lý chi phí
hợp lý và hạn chế các khoản làm suy giảm lợi nhuận (như nợ xấu). Cụ thể:
+ Tăng doanh thu: Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt,
số lượng ngân hàng cổ phần và ngân hàng nước ngoài ngày càng tăng thì việc duy
trì và tăng doanh thu là một thử thách không nhỏ. Do đó, BIDV cần xây dựng một
chính sách khách hàng chi tiết cho từng loại hình khách hàng, từng sản phẩm để
từ
đó có những cơ chế đối với các khách hàng phù hợp. Với mô hình mới, các chi
nhánh và bộ phận quan hệ khách hàng tại hội sở chính cần được nâng cao hơn nữa
kỹ năng về quan hệ và quản lý khách hàng nhằm giữ và mở rộng cả về số lượng
khách hàng và doanh số. Bên cạnh đó, BIDV cần mở rộng danh mục sản phẩm, đặc
biệt là các sản phẩm kết hợp, hỗ trợ (như vấn tin qua điện thoại, internet
banking,
home banking, …) để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng khi sử dụng dịch
vụ của BIDV. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng cũng là một yếu tố cạnh
tranh quan trọng để thu hút khách hàng.
92
Như vậy, trong giai đoạn tới, BIDV cần tập trung phát triển một hệ thống
dịch vụ ngân hàng đa dạng và toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của
Việt
Nam bằng việc tiếp tục cải tiến chất lượng và hiệu quả của dịch vụ ngân hàng
truyền thống, bắt kịp hệ thống ngân hàng hiện đại và cung cấp các dịch vụ tài
chính
có sử dụng công nghệ cao, có thể cung cấp các dịch vụ gia tăng cho khách hàng.
+ Quản lý chi phí: Chi phí gồm hai loại chính là chi trực tiếp cho hoạt động
kinh doanh như chi trả lãi tiền gửi, lãi tiền vay, các khoản phí nghiệp vụ,… và
chi
cho hoạt động quản lý như chi về lương cho nhân viên, chi về tài sản, trang
thiết bị,
các khoản thuế và lệ phí,...
Về chi phí trực tiếp cho hoạt động kinh doanh: Ngân hàng cần tăng huy
động từ các nguồn tiền nhàn rỗi của doanh nghiệp - nguồn vốn có chi phí
thấp và duy trì khoản huy động vốn từ dân cư - là nguồn vốn ổn định.
Theo đó, ngân hàng phải đưa ra hình thức huy động hấp dẫn và chính sách
về lãi suất huy động phù hợp trong từng thời kỳ. Ngoài ra, BIDV cần đẩy
mạnh phát triển các sản phẩm dịch vụ (hiện nay doanh thu từ mảng này
mới chỉ chiếm 20% tổng thu nhập hoạt động kinh doanh). Đây là mảng
hoạt động có chi phí thấp, ít rủi ro, mang lại nguồn thu ổn định cho ngân
hàng. Theo đó, ngân hàng cần hoàn thiện các sản phẩm hiện có và phát
triển sản phẩm dịch vụ mới, nâng cao chất lượng dịch vụ tài trợ thương
mại, chuyển tiền,… cùng với chiến lược marketing hiệu quả nhằm duy trì
khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng mới.
Về chi phí hoạt động: Trong các năm qua, BIDV quản lý chi phí khá tốt
với chỉ tiêu hiệu quả (chi phí hoạt đông/tổng thu nhập hoạt động luôn ở
mức hợp lý). Tuy nhiên, trong thời gian tới, việc hiện đại hoá ngân hàng
cùng với việc mở rộng mạng lưới, đẩy mạnh các hoạt động marketing để
nâng cao khả năng cạnh tranh sẽ khiến cho chi phí của ngân hàng tăng
đáng kể. Do đó, ngân hàng cần tiếp tục duy trì việc kiểm soát chi phí, hạn
chế các chi phí lãng phí nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
93
+ Hạn chế nợ xấu: Các giải pháp nâng cao chất lượng tài sản sẽ giúp ngân
hàng hạn chế nợ xấu, nhờ đó giảm áp lực đối với các khoản dự phòng và tăng khả
năng sinh lời cho ngân hàng.
3.2.5. Giải pháp nâng cao khả năng thanh khoản
Đảm bảo khả năng thanh khoản phát triển bền vững trong bối cảnh thị trường
ngày càng có nhiều biến động là một thách thức không nhỏ đối với các ngân hàng.
