Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
4,006
283
122
78
thôn với những nét nhân bản đáng quý sẽ đi về đâu trước cơn lốc của sự đổi thay
đó?
Trinh tiết xóm Chùa cũng là một cốt truyện đặt ra được nhiều vấn đề của
hiện thực làm nhức nhối lòng người. Cốt truyện xoay quanh một chuỗi sự việc
làm nổi bật chủ đề “cơn sốt lấy chồng ngoại” đang rộ lên ở làng quê bấy giờ.
Mọi chuyện bắt đầu từ việc cô Khờ, cháu cụ mõ, con ông chủ tịch bị người dụ
dỗ bán vào lầu xanh tận Hồng Kông. Ở đó Khờ đã gặp được người giầu có gửi
tiền vàng về xây nhà lầu, cải táng mộ phần cho các cụ. Lần này về chơi mục
đích của Khờ là tuyển con gái đem xuất ngoại. Tiêu chuẩn phải xinh xắn, dễ coi
trẻ khỏe, đặc biệt các chị em phải “còn xịn”. Khờ định tuyển một giàn gái đẹp để
kinh doanh “trinh tiết” của họ kiếm lời nhưng núp dưới hình thức môi giới lấy
chồng ngoại. Câu chuyện của Khờ làm bà Duệ đau đớn đến tan nát cõi lòng vì
tiếc của. Con Hoa nhà bà xinh nức tiếng làng xã vừa tuổi mười tám, giá nó
không bị thằng phó nháy ngoài phố “làm thịt” thì giờ cái Hoa đã thành mỏ vàng
nhà bà. Nghe chuyện của Hoa, Khờ rỉ tai bà Duệ khiến bà sửng sốt “dì thu xếp
cho con một khoản kha khá con có đường dây bí mật đưa em Hoa đi sửa sang
lại… đến một cơ sở y khoa đặc biệt ở đó người ta nhận vá, người ta tân trang
nguyên làng như cũ. Tân trang song con gái đã hư cũng trở thành “xịn”, lại rác,
lại toạc, lại có quyền lên giá nhờ cái “trinh tiết y khoa” ấy”. Ôi chao, còn đâu
xóm Chùa ngày xưa nữa! Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu
đưa ma túy ,ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền. Vì tiền người ta có thể
đổi trắng thay đen, chà đạp cả thuần phong mỹ tục, hủy hoại cả nét nhân bản
vốn quý ngàn đời của dân tộc. Truyện khép lại trong cảnh ông Sĩ Duệ - bố Hoa
khi biết được câu chuyện của con gái đã “xây xẩm mặt mũi, ngã lăn vào lòng lão
Bản. Hai tay ông vẫn chới với muốn níu giữ cái gì vô hình đang vuột mất”. Cái
vô hình đang vuột mất kia phải chăng chính là những nét nhân bản truyền thống
vốn quý của làng quê khi chưa bị sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường, chưa
có sự chi phối của đồng tiền. Viết về hiện thực xóm Chùa cũng là hiện thực
nông thôn thời mở cửa, hầu hết những cốt truyện của Đoàn Lê đều đưa ra một
chuỗi những sự kiện, biến cố làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Những
sự kiện, biến cố ấy không xoay quanh một nhân vật chính duy nhất như nhiếu
cốt truiyện của truyện ngắn khác mà gắn nối với nhau bằng một sợi dây vô hình
79
là chủ đề tác phẩm. Kết thúc của những cốt truyện ấy thường là lối kết thúc mở
gợi ra được những dư vị thấm thía cho lòng người.
