Luận văn thạc sỹ kinh tế: Năng lực tài chính của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam giai đoạn hội nhập WTO thực trạng và giải pháp

1,559
887
116
5
CHƢƠNG I
NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm năng lực tài chính của ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế
nói chung đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Tuy vậy, việc đưa ra
một định nghĩa chính xác ngân hàng là lại là điều không đơn giản. Thông thường,
ngân hàng thể được định nghĩa thông qua các dịch vụ mà chúng thực hiện trong
nền kinh tế. Trên wikipedia, ngân hàng được hiểu là tổ chức tín dụng thực hiện các
hoạt động tín dụng như nhận tiền gửi, cho vay đầu tài chính, các hoạt động
thanh toán, phát hành các loại kỳ phiếu, hối phiếu, v.v. một số hoạt động khác.
Một số ngân hàng còn có chức năng phát hành tiền.
Tại điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng nêu rõ:
Ngân hàng loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động
ngân hàng các hoạt động kinh doanh khác liên quan. Theo tính chất mục
tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát triển, ngân
hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác các loại hình ngân
hàng khác. [18, tr. 5].
Theo đó, NHTM được nhà kinh tế học Peter S.Rose định nghĩa là: “loại hình
tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán nhằm thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế [35, tr. 7].
Sự đa dạng trong các dịch vụ chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng
thường được ví von là các “Bách hóa tài chính” (financial department stores).
Như vậy, nhìn chung, có thể hiểu NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt với sản phẩm kinh doanh đặc thù là tiền tệ. Ngân hàng vừa người huy động
vốn, vừa cho vay với khách hàng; xuất phát từ vị trí trung gian đó, sứ mệnh của
NHTM là “kết nối các nhu cầu tiền khác nhau trong nền kinh tế”. Ngân hàng khác
với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác chỗ các tổ chức tín dụng phi ngân
5 CHƢƠNG I NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI 1.1. Khái niệm năng lực tài chính của ngân hàng thƣơng mại 1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Tuy vậy, việc đưa ra một định nghĩa chính xác ngân hàng là gì lại là điều không đơn giản. Thông thường, ngân hàng có thể được định nghĩa thông qua các dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Trên wikipedia, ngân hàng được hiểu là tổ chức tín dụng thực hiện các hoạt động tín dụng như nhận tiền gửi, cho vay và đầu tư tài chính, các hoạt động thanh toán, phát hành các loại kỳ phiếu, hối phiếu, v.v. và một số hoạt động khác. Một số ngân hàng còn có chức năng phát hành tiền. Tại điều 20, Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam cũng nêu rõ: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm NHTM, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác xã và các loại hình ngân hàng khác. [18, tr. 5]. Theo đó, NHTM được nhà kinh tế học Peter S.Rose định nghĩa là: “loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán nhằm thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế” [35, tr. 7]. Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc chúng thường được ví von là các “Bách hóa tài chính” (financial department stores). Như vậy, nhìn chung, có thể hiểu NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với sản phẩm kinh doanh đặc thù là tiền tệ. Ngân hàng vừa là người huy động vốn, vừa cho vay với khách hàng; xuất phát từ vị trí trung gian đó, sứ mệnh của NHTM là “kết nối các nhu cầu tiền khác nhau trong nền kinh tế”. Ngân hàng khác với các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác ở chỗ các tổ chức tín dụng phi ngân
6
hàng không được phép thực hiện nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch vụ
thanh toán.
Tuy nhiên, hiện nay không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi
chức năng của các đối thủ cạnh tranh của ngân hàng cũng không ngừng thay
đổi. Thực tế rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh
chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm
hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân
hàng cũng cạnh tranh với các đối thủ (các tổ chức i chính phi ngân hàng) bằng
cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi
giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu vào quỹ tương hỗ và thực
hiện nhiều dịch vụ mới khác. Nền kinh tế càng phát triển thì vai trò làm trung gian
tài chính của ngân hàng ngày càng phát huy, thể hiện ở sự mở rộng ngày càng nhiều
các chức năng, dịch vụ cung cấp.
Sơ đồ 1.1: Những dịch vụ cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay
(Nguồn: Commercial Bank Management (Peter S.Rose) 2001)
1.1.2. Khái niệm năng lực tài chính của ngân hàng thương mại
Năng lực tài chính không phải một khái niệm mới, song từ trước đến nay
khái niệm này chưa được nghiên cứu và định nghĩa một cách đầy đủ.
Ngân hàng hiện đại
Ủy thác
Lập kế hoạch
đầu tư
Tiết kiệm
Quản lý tiền mặt
Ngân hàng đầu tư và
bảo hiểm
Môi giới
Bảo hiểm
6 hàng không được phép thực hiện nhận tiền gửi không kỳ hạn và không làm dịch vụ thanh toán. Tuy nhiên, hiện nay không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh của ngân hàng cũng không ngừng thay đổi. Thực tế là rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng cạnh tranh với các đối thủ (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Nền kinh tế càng phát triển thì vai trò làm trung gian tài chính của ngân hàng ngày càng phát huy, thể hiện ở sự mở rộng ngày càng nhiều các chức năng, dịch vụ cung cấp. Sơ đồ 1.1: Những dịch vụ cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay (Nguồn: Commercial Bank Management (Peter S.Rose) – 2001) 1.1.2. Khái niệm năng lực tài chính của ngân hàng thương mại Năng lực tài chính không phải là một khái niệm mới, song từ trước đến nay khái niệm này chưa được nghiên cứu và định nghĩa một cách đầy đủ. Ngân hàng hiện đại Ủy thác Tín dụng Lập kế hoạch đầu tư Thanh toán Tiết kiệm Quản lý tiền mặt Ngân hàng đầu tư và bảo hiểm Môi giới Bảo hiểm
7
“Năng lực” theo Từ điển tiếng Việt là khả năng đủ để làm một công việc nào
đó hay “Năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn để thực hiện một
hoạt động nào đó.