Việc các ngân hàng Việt Nam, đặc biệt là các NHTM cổ phần rơi vào tình trạng
khủng hoảng thanh khoản trong 6 tháng đầu năm 2008, cùng với việc một loạt các
Định chế tài chính khổng lồ tại Mỹ và trên thế giới bị xụp đổ hoặc mua lại do
mất
khả năng thanh khoản từ hậu quả của việc cho vay dưới chuẩn như Lehman
Brothers, Merrill Lynch, Wachovia, Fortis,… là một bài học kinh nghiệm xương
máu cho các ngân hàng trong việc đảm bảo khả năng thanh khoản bền vững. Mặt
khác, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì sự ảnh
hưởng của biến động kinh tế thế giới tới nền kinh tế trong nước sẽ càng lớn, do
vậy
rủi ro sẽ càng gia tăng.
BIDV cũng không nằm ngoài xu thế đó. Khả năng thanh khoản của BIDV
hiện nay là khá tốt do BIDV có lợi thế về thương hiệu, quy mô, mạng lưới. Tuy
nhiên, lợi thế sẽ không là mãi mãi và BIDV cần nỗ lực để giữ vững thị phần trong
bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Cụ thể:
- Kiểm soát chặt chẽ tốc độ tăng trưởng tín dụng, gắn việc tăng trưởng tín
dụng với huy động vốn
Việc kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng luôn được BIDV chú trọng hàng
đầu và thực hiện khá tốt trong một vài năm trở lại đây. Cụ thể, BIDV thực hiện
kiểm soát giới hạn tín dụng từng quý, đảm bảo kiểm soát tăng trưởng tín dụng
toàn
hệ thống năm 2008 ở mức dưới 30%. Chi nhánh nào có tỉ lệ mức sử dụng vốn/huy
động vốn >=100% được phép chủ động tăng trưởng tín dụng tương ứng với tăng
trưởng nguồn vốn huy động trong từng quý, chi nhánh nào có mức sử dụng vốn/huy
động vốn <100% được tính tăng trưởng tín dụng tương ứng với nguồn vốn huy
động trong từng quý nhân với hệ số sử dụng vốn/huy động vốn bình quân năm 2007
94
của chi nhánh. BIDV cần tiếp tục triển khai đồng bộ chính sách này nhằm đảm bảo
hạn chế rủi ro thanh khoản.
- Cơ cấu đầu tư hợp lý, dàn trải, tránh tập trung đầu tư vào các ngành rủi
ro cao, quay vòng vốn lâu như bất động sản
Mục tiêu hàng đầu của hoạt động đầu tư của BIDV là đa dạng hóa danh mục
tài sản có, dàn trải rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh, từ đó góp phần nâng
cao
tính thanh khoản một cách bền vững, lâu dài. Năm 2007, hoạt động đầu tư của
BIDV đã đi đúng định hướng, tập trung vào những lĩnh vực, ngành nghề có tiềm
năng và hiệu quả cao như năng lượng, tài nguyên, khoáng sản, cơ sở hạ tầng, tài
chính ngân hàng, viễn thông, hàng không, giáo dục y tế…Tổng trị giá danh mục đầu
tư tăng 153% so với năm 2006. Bên cạnh qui mô đầu tư, hiệu quả đầu tư cũng có
kết quả tăng trưởng khá. Tổng thu nhập từ hoạt động đầu tư trong năm 2007 tăng
61% so với năm 2006. Trong năm 2008 cũng như các năm tiếp theo, hoạt động đầu
tư cần tiếp tục được coi là trọng tâm trong hoạt động của BIDV nhằm tăng cường
khả năng thanh khoản, giảm thiểu rủi ro tín dụng.
- Đẩy mạnh huy động tiền gửi là nguồn vốn cốt lõi, đảm bảo khả năng
thanh khoản bền vững của ngân hàng.
Thị phần huy động hiện nay của BIDV là khá cao so với các NHTM trong
nước, tuy nhiên BIDV cần tiếp tục đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch
vụ nhằm giữ vững và thu hút nhiều hơn nữa nguồn tiền gửi từ dân cư. Mặt khác, để
nâng cao khả năng thanh khoản trung và dài hạn, trong thời gian tới BIDV cần tập
trung điều chỉnh kỹ thuật nhằm tăng cơ cấu nguồn vốn trung, dài hạn bằng các
biện
pháp như triển khai phát hành trái phiếu dài hạn tăng vốn cấp 2, trái phiếu tăng
vốn
bằng VND, giấy tờ có giá dài hạn USD, huy động tiết kiệm dự thưởng; nâng cao
quảng bá các sản phẩm huy động vốn trung, dài hạn tới khách hàng.
BIDV cũng cần nhanh nhạy hơn trong việc tiếp cận với các khách hàng lớn
như các dự án, các tổng công ty, các doanh nghiệp có nguồn vốn lớn để huy động
vốn trung, dài hạn; tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư từ các dự án khác để huy động
vốn trung dài hạn.