Cốt truyện Thành hoàng làng xổ số lại xoay quanh cuộc đời, số phận của
nhân vật lão Khiển –một kẻ đam mê số đề đến mức “ngộ độc” chết một cách
thảm thương. Nguyên nhân lão đến với số đề có phần hợp lý, chơi để cất lại căn
nhà xiêu vẹo hiện tại và đặc biệt cải táng những ngôi mộ sắp trôi sông của tứ
thân phụ mẫu. Vì thế mỗi tháng lão cố tằn tiện số lương văn thư ít ỏi vừa đủ mua
một tấm vé số để cầu may. Dịp đó dường như thần tài đã thấu hiểu cảnh ngộ của
lão mà cho lão trúng giải sáu được bảy trăm đồng. Từ đó lão Khiển càng quyết
tâm lao vào xổ số, lão Khiển mua xổ số như điên, cứ có đồng nào trong túi lão
mua tuốt như con bạc khát nước. Rồi lão mất xe, mất việc và mất luôn cả gia
đình, dù lang thang lão vẫn xoay mọi cách để có tiền mua xổ số như bơm xe,
giúp việc cho bà góa...Về sau kiếm ăn không nổi, lão chơi xổ số bằng tưởng
tượng rồi bị “ngộ độc” và chết đau đớn. Với hình hài chỉ còn xương bọc da, lão
Khiển đã chết đau, chết đói, chết rét, chết cô độc trên đường tìm về nhà. Khác
với những cốt truyện trước, ở cốt truyện này nhà văn xây dựng rất nhiều biến cố,
sự việc quanh cuộc đời lão Khiển để làm nổi bật ý nghĩa phê phán hiện thực xã
hội một thời ở nước ta. Hiện thực về sự phát triển ồ ạt của nền kinh tế thị
trường
kéo theo nó hàng loạt những vấn nạn. Một trong những tệ nạn bùng phát mạnh
mẽ nhất ở khắp các vùng từ nông thôn đến thành thị khiến người dân không thiết
tha làm ăn gì là nạn cờ bạc, số đề. Tệ nạn ấy không những đẩy bao gia đình vào
cảnh nhà tan, cửa nát mà còn cướp đi mạng sống của bao người, làm đảo điên xã
hội, suy thoái nền kinh tế. Hiện thực ấy được nhà văn thể hiện sâu sắc qua cuộc
đời số phận của một con người.
Những truyện có cốt truyện của Đoàn Lê luôn ẩn chứa những vấn đề hiện
thực sâu sắc gây ám ảnh lòng người. Những cốt truyện ấy thường không đao to
búa lớn mà tự nhiên dung dị nhưng lại hàm chứa những ý nghĩa thật sâu sa.
Những vấn đề hiện thực mà nhà văn phản ánh qua mỗi cốt truyện ấy đều là
những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc, những vấn đề làm nhức nhối lòng người:
vấn đề “sốt đất” do mở đường cao tốc (Đất xóm Chùa), cơn sốt lấy chồng ngoại
(Trinh tiết xóm Chùa), vấn đề mở khu du lịch sinh thái dởm (A Tourism xóm
Chùa), nạn cờ bạc số đề (Thành hoàng làng xổ số)…và rất nhiều vấn đề hiện
làm nhức nhối lòng người.
80
1.2. Cốt truyện tâm lý
Bên cạnh cốt truyện truyền thống, Đoàn Lê còn xây dựng một loại cốt
truyện nữa: cốt truyện tâm lý. Loại truyện này chủ yếu đi sâu vào thể hiện diễn
biến tâm lý nhân vật. Chất “chuyện” mờ nhạt, khó tóm tắt, khó kể lại. Truyện ít
có những chuyển động về hành động bên ngoài, nếu có cũng không tác động đến
cốt truyện bao nhiêu. Ở loại này, những nguyên tắc truyền thống dường như
biến hóa hơn. Các yếu tố sự kiện, tình tiết nhân vật được triển khai theo mạch
vận động, suy nghĩ là chủ yếu. Vì thế loại truyện này thường được cảm nhận
bằng suy nghĩ tâm trạng nhân vật hơn là những câu chuyện được tường thuật.
Dẫu vậy, cốt truyện tâm lý vẫn thể hiện đầy đủ “hệ thống tính cách” và “những
xung đột xã hội” mà một tác phẩm tự sự cần có. Hệ thống sự kiện của tác phẩm
được sắp xếp theo dòng tâm lý nhân vật xung đột chủ yếu là xung đột tâm lý.