“Tài chính” là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội,
phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế này phát sinh trong phân phối các
nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng
các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội.
Như vậy, năng lực tài chính thể hiểu là nguồn lực tài chính, khả năng
sử dụng các nguồn lực đó giúp tổ chức theo đuổi được mục tiêu thực hiện các
nghĩa vụ.
Cũng đã một số bài viết đưa ra các định nghĩa khác nhau về năng lực tài
chính của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, người viết cùng quan điểm với ThS.
Trần Đại Bằng trong bài viết “Hiểu đúng về năng lực tài chính của ngân hàng
thương mại” được đăng trên website http://www.icb.com.vn. Cụ thể, “Năng lực tài
chính của NHTM” phải hiểu khác với “Năng lực tài chính của một doanh nghiệp”.
Bởi vì năng lực tài chính của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của bản thân
doanh nghiệp, khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả
năng thanh toán thể hiện quy vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời,
đủ để đảm bảo duy trì hoạt động kinh doanh hiệu quả. Còn năng lực tài chính
của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá
trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự có, chất lượng
tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời khả năng đảm bảo an toàn
trong hoạt động kinh doanh.
Năng lực tài chính của một NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng, là năng
lực cốt lõi của một ngân hàng. Một NHTM có năng lực tài chính tốt phải là NHTM
luôn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển một cách ổn định, bền vững
trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thế giới; có khả
năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế; NHTM
luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân hàng phù hợp
7 “Năng lực” theo Từ điển tiếng Việt là khả năng đủ để làm một công việc nào đó hay “Năng lực” là những điều kiện được tạo ra hoặc vốn có để thực hiện một hoạt động nào đó. “Tài chính” là sự vận động của vốn tiền tệ diễn ra ở mọi chủ thể trong xã hội, nó phản ánh tổng hợp các mối quan hệ kinh tế này phát sinh trong phân phối các nguồn tài chính thông qua việc tạo lập hoặc sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong xã hội. Như vậy, năng lực tài chính có thể hiểu là nguồn lực tài chính, là khả năng sử dụng các nguồn lực đó giúp tổ chức theo đuổi được mục tiêu và thực hiện các nghĩa vụ. Cũng đã có một số bài viết đưa ra các định nghĩa khác nhau về năng lực tài chính của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, người viết cùng quan điểm với ThS. Trần Đại Bằng trong bài viết “Hiểu đúng về năng lực tài chính của ngân hàng thương mại” được đăng trên website http://www.icb.com.vn. Cụ thể, “Năng lực tài chính của NHTM” phải hiểu khác với “Năng lực tài chính của một doanh nghiệp”. Bởi vì năng lực tài chính của một doanh nghiệp là nguồn lực tài chính của bản thân doanh nghiệp, là khả năng tạo tiền, tổ chức lưu chuyển tiền hợp lý, đảm bảo khả năng thanh toán thể hiện ở quy mô vốn, chất lượng tài sản và khả năng sinh lời,… đủ để đảm bảo và duy trì hoạt động kinh doanh hiệu quả. Còn năng lực tài chính của một NHTM là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mô vốn tự có, chất lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh. Năng lực tài chính của một NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng, là năng lực cốt lõi của một ngân hàng. Một NHTM có năng lực tài chính tốt phải là NHTM luôn duy trì được hoạt động bình thường và phát triển một cách ổn định, bền vững trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở trong nước và trên thế giới; có khả năng cung cấp tín dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế; NHTM luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân hàng phù hợp
8
với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. NHTM còn phải bảo
đảm được sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không xảy ra những
đổ vỡ hay phá sản.
Năng lực tài chính của một NHTM càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro
trong hoạt động ngân hàng càng thấp năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị
trường càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng được
nâng cao hoàn thiện đó điều kiện không thể thiếu được của bất cứ một
NHTM nào.
1.2. Phân tích năng lực tài chính của ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Cơ sở phân tích năng lực tài chính của ngân hàng thương mại
Phân tích năng lực tài chính quá trình thu thập xử lý các dữ liệu và sự
kiện tài chính thông qua các kỹ thuật công cụ thích hợp để tạo ra thông tin tài
chính có giá trị nhằm rút ra các kết luận hoặc ra các quyết định tài chính.
Quá trình này có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục
tiêu của nhà phân tích. Thông thường quá trình này bao gồm bốn khâu căn bản: (1)
Thu thập dữ liệu, (2) Phân tích và xử lý dữ liệu thu thập được, (3) Tạo ra thông tin
tài chính, và (4) Kết luận hoặc ra quyết định tài chính.
Phân tích năng lực tài chính được sử dụng ncông cụ khảo sát bản
trong lựa chọn quyết định đầu tư. Nó còn được sử dụng như là công cụ dự đoán các
điều kiện và kết quả tài chính trong tương lai. Phân tích năng lực tài chính sẽ tạo ra
các chứng cứ có tính hệ thống và khoa học đối với các nhà quản trị.
Năng lực tài chính được đánh giá dựa trên các yếu tố định lượng và các yếu
tố định tính.
Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy
mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời,
Cơ sở chính để đánh giá các yếu tố định lượng các báo cáo tài chính. Các
báo cáo tài chính bao gồm Bảng cân đối kế toán, Báo cáo thu nhập, Báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và ngoài ra còn có Thuyết minh báo cáo tài chính.
8 với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới. NHTM còn phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của mình một cách an toàn, không xảy ra những đổ vỡ hay phá sản. Năng lực tài chính của một NHTM càng được đảm bảo thì mức độ rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của NHTM trên thị trường càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của NHTM phải không ngừng được nâng cao và hoàn thiện và đó là điều kiện không thể thiếu được của bất cứ một NHTM nào. 1.2. Phân tích năng lực tài chính của ngân hàng thƣơng mại 1.2.1. Cơ sở phân tích năng lực tài chính của ngân hàng thương mại Phân tích năng lực tài chính là quá trình thu thập và xử lý các dữ liệu và sự kiện tài chính thông qua các kỹ thuật và công cụ thích hợp để tạo ra thông tin tài chính có giá trị nhằm rút ra các kết luận hoặc ra các quyết định tài chính. Quá trình này có thể thực hiện theo nhiều cách khác nhau tùy thuộc vào mục tiêu của nhà phân tích. Thông thường quá trình này bao gồm bốn khâu căn bản: (1) Thu thập dữ liệu, (2) Phân tích và xử lý dữ liệu thu thập được, (3) Tạo ra thông tin tài chính, và (4) Kết luận hoặc ra quyết định tài chính. Phân tích năng lực tài chính được sử dụng như là công cụ khảo sát cơ bản trong lựa chọn quyết định đầu tư. Nó còn được sử dụng như là công cụ dự đoán các điều kiện và kết quả tài chính trong tương lai. Phân tích năng lực tài chính sẽ tạo ra các chứng cứ có tính hệ thống và khoa học đối với các nhà quản trị. Năng lực tài chính được đánh giá dựa trên các yếu tố định lượng và các yếu tố định tính.  Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao gồm: quy mô vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời,… Cơ sở chính để đánh giá các yếu tố định lượng là các báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính bao gồm Bảng cân đối kế toán, Báo cáo thu nhập, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và ngoài ra còn có Thuyết minh báo cáo tài chính.
9
- Khi phân tích các báo cáo tài chính ngân hàng, có thể kết hợp phân tích dọc
và phân tích ngang.
+ Phân tích ngang là việc tiến hành so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu
của báo cáo tài chính.
+ Phân tích dọc việc xem xét mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trên báo cáo
tài chính để có những đánh giá thích hợp. Ví dụ : so sánh bằng chỉ số giữa cho vay
và huy động; lợi nhuận sau thuế với vốn chủ sở hữu v.v.
- Tuỳ thuộc vào mục đích của người phân tích, có thể sử dụng các cách thức so
sánh sau :
+ So sánh số liệu thực tế đạt được với số liệu kế hoạch để xem xét, đánh giá
việc thực hiện các mục tiêu đặt ra đối với từng chỉ tiêu kinh tế.
+ So sánh số liệu thực tế kỳ này với số liệu thực tế kỳ trước hoặc hàng loạt
kỳ trước để xem xét, xác định tốc độ và xu hướng phát triển của các chỉ tiêu kinh tế.
+ So sánh số liệu của ngân hàng phân tích với các ngân hàng cùng loại hoặc
so với số liệu trung bình của ngành mà ngân hàng hoạt động để xác định sức mạnh
của ngân hàng so với các ngân hàng khác.
Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn
lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ
công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…
Các thông tin liên quan tới các yếu tố định tính thường khó thu thập khó
đánh giá hơn các yếu tố định lượng do đây yếu tố chịu tác động bởi nhân tố chủ
quan. Tuy nhiên, thể đánh giá thông qua việc so sánh với các ngân hàng khác,
với các tiêu chuẩn, tập quán quốc tế. Đồng thời các đánh giá về các yếu tố định
lượng cũng phản ánh một phần chất lượng của các yếu tố định tính. Ví dụ như tỷ lệ
nợ xấu cao phản ánh khả năng quản về chất lượng tài sản của ngân hàng có
vấn đề.
Cơ sở để thu thập các thông tin định tính là từ báo cáo thường niên, các báo
cáo với các nhà đầu tư, với cơ quan chủ quản, đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm và các thông tin khác của ngân hàng.