Cốt truyện tâm lý đã được một số nhà văn Việt Nam khai thác thành công
từ những năm 1930-1945. Truyện thường không có cốt truyện gì đáng kể, sự
kiện, biến cố là yếu tố cầu nối để nhà văn khai thác tâm lý nhân vật với những
biến động tinh vi, chứa đựng những day dứy và ám ảnh. Tiêu biểu là những
truyện như Hai đứa trẻ, Gió lạnh đầu mùa, Dưới bóng hoàng lan, Đứa con đầu
lòng, Tiếng chim kêu của Thạch Lam hay Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn…của
Nam Cao. Nhưng phải đến văn học giai đoạn sau đổi mới, kiểu cốt truyện này
mới thực sự nở rộ. Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã lý giải về bản chất truyện
này như sau “Có những người viết truyện ngắn sau khi đã diễn tả cái diễn biến
bên ngoài, hoặc tả hết sức tiết kiệm mà chỉ chuyên chú vào cái bên trong, vào
cái mà nhân vật thu nhận được bên trong tâm hồn họ, bằng những câu đối thoại,
bằng những phản ứng tâm lý rất tinh tế. Vì thế đã đẻ ra một loại truyện ngắn mà
ta thgường gọi là truyện ngắn không có truyện, chẳng qua chỉ là một thủ đoạn
văn học cốt để nhân vật và phần nội tâm của nhân vật trực tiếp tiếp xúc với
người đọc” [11, 256]. Đây là loại truyện có “cốt truyện bên trong” tức cốt
truyện
tâm lý diễn tả những tâm trạng điển hình của nhân vật.
Cốt truyện tâm lý của Đoàn Lê thường xuất hiện hai kiểu xung đột: xung
đột giữa hoàn cảnh và tính cách; xung đột giữa tính cách với nhau. Những xung
đột này có tác dụng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện. Xung đột còn giúp tác
phẩm trải qua các giai đoạn phát triển của cốt truyện, từ đó chủ đề tác phẩm
81
được sáng tỏ. Có những tác phẩm toàn bộ cốt truyện diễn ra bằng mạch phát
triển tâm lý của nhân vật như truyện Giường đôi xóm Chùa, Đêm ngâu
vào…Cốt truyện Giường đôi xóm Chùa được phát triển bằng mạch ngầm tâm lý
của nhân vật “Tôi”. Đó là một người phụ nữ đã từng có hai tám năm sống với
một người chồng không hoàn toàn hòa hợp. Vì không hòa hợp nên gia đình ấy
đã có bao phen sóng gió, tình cảm của họ đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền
không thể vá víu được nữa. Và họ quyết định chia tay nhau khi đã có con cháu
đủ đầy. Cốt truyện rất đơn giản, chỉ vài ba sự kiện tiêu biểu, chủ yếu là dòng ý
thức, dòng tâm trạng của nhân vật „tôi”. Thời gian cốt truyện chỉ trong một đêm,
trong một đêm nhân vật tôi nhớ lại câu chuyện của cả cuộc đời hai tám năm
chung sống với người chồng ấy. Câu chuyện bắt đầu từ tâm trạng của nhân vật
“tôi” trên chiếc giường đôi đầy kỷ niệm của hai người, giờ đã có sự xuất hiện
của người thứ ba xen vào làm tan nát mọi thứ. Từ đây mọi ý nghĩ của nhân vật
tỏa đi các ngả không theo một trật tự nào hết. Nó diễn ra theo mạch diễn biến lô
gích của suy tư. Đầu tiên là tâm trạng bàng hoàng của nhân vật “tôi” khi nhận
lời thú tội của người chồng bội bạc. Rồi từ trong tâm trạng bàng hoàng ấy, chị
nhớ lại những ngày đầu tiên khi anh ta thổ lộ tình yêu với chị, thật ngọt ngào
và
lãng mạn. Chị nhớ lại quãng đời chung sống với anh ta: vui cũng lắm mà buồn