9 - Khi phân tích các báo cáo tài chính ngân hàng, có thể kết hợp phân tích dọc và phân tích ngang. + Phân tích ngang là việc tiến hành so sánh về lượng trên cùng một chỉ tiêu của báo cáo tài chính. + Phân tích dọc là việc xem xét mối quan hệ giữa các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính để có những đánh giá thích hợp. Ví dụ : so sánh bằng chỉ số giữa cho vay và huy động; lợi nhuận sau thuế với vốn chủ sở hữu v.v. - Tuỳ thuộc vào mục đích của người phân tích, có thể sử dụng các cách thức so sánh sau : + So sánh số liệu thực tế đạt được với số liệu kế hoạch để xem xét, đánh giá việc thực hiện các mục tiêu đặt ra đối với từng chỉ tiêu kinh tế. + So sánh số liệu thực tế kỳ này với số liệu thực tế kỳ trước hoặc hàng loạt kỳ trước để xem xét, xác định tốc độ và xu hướng phát triển của các chỉ tiêu kinh tế. + So sánh số liệu của ngân hàng phân tích với các ngân hàng cùng loại hoặc so với số liệu trung bình của ngành mà ngân hàng hoạt động để xác định sức mạnh của ngân hàng so với các ngân hàng khác.  Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý, trình độ công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực… Các thông tin liên quan tới các yếu tố định tính thường khó thu thập và khó đánh giá hơn các yếu tố định lượng do đây là yếu tố chịu tác động bởi nhân tố chủ quan. Tuy nhiên, có thể đánh giá thông qua việc so sánh với các ngân hàng khác, với các tiêu chuẩn, tập quán quốc tế. Đồng thời các đánh giá về các yếu tố định lượng cũng phản ánh một phần chất lượng của các yếu tố định tính. Ví dụ như tỷ lệ nợ xấu cao phản ánh khả năng quản lý về chất lượng tài sản của ngân hàng có vấn đề. Cơ sở để thu thập các thông tin định tính là từ báo cáo thường niên, các báo cáo với các nhà đầu tư, với cơ quan chủ quản, đánh giá của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm và các thông tin khác của ngân hàng.
10
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích năng lực tài chính của ngân hàng
thương mại – Mô hình CAMELS
Hiện nay nhiều cách tiếp cận, đánh giá khác nhau về năng lực tài chính
của một ngân hàng, tuỳ theo mục đích, sở dữ liệu thu thập được. Tuy nhiên, hệ
thống đánh giá định chế tài chính thống nhất (thường được gọi tắt hình
CAMELS) được coi phương pháp đánh giá khá toàn diện vnăng lực tài chính
của một ngân hàng và được áp dụng hoặc sử dụng làm cơ sở căn cứ đánh giá rất phổ
biến trên thế giới.
1.2.2.1. Giới thiệu chung về mô hình CAMELS
Thường được biết đến với cái tên CAMEL, hthống đánh giá định chế tài
chính thống nhất (The Uniform Financial Institutions Rating System - UFIRS) được
Hội đồng kiểm tra định chế tài chính liên bang (FFIEC) Hoa Kỳ thông qua vào
ngày 13/11/1979. CAMEL là năm chữ cái viết tắt của năm yếu tố mà hệ thống này
đánh giá, đó là An toàn vốn (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản (Asset Quality),
Khả năng quản (Management Quality), Khả năng sinh lời (Earnings) Khả
năng thanh khoản (Liquidity). Sau đó, UFIRS ngày càng chứng tỏ là công cụ giám
sát nội bộ hữu hiệu trong việc đánh giá năng lực tài chính của các định chế tài chính
trên cùng một cơ sở đánh giá thống nhất.
Sau đó, hệ thống này đã tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi, điều chỉnh cho
phù hợp với những biến động của ngành ngân hàng cũng như những sửa đổi trong
các điều luật của các tổ chức giám sát liên bang. Trên sở đó, ngày 20/12/1996,
Hệ thống đánh giá định chế tài chính thống nhất bản chỉnh sửa đã chính thức được
thông qua và hiệu lực từ ngày 1/1/1997. Theo đó, hệ thống đánh giá được bổ
sung thêm yếu tố thứ sáu Nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sentitivity to market
risks) mang tên đầy đủ hình CAMELS như hiện nay. Từ đó đến nay, hệ
thống này vẫn được sử dụng rộng rãi trong việc đánh giá, xem xét các ngân hàng
thương mại không chỉ ở Hoa Kỳ mà trên toàn thế giới.
1.2.2.2. Nội dung các chỉ tiêu đánh giá trong mô hình CAMELS
10 1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu phân tích năng lực tài chính của ngân hàng thương mại – Mô hình CAMELS Hiện nay có nhiều cách tiếp cận, đánh giá khác nhau về năng lực tài chính của một ngân hàng, tuỳ theo mục đích, cơ sở dữ liệu thu thập được. Tuy nhiên, hệ thống đánh giá định chế tài chính thống nhất (thường được gọi tắt là mô hình CAMELS) được coi là phương pháp đánh giá khá toàn diện về năng lực tài chính của một ngân hàng và được áp dụng hoặc sử dụng làm cơ sở căn cứ đánh giá rất phổ biến trên thế giới. 1.2.2.1. Giới thiệu chung về mô hình CAMELS Thường được biết đến với cái tên CAMEL, hệ thống đánh giá định chế tài chính thống nhất (The Uniform Financial Institutions Rating System - UFIRS) được Hội đồng kiểm tra định chế tài chính liên bang (FFIEC) – Hoa Kỳ thông qua vào ngày 13/11/1979. CAMEL là năm chữ cái viết tắt của năm yếu tố mà hệ thống này đánh giá, đó là An toàn vốn (Capital Adequacy), Chất lượng tài sản (Asset Quality), Khả năng quản lý (Management Quality), Khả năng sinh lời (Earnings) và Khả năng thanh khoản (Liquidity). Sau đó, UFIRS ngày càng chứng tỏ là công cụ giám sát nội bộ hữu hiệu trong việc đánh giá năng lực tài chính của các định chế tài chính trên cùng một cơ sở đánh giá thống nhất. Sau đó, hệ thống này đã tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với những biến động của ngành ngân hàng cũng như những sửa đổi trong các điều luật của các tổ chức giám sát liên bang. Trên cơ sở đó, ngày 20/12/1996, Hệ thống đánh giá định chế tài chính thống nhất bản chỉnh sửa đã chính thức được thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/1997. Theo đó, hệ thống đánh giá được bổ sung thêm yếu tố thứ sáu là Nhạy cảm với rủi ro thị trường (Sentitivity to market risks) và mang tên đầy đủ mô hình CAMELS như hiện nay. Từ đó đến nay, hệ thống này vẫn được sử dụng rộng rãi trong việc đánh giá, xem xét các ngân hàng thương mại không chỉ ở Hoa Kỳ mà trên toàn thế giới. 1.2.2.2. Nội dung các chỉ tiêu đánh giá trong mô hình CAMELS
11
Theo hình CAMELS, mỗi ngân hàng sẽ được đánh giá một mức xếp
hạng tổng hợp dựa trên việc đánh giá cẩn trọng tình hình hoạt động, quản lý, tài
chính và tuân thủ của ngân hàng. Trong đó, sáu yếu tố chính được sử dụng để đánh
giá tình hình tài chính của ngân hàng an toàn vốn, chất lượng tài sản, khả năng
quản lý, khả năng sinh lời, khả năng thanh khoản và nhạy cảm với rủi ro thị trường.
a. An toàn vốn (Capital Adequacy)
Các ngân hàng cần duy trì mức vốn tương xứng với mức độ rủi ro của ngân
hàng đó cũng như khả năng quản để xác định, đo lường, theo dõi kiểm soát
các rủi ro đó. Tác động của rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và các rủi ro khác đối
với ngân hàng sẽ được xem xét khi đánh giá mức độ an toàn của vốn. Các loại rủi ro
và mức độ rủi ro hiện tại trong các hoạt động của ngân hàng sẽ quyết định mức độ
cần thiết phải duy trì vốn (trên mức yêu cầu pháp lệnh tối thiểu) để thể đảm bảo
bù đắp được những hậu quả tiềm tàng mà các rủi ro đó có thể mang lại.
Các yếu tố đánh giá chính
- Mức độ và chất lượng của vốn, điều kiện tài chính chung của ngân hàng
- Năng lực của ban lãnh đạo trong việc xử lý các yêu cầu mới về tăng vốn;
- Bản chất, xu hướng và giá trị các tài sản có vấn đề, và sự phù hợp trong
việc trích dự phòng rủi ro và các quỹ dự trữ khác;
- Cấu phần của bảng cân đối kế toán bao gồm cả bản chất và giá trị của tài
sản hình, các yếu tố rủi ro thị trường, rủi ro danh mục các rủi ro
khác gắn với các hoạt động phi truyền thống của ngân hàng;
- Rủi ro các hoạt động ngoại bảng;
- Chất lượng và thế mạnh của thu nhập và tính phù hợp trong chia cổ tức;
- Triển vọng và kế hoạch tăng trưởng và kinh nghiệm quản lý tăng trưởng
- Khả năng thâm nhập thị trường vốn các nguồn vốn khác bao gồm cả
việc cấp vốn bởi công ty mẹ.
Tùy theo đặc thù của từng thị trường, từng loại hình ĐCTC mà việc lựa chọn
các yếu tố đánh giá cũng như tiêu chuẩn đánh giá sẽ khác nhau. Về cơ bản, việc
đáng giá có thể phân loại các ngân hàng vào các mức Xếp hạng khác nhau, cụ thể:
Hạng 1: phản ánh ngân hàng mạnh về vốn so với mức rủi ro của ngân hàng;
11 Theo mô hình CAMELS, mỗi ngân hàng sẽ được đánh giá một mức xếp hạng tổng hợp dựa trên việc đánh giá cẩn trọng tình hình hoạt động, quản lý, tài chính và tuân thủ của ngân hàng. Trong đó, sáu yếu tố chính được sử dụng để đánh giá tình hình tài chính của ngân hàng là an toàn vốn, chất lượng tài sản, khả năng quản lý, khả năng sinh lời, khả năng thanh khoản và nhạy cảm với rủi ro thị trường. a. An toàn vốn (Capital Adequacy) Các ngân hàng cần duy trì mức vốn tương xứng với mức độ rủi ro của ngân hàng đó cũng như khả năng quản lý để xác định, đo lường, theo dõi và kiểm soát các rủi ro đó. Tác động của rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và các rủi ro khác đối với ngân hàng sẽ được xem xét khi đánh giá mức độ an toàn của vốn. Các loại rủi ro và mức độ rủi ro hiện tại trong các hoạt động của ngân hàng sẽ quyết định mức độ cần thiết phải duy trì vốn (trên mức yêu cầu pháp lệnh tối thiểu) để có thể đảm bảo bù đắp được những hậu quả tiềm tàng mà các rủi ro đó có thể mang lại. Các yếu tố đánh giá chính - Mức độ và chất lượng của vốn, điều kiện tài chính chung của ngân hàng - Năng lực của ban lãnh đạo trong việc xử lý các yêu cầu mới về tăng vốn; - Bản chất, xu hướng và giá trị các tài sản có vấn đề, và sự phù hợp trong việc trích dự phòng rủi ro và các quỹ dự trữ khác; - Cấu phần của bảng cân đối kế toán bao gồm cả bản chất và giá trị của tài sản vô hình, các yếu tố rủi ro thị trường, rủi ro danh mục và các rủi ro khác gắn với các hoạt động phi truyền thống của ngân hàng; - Rủi ro các hoạt động ngoại bảng; - Chất lượng và thế mạnh của thu nhập và tính phù hợp trong chia cổ tức; - Triển vọng và kế hoạch tăng trưởng và kinh nghiệm quản lý tăng trưởng - Khả năng thâm nhập thị trường vốn và các nguồn vốn khác bao gồm cả việc cấp vốn bởi công ty mẹ. Tùy theo đặc thù của từng thị trường, từng loại hình ĐCTC mà việc lựa chọn các yếu tố đánh giá cũng như tiêu chuẩn đánh giá sẽ khác nhau. Về cơ bản, việc đáng giá có thể phân loại các ngân hàng vào các mức Xếp hạng khác nhau, cụ thể: Hạng 1: phản ánh ngân hàng mạnh về vốn so với mức rủi ro của ngân hàng;
12
Hạng 2: Phản ánh vốn của ngân hàng ở mức độ thoả đáng tuy nhiên mức này
chưa thể hỗ trợ hoàn toàn cho rủi ro của ngân hàng và ngân hàng vẫn cần phải có s
cải thiện về vốn dù rằng hiện tại vốn đã đạt mức tối thiểu theo thông lệ;
Hạng 3: phản ánh mức vốn chưa thoả đáng không thể hỗ trợ đầy đủ cho
rủi ro của ngân hàng. Ngân hàng vẫn cần phải sự cải thiện về vốn, thậm chí dù
hiện tại vốn đã đạt mức quy định tối thiểu;
Hạng 4: phản ánh ngân hàng đang thiếu vốn và so với mức rủi ro của mình
thì sự tồn tại của ngân hàng thể bị đe doạ. Khi đó, sự hỗ trợ tài chính từ các cổ
đông hoặc từ bên ngoài là cần thiết.