cũng nhiều, bao phen họ phải cố gắng giữ cho tổ ấm đứng vững trước sóng gió
muôn mặt của đời thường. Tiếp đó chị dự tính những việc phải làm sau khi chia
tay: chuyện con cái nhà cửa, chuyện căn phòng riêng của hai người…Trong
dòng suy nghĩ ấy, chị nhớ lại chuyện về con trai, ngày nó lấy vợ, chuyện về đứa
cháu nội- thiên thần bé bỏng của chị, chuyện niềm tin tâm linh vào những giấc
mơ của chị, chuyện về cuộc đời tủi cực, cay đắng của mẹ chị, chuyện về người
bạn trai tên Báu thủa nhỏ của chị…Dòng hồi ức đưa chị trở về với thời gian gần
nhất cách đây một tháng khi chị chờ chuyện ly hôn ngã ngũ, chị đã làm một
chuyến đến Quảng ninh làm một bộ phim tài liệu, cùng cuộc gặp gỡ với người
tình cũ của chồng và chuyến thăm đảo khỉ đầy ý nghĩa. Truyện khép lại ở cảnh
chị và chồng cùng trở mình khi gà đã gáy sáng. Có thể nói truyện không có cốt
truyện gì đặc biệt, toàn chuyện là dòng ý thức của nhân vật “tôi” nhưng nhà văn
vẫn đặt ra và giải quyết được rất nhiều vấn đề có ý nghĩa triết lý. Vấn đề về
tình
yêu, hôn nhân. Hôn nhân chỉ thực sự hạnh phúc khi có sự đồng cảm sẻ chia, hòa
hợp của vợ chồng. Muốn làm được điều đó cả hai người cần phải luôn cố gắng
82
vun đắp cho tình yêu, làm mới tình yêu đề cuộc sống chung không rơi vào sự
nhàm tẻ.
Cốt truyện Đêm ngâu vào cũng xoay quanh dòng diễn biến tâm trạng của
nhân vật “tôi”- một họa sỹ. Câu chuyện bắt đầu bằng một chiều mưa ngâu người
họa sỹ ngồi lặng lẽ ngắm hình hài người thiếu phụ đang tiều tụy đi vì bệnh tật.
Từ hiện thực đó, dòng ý thức đưa anh trở về những tháng ngày qúa khứ. Đầu
tiên là mốc thời gian năm bốn mươi tuổi, anh mở một phòng tranh, tặng bức gạt
tàn cho một người đàn ông và nhận lại ba con khỉ gỗ. Những lúc anh phiền
muộn hay có tâm sự gì, ba con khỉ gỗ lại sẻ chia với anh. Rồi từ đó ký ức lại
đưa
anh trở về những tháng ngày anh quen nàng đã hơn hai mươi năm về trước. Đó
là một ngày trời mưa định mệnh, sau ngày đó anh đã vĩnh viễn mất nàng . Sau
khi nàng bị con “cá mập” cướp đi, anh đã dọn về ở nhà nàng- anh vốn là con
nuôi của mẹ nàng. Anh đau đớn thấy mỗi lần nàng về thăm nhà lại thấy nàng
nhỏ bé đi. Căn bệnh quái ác đang dần cướp nàng khỏi cuộc đời, anh lặng lẽ ngồi
phác thảo nàng những ngày cuối mà nuốt thầm những giọt lệ vào trong. Sau khi
nàng qua đời , anh đặt bức vẽ dở dang vào góc bàn có những chú khỉ gỗ rồi
mừng rỡ đến nỗi “khóc nức lên, thật kỳ diệu!”. Toàn truyện dường như không
có chuyện, đó là dòng tâm trạng, hồi ức của nhân vật người họa sỹ. Truyện
không có nhiều tình tiết, biến cố ly kỳ nên rất khó tóm tắt hay kể lại. Cấu trúc
của truyện rất lỏng lẻo, đó là dòng ý thức nên nó nhảy cóc, biến hóa rất linh
hoạt
rất phù hợp để thể hiện các sắc thái tâm lý, tình cảm của nhân vật người họa sỹ.
Tất cả là một nỗi hối tiếc, sót xa tràn ngập cõi lòng. Chỉ vì một phút giây do
dự
mà anh đã để mất tình yêu và rồi mất luôn cả người yêu mãi mãi. Dư vị của sự
nuối tiếc thấm đẫm những trang văn của Đoàn Lê.