Hạng 5: Ngân hàng đang thiếu vốn nghiêm trọng và sự tồn tại của ngân hàng
bị đe doạ. Sự hỗ trợ tài chính từ các cổ đông hoặc từ bên ngoài là rất cần thiết.
Về đánh giá khả năng an toàn vốn, một chỉ tiêu chính thường được sử dụng
hệ số an toàn vốn CAR - Capital Adequacy Ratio.
CAR = Vốn tự có
Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro
Trong đó:
* Vốn tự có:
Theo Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam, “vốn tự có là giá trị thực của
vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy
định của NHNN. Vốn tự là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong
hoạt động ngân hàng”[18, tr. 6]
Theo Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS):
Vốn tự có = vốn cấp 1 + vốn cấp 2 các khoản gim tr khỏi vn t
Trong đó:
- Vốn cấp 1 (vốn bản - core capital) thước đo bản về sức mạnh tài
chính của một ngân hàng xét từ góc độ của cơ quan quản lý.
Vốn cấp 1 = vốn cổ đông (giá trị ghi sổ của cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi
chưa đến hạn) + các quỹ dự trữ công bố + lợi nhuận chưa chia.
12 Hạng 2: Phản ánh vốn của ngân hàng ở mức độ thoả đáng tuy nhiên mức này chưa thể hỗ trợ hoàn toàn cho rủi ro của ngân hàng và ngân hàng vẫn cần phải có sự cải thiện về vốn dù rằng hiện tại vốn đã đạt mức tối thiểu theo thông lệ; Hạng 3: phản ánh mức vốn chưa thoả đáng và không thể hỗ trợ đầy đủ cho rủi ro của ngân hàng. Ngân hàng vẫn cần phải có sự cải thiện về vốn, thậm chí dù hiện tại vốn đã đạt mức quy định tối thiểu; Hạng 4: phản ánh ngân hàng đang thiếu vốn và so với mức rủi ro của mình thì sự tồn tại của ngân hàng có thể bị đe doạ. Khi đó, sự hỗ trợ tài chính từ các cổ đông hoặc từ bên ngoài là cần thiết. Hạng 5: Ngân hàng đang thiếu vốn nghiêm trọng và sự tồn tại của ngân hàng bị đe doạ. Sự hỗ trợ tài chính từ các cổ đông hoặc từ bên ngoài là rất cần thiết. Về đánh giá khả năng an toàn vốn, một chỉ tiêu chính thường được sử dụng là hệ số an toàn vốn CAR - Capital Adequacy Ratio. CAR = Vốn tự có Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro Trong đó: * Vốn tự có: Theo Luật các Tổ chức tín dụng của Việt Nam, “vốn tự có là giá trị thực của vốn điều lệ, các quỹ dự trữ, một số tài sản “Nợ” khác của tổ chức tín dụng theo quy định của NHNN. Vốn tự có là căn cứ để tính toán các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng”[18, tr. 6] Theo Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS): Vốn tự có = vốn cấp 1 + vốn cấp 2 – các khoản giảm trừ khỏi vốn tự có Trong đó: - Vốn cấp 1 (vốn cơ bản - core capital) là thước đo cơ bản về sức mạnh tài chính của một ngân hàng xét từ góc độ của cơ quan quản lý. Vốn cấp 1 = vốn cổ đông (giá trị ghi sổ của cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi chưa đến hạn) + các quỹ dự trữ công bố + lợi nhuận chưa chia.
13
- Vốn cấp 2 (vốn bổ sung supplemental capital) thước đo sức mạnh tài
chính của ngân hàng đối với hình thức vốn mức độ đáng tin cậy thhai theo
quan điểm của cơ quan quản lý.
Vốn cấp 2 = các quỹ dự trữ không công bố + các quỹ đánh giá lại tài sản +
các công cụ vốn nợ lưỡng tính + dự phòng chung + nợ thứ cấp.
- Các khoản giảm trừ khỏi vốn bao gồm: Lợi thế thương mại (khoản giảm
trừ khỏi vốn cấp 1), đầu tư vào công ty con nhưng không hợp nhất vào báo cáo tài
chính.
Cụ thể tại Việt Nam, theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc
NHNN ban hành ngày 19-04-2005, vốn cấp 1 gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấp,
vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu
phát triển nghiệp vụ và lợi nhuận chưa chia. Vốn cấp 2 gồm 50% phần giá trị tăng
thêm của tài sản cố định được đánh giá lại theo quy định của pháp luật, 40% phần
giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp)
được định giá lại theo quy định của pháp luật, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu
ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành; các công cụ nợ và dự phòng chung.
* Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro:
Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro bao gồm: tổng tài sản nội bảng (bao gồm,
tiền mặt, tiền gửi, các khoản cho vay, các khoản đầu tư, tài sản cố định, những
khoản mục khác) tài sản ngoại bảng (bao gồm, cam kết bảo lãnh, cam kết cho
vay, thư tín dụng, và các khoản mục khác) được điều chỉnh theo hệ số rủi ro. Các tỷ
lệ rủi ro này thường do các tổ chức quốc tế hoặc ngân hàng trung ương của các
nước đưa ra.
Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ số rủi ro cho tài sản nội bảng gồm 4 nhóm
100%, 50%, 20% 0%. Tuy nhiên, đối với tài sản ngoại bảng thì phụ thuộc vào
mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá trị của tài sản này
trước tiên phải được chuyển đổi từ giá trị ngoại bảng sang nội bảng theo các hệ số
chuyển đổi 100%, 50%, 20% 0% trước khi nhân với các hệ số rủi ro (gồm 3
nhóm là 100%, 50% 0%). dụ như theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN của
Thống đốc NHNN ban hành ngày 19-04-2005, khoản mục tiền mặt có tỷ lệ rủi ro là
0% do ngân hàng không nguy cơ rủi ro mất tài sản này. Do đó, về mặt tài sản
13 - Vốn cấp 2 (vốn bổ sung – supplemental capital) là thước đo sức mạnh tài chính của ngân hàng đối với hình thức vốn có mức độ đáng tin cậy thứ hai theo quan điểm của cơ quan quản lý. Vốn cấp 2 = các quỹ dự trữ không công bố + các quỹ đánh giá lại tài sản + các công cụ vốn nợ lưỡng tính + dự phòng chung + nợ thứ cấp. - Các khoản giảm trừ khỏi vốn bao gồm: Lợi thế thương mại (khoản giảm trừ khỏi vốn cấp 1), đầu tư vào công ty con nhưng không hợp nhất vào báo cáo tài chính. Cụ thể tại Việt Nam, theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 19-04-2005, vốn cấp 1 gồm vốn điều lệ (vốn đã được cấp, vốn đã góp), quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ và lợi nhuận chưa chia. Vốn cấp 2 gồm 50% phần giá trị tăng thêm của tài sản cố định được đánh giá lại theo quy định của pháp luật, 40% phần giá trị tăng thêm của các loại chứng khoán đầu tư (kể cả cổ phiếu đầu tư, vốn góp) được định giá lại theo quy định của pháp luật, trái phiếu chuyển đổi hoặc cổ phiếu ưu đãi do tổ chức tín dụng phát hành; các công cụ nợ và dự phòng chung. * Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro: Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro bao gồm: tổng tài sản nội bảng (bao gồm, tiền mặt, tiền gửi, các khoản cho vay, các khoản đầu tư, tài sản cố định, và những khoản mục khác) và tài sản ngoại bảng (bao gồm, cam kết bảo lãnh, cam kết cho vay, thư tín dụng, và các khoản mục khác) được điều chỉnh theo hệ số rủi ro. Các tỷ lệ rủi ro này thường do các tổ chức quốc tế hoặc ngân hàng trung ương của các nước đưa ra. Dựa trên mức độ rủi ro, các hệ số rủi ro cho tài sản nội bảng gồm 4 nhóm là 100%, 50%, 20% và 0%. Tuy nhiên, đối với tài sản ngoại bảng thì phụ thuộc vào mức độ rủi ro tương đối so với việc cấp tín dụng trực tiếp, giá trị của tài sản này trước tiên phải được chuyển đổi từ giá trị ngoại bảng sang nội bảng theo các hệ số chuyển đổi 100%, 50%, 20% và 0% trước khi nhân với các hệ số rủi ro (gồm 3 nhóm là 100%, 50% và 0%). Ví dụ như theo quyết định 457/2005/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN ban hành ngày 19-04-2005, khoản mục tiền mặt có tỷ lệ rủi ro là 0% do ngân hàng không có nguy cơ rủi ro mất tài sản này. Do đó, về mặt tài sản
14
chịu rủi ro thì khoản mục này giá trị bằng 0. Trong khi đó, các khoản cho vay
khách hàng có tỷ lệ rủi ro 100% do nguy cơ mất các tài sản này là cao, do vậy tài
sản chịu rủi ro đối với các khoản cho vay bằng đúng giá trị của tài sản đó.