Những truyện loại này, sự sắp xếp các đoạn trong mỗi tác phẩm thường
không tuân theo thứ tự thời gian: có khi thuận theo chiều tuyến tính thời gian,
khi bị đảo ngược. Đây chính là lối lắp ghép liên văn bản trong nghệ thuật xây
dựng bố cục của nhà văn. Người đẹp xóm Chùa là một truyện ngắn rất tiêu biểu
cho lối lắp ghép liên văn bản này. Cốt truyện rất đơn giản nếu không muốn nói
là chẳng có gì đáng nói. Chuyện kể về một anh họa sỹ rất yêu quý, trân trọng cái
đẹp. Vì thế, anh đã dành hầu hết những tháng năm sôi nổi của thời trai trẻ để
lưu
giữ cái đẹp bằng việc vẽ những bức tranh khỏa thân thiếu nữ và mở được một
triển lãm tranh với “hai mươi mùa xuân” để ca ngợi vẻ đẹp kỳ diệu của họ. Chỉ
83
tiếc những kẻ phàm tục không hiểu được những cái đẹp quý giá mà anh tôn thờ,
anh thấy sót xa cho cái đẹp. Rồi một hôm thằng bé anh vẫn nhờ trông cửa mỗi
khi anh làm việc đã tha thiết nài nỉ anh cho vay tiền và trả bằng việc cho em
gái
nó làm mẫu vẽ cho anh. Người họa sỹ không muốn nhưng trước vẻ đẹp thiên
thần của cô bé anh đã vẽ như điên không chỉ cái vẻ bề ngoài mà cả phẩm chất
tâm hồn của cô bé ngoan hiếu thảo. Đó là bức vẽ anh dành định dành riêng cho
mình mà nếu chết anh sẽ tặng cho cô bé. Mạch truyện đang ở dòng cảm xúc của
người họa sỹ khi ngồi vẽ cô bé bỗng biến đổi linh hoạt nhảy cóc. Dường như
nhà văn xen vào kể một câu chuyện khác không liên quan gì đến mạch chuyện
chính. Chuyện về anh chàng bán tạp hóa có bức tranh khỏa thân do mua từ thiện
của một ông họa sỹ nghèo để lấy tiền chôn cất ông ta. Bức khỏa thân ấy lại là
mẹ cô gái bán bánh cuốn mà anh chàng bán tạp hóa yêu. Mẹ cô bé đang hấp hối,
rất mong được nhìn bức tranh của mình lần cuối. Khi nhìn bức tranh khỏa thân
cô như bị thôi miên, rồi cô đã đánh đổi cái quý giá nhất của đời người con gái
để
lấy bức tranh khỏa thân thỏa ước nguyện của mẹ cô trước khi qua đời. Sau khi
mẹ mất, cô đã trả lại anh chàng tạp hóa bức tranh khỏa thân kèm một bức thư và
rời bỏ mảnh đất ấy. Anh chàng tạp hóa tìm đến nhà cô, anh hết sức ngạc nhiên
khi so sánh người đẹp trong tranh với bức ảnh người đàn bà già nua sầu muộn
“hai hốc mắt tối sẫm, cái sọ trơ xương”. Cuộc đời quá phũ phàng đã tàn phá xô
đẩy cái đẹp đến mức tiều tụy, xác xơ để bao người phải nghi ngờ “Hỡi ôi, cái
đẹp có thực hay không thực?”. Đấy cũng là tấm lòng xót xa cho cái đẹp của nhà
văn, cái đẹp vốn yểu mệnh. Nếu không được nâng niu, trân trọng, che chở, bảo
vệ cái đẹp sẽ nhanh chóng bị tàn phai trước sóng gió muôn mặt của cuộc sống
đời thường. Truyện khép lại trong cảnh nhân vật họa sỹ đối thoại với cô bé và
đánh dấu một nốt son lên bức tranh để chứng thực đã có một nhan sắc như thế đi
qua thế gian. Đây là cách kết thúc của kiểu truyện có bắt đầu mà không có kết
thúc. Kết thúc ngỏ mở ra nhiều khoảng trống để người đọc tự suy nghĩ, phán
đoán, tưởng tượng để lấp đầy. Bằng cách này truyện của Đoàn Lê đã phản ánh
hiện thực cuộc sống không chỉ đa dạng, bề bộn mà đang còn dở dang, một hiện
thực luôn trên dòng vận động không có dấu chấm cuối cùng.
Nhìn con người với diễn biến bên trong của dòng suy nghĩ, tâm trạng,
Đoàn Lê đã khám khá được chiều sâu của cuộc sống với nhiều ý nghĩa sâu sắc.
Với cách khám phá con người tâm lý, con người tâm trạng, truyện ngắn của
84
Đoàn Lê hòa chung với dòng chảy của truyện ngắn hiện đại góp phần làm phong
phú thêm cho thể loại truyện ngắn này. Đồng thời cũng khẳng định được tên
tuổi của Đoàn Lê trong nền văn học đương đại.
1.3 Cốt truyện kỳ ảo.
Nhà văn Ngô Tự Lập đề xuất cách dùng thuật ngữ truyện kỳ ảo như sau:
“Truyện kỳ ảo đưa ra những sự kiện không thể giải thích nổi bằng những quy
luật thông thường. Đó là một thế giới, nơi cái thực và cái ảo, cái tự nhiên và
siêu
nhiên xâm nhập lẫn nhau…” [75]. Ở thể loại truyện này, cái kỳ ảo là yếu tố cơ
bản tham gia vào dẫn dắt cốt truyện. Cái kỳ ảo là thủ pháp làm đậm thêm hiện
thực, soi chiếu những góc độ khác nhau của hiện thực. “Thế giới kỳ ảo không
phải ở ngoài, cũng không phải ở trên, cũng không phải ở dưới, nó ở trong đáy
lòng chúng ta, nó lay động đến tất cả, nó là linh hồn của tất cả sự thật, nó
hiện
diện trong tất cả sự việc, mỗi nhân vật tự mình mang nó và biểu hiệh nó theo
cách của mình” [51, 117]. Cốt truyện ở thể loại này mang những yếu tố kỳ lạ, có
tính chất ảo, làm người đọc kinh ngạc, thích thú, thậm chí là sợ hãi. Cốt truyện
loại này, Đoàn Lê đề cập tới ở Nghĩa địa xóm Chùa, Lên Ruồi, Nhân Bản…
Cốt truyện Nghĩa địa xóm Chùa xoay quanh việc nhầm lẫn thân nhân của
một vị tướng với một tay thợ điện bậc ba đã về hưu. Từ tình huống vừa vui cười
vừa bi thảm ấy, Đoàn Lê đã tưởng tượng cả một cốt truyện phong phú , sinh
động về cõi âm. Cõi âm cũng tồn tại, sinh hoạt, đi lại, nói năng và tán chuyện
với nhau y như cõi người vậy. Tối tối khối cộng đồng đông đúc của cõi âm lại rủ
nhau đội mả chui lên mặt đất để sinh hoạt. Khối cộng đồng ấy đặc biệt sôi nổi
trong những đêm đón tiếp hồn ma mới. Họ cũng bầu thứ hạng, cấp bậc lo quản
lý khu nghĩa địa đâu ra đấy. Cả khu nghĩa địa đều nhao lên về chuyện hồn ma
nằm trong quan tài kính sắp được chôn ở khu nghĩa địa của họ. Rồi đám ma cũ
kéo nhau làm tình làm tội hồn ma mới, bắt anh ta tường trình toàn bộ chuyện
nhầm lẫn kia rồi họ mới chịu tản về các nơi sinh hoạt như thường ngày. Thông
qua câu chuyện cõi âm, nhà văn muốn làm đậm thêm một góc nhìn hiện thực:
hiện thực về các loại phí dịch vụ đang hoành hành trong xã hội hiện đại “tiền
lót
tay tiêu cực phí”. Nếu không có khoản ấy “lót tay” cho bọn canh nhà xác, chúng
sẵn sàng làm cái việc mất hết nhân tính là tráo đổi xác người quá cố. Bên cạnh
đó còn hiện thực về tình thân, tình người đang bị xói mòn trước sức công phá
của đồng tiền với vẻ hào nhoáng bề ngoài, rồi chuyện đút lót, hối lộ, bợ đỡ,
85
chuyện “ma cũ bắt nạt ma mới”…Bằng cách tưưởng tượng một thế giới ảo,
Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết được rất nhiều vấn đề của hiện thực đời sống
thật chân thực và dí dỏm.
Cũng một cách giải quyết như vậy, ở truyện ngắn Lên Ruồi, Đoàn Lê đã
bê y nguyên hiện thực cõi người lên cõi ruồi. Nói cách khác, cõi ruồi cũng
thường tình như cõi người vậy. Cốt truyện xoay quanh cuộc đời, số phận của
một nghệ sỹ nhào lộn. Anh đã đóng góp gần trọn cuộc đời cho nghệ thuật, giờ
anh ly dị vợ không có chỗ ở, xin cấp một căn hộ theo tiêu chuẩn mà đi khắp các
cửa kêu xin đều không được giải quyết còn bị biến thành ruồi. Trong kiếp sống
ruồi, anh tưởng có thể giải quyết được tất cả những vấn đề bức súc trong cõi
người thì lại phải đối mặt với những vấn đề còn phức tạp hơn. Đó là vấn đề mưu
sinh, nhà ở, phụ nữ…Cõi ruồi cũng có thứ hạng, cấp bậc, có ruồi Bộ trưởng, thứ
trưởng, ruồi giámn đốc, trưởng phòng…Và không chóng thì chày lại chật đất
ruồi rồi đâu lại vào đấy. Đúng là cái vòng luẩn quẩn, ở đâu người nghệ sỹ nhào
lộn ấy cũng không thể thoát khỏi những vấn đề muôn thủa cho dẫu là chính
đáng. Vấn đề của người nghệ sỹ nhào lộn cũng là vấn đề chung của đa số người
dân trong thời buổi đất chật người đông, “mật ít ruồi nhiều” tìm đâu ra sự công
bằng. Thời buổi có những người được cấp đến ba bốn lần nhà mà vẫn xin cấp
nữa và vẫn được giải quyết, còn những người “thấp cổ bé họng” thì lời kêu của
họ vẫn mãi “trời không thấu đất không hay”. Hiện thực nhức nhối này nhờ nghệ
thuật ảo hóa của Đoàn Lê mà trở nên sinh động và có chiều sâu.
Ở Nhân bản, nhà văn lại tưởng tượng một cốt truyện viễn tưởng thật rùng
rợn. Chuyện về một phiên bản khác được tạo ra từ miếng da nách của một thi sỹ
khi ông ta bị tai nạn phải dừng sự nghiệp sáng tác. Trước khi cho nhân bản
mình, ông ta đã có vợ và một con trai. Khi cậu con trai lên ba thì họ chia tay,
từ
đó cậu bé thành trẻ bụi đời lang thang, lưu lạc tận chân trời góc biển. Vì thế,
ông
ta cho nhân bản mình nhằm lấy người kế tục thực hiện ước vọng lớn lao ông
chưa đạt được lúc sinh thời. Rồi theo mạch tưởng tượng đó, nhà văn kể về cuộc
sống mới của nhân bản. Điều khiến người đọc choáng váng, thót tim là nhân bản
cũng biết yêu mãnh liệt. Nhân bản của ông thi sỹ lại tìm gặp đúng nhân bản
người vợ kiếp trước của mình để yêu đến điên cuồng, mê muội đến mức họ lại
sắp cho ra đời một đứa trẻ của bốn mươi năm về trước. Cầm chắc họ sẽ nhân
bản truyền đời một cuộc chơi bi thảm kiếp trước, nước mắt, ly hôn…Rồi một
86
đứa trẻ vô thừa nhận lại lang thang bụi đời khắp chốn. Cốt truyện khép lại với
rất nhiều day dứt ám ảnh. Đến đây người đọc không còn để ý nhiều đến chuyện
nhân bản vô tính nữa mà quan tâm đến ý nghĩa hiện thực sâu sắc mà nhà văn gửi
gắm đằng sau câu chuyện ấy. Đó là hiện thực bi thảm của những đứa trẻ bị bỏ
rơi từ những cuộc hôn nhân tan vỡ. Cha mẹ chúng quá vô trách nhiệm, quá ích
kỷ