Như vậy, việc xác định tài sản chịu rủi ro phản ánh chinh xác hơn mức độ rủi
ro của các khoản mục tài sản của ngân hàng. Do đó, khi xác định mức độ an toàn
vốn của các NHTM, người ta không căn cứ vào tổng tài sản của ngân hàng mà căn
cứ vào tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro.
thể nói, chỉ số CAR phản ánh khả năng đắp những rủi ro thể xảy
đến đối với ngân hàng, khẳng định sức mạnh, sự an toàn trong hoạt động cũng như
khả năng đầu tư phát triển của ngân hàng. Tỷ lệ CAR cao sẽ tạo được uy tín, sự tin
cậy đối với khách hàng. Bên cạnh đó, ngoài chỉ số CAR, để khẳng định năng lực cốt
lõi, năng lực thực sự của ngân hàng, người ta còn xem xét đến chỉ số Vốn cấp 1
(Tier 1 ratio). Trong đó:
Chỉ số Vốn cấp 1 (Tier 1 ratio) = Vốn cấp 1
Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro
Hiệp ước Uỷ ban giám sát về hoạt động Ngân hàng về tiêu chuẩn vốn quốc tế
của Ủy ban Basel
1
quy định CAR tối thiểu phải đạt 8%, tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu đạt
4%. Chỉ số CAR chỉ số vốn cấp 1 phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân
hàng và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng đó. Đây là một trong những nguồn
lực quan trọng nhất quyết định năng lực tài chính của một ngân hàng.
b. Chất lượng tài sản (Asset Quality)
Chất lượng tài sản phản ánh mức độ rủi ro tín dụng hiện tại tiềm ẩn đối
với các danh mục cho vay đầu tư, bất động sản, các tài sản khác cũng như các
giao dịch ngoại bảng của ngân hàng. Chất lượng tài sản cũng phản ánh khả năng
của Ban lãnh đạo trong việc xác định, đo lường, giám sát quản các rủi ro tín
dụng đó. Khi đánh giá chất lượng tài sản, nên đánh giá mức trích dự phòng đầy đủ
1
Đây là một Uỷ ban được thành lập bởi các nhà điều hành các ngân hàng trung ương tại 10 Quốc gia vào
năm 1974 nhằm cải thiện các hướng dẫn giám sát mà các ngân hàng trung ương áp dụng đối với các ngân
hàng bán buôn và bán lẻ. Uỷ ban đưa ra các hướng dẫn giám sát ngân hàng đối với các nước thành viên và
không thành viên và hỗ trợ các chính quyền nhằm thực thi các khuyến nghị của Uỷ ban. Uỷ Ban này đã đưa
ra các quy định về vốn (thường được gọi tắt là Basel), bản đầu tiên được đưa ra năm 1998 (Basel 1) và bản
cải tiến lần 2 vào tháng 1 năm 2001 (Basel 2)
14 chịu rủi ro thì khoản mục này có giá trị bằng 0. Trong khi đó, các khoản cho vay khách hàng có tỷ lệ rủi ro 100% do nguy cơ mất các tài sản này là cao, do vậy tài sản chịu rủi ro đối với các khoản cho vay bằng đúng giá trị của tài sản đó. Như vậy, việc xác định tài sản chịu rủi ro phản ánh chinh xác hơn mức độ rủi ro của các khoản mục tài sản của ngân hàng. Do đó, khi xác định mức độ an toàn vốn của các NHTM, người ta không căn cứ vào tổng tài sản của ngân hàng mà căn cứ vào tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro. Có thể nói, chỉ số CAR phản ánh khả năng bù đắp những rủi ro có thể xảy đến đối với ngân hàng, khẳng định sức mạnh, sự an toàn trong hoạt động cũng như khả năng đầu tư phát triển của ngân hàng. Tỷ lệ CAR cao sẽ tạo được uy tín, sự tin cậy đối với khách hàng. Bên cạnh đó, ngoài chỉ số CAR, để khẳng định năng lực cốt lõi, năng lực thực sự của ngân hàng, người ta còn xem xét đến chỉ số Vốn cấp 1 (Tier 1 ratio). Trong đó: Chỉ số Vốn cấp 1 (Tier 1 ratio) = Vốn cấp 1 Tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro Hiệp ước Uỷ ban giám sát về hoạt động Ngân hàng về tiêu chuẩn vốn quốc tế của Ủy ban Basel 1 quy định CAR tối thiểu phải đạt 8%, tỷ lệ vốn cấp 1 tối thiểu đạt 4%. Chỉ số CAR và chỉ số vốn cấp 1 phản ánh sức mạnh tài chính của một ngân hàng và khả năng chống đỡ rủi ro của ngân hàng đó. Đây là một trong những nguồn lực quan trọng nhất quyết định năng lực tài chính của một ngân hàng. b. Chất lượng tài sản (Asset Quality) Chất lượng tài sản phản ánh mức độ rủi ro tín dụng hiện tại và tiềm ẩn đối với các danh mục cho vay và đầu tư, bất động sản, các tài sản khác cũng như các giao dịch ngoại bảng của ngân hàng. Chất lượng tài sản cũng phản ánh khả năng của Ban lãnh đạo trong việc xác định, đo lường, giám sát và quản lý các rủi ro tín dụng đó. Khi đánh giá chất lượng tài sản, nên đánh giá mức trích dự phòng đầy đủ 1 Đây là một Uỷ ban được thành lập bởi các nhà điều hành các ngân hàng trung ương tại 10 Quốc gia vào năm 1974 nhằm cải thiện các hướng dẫn giám sát mà các ngân hàng trung ương áp dụng đối với các ngân hàng bán buôn và bán lẻ. Uỷ ban đưa ra các hướng dẫn giám sát ngân hàng đối với các nước thành viên và không thành viên và hỗ trợ các chính quyền nhằm thực thi các khuyến nghị của Uỷ ban. Uỷ Ban này đã đưa ra các quy định về vốn (thường được gọi tắt là Basel), bản đầu tiên được đưa ra năm 1998 (Basel 1) và bản cải tiến lần 2 vào tháng 1 năm 2001 (Basel 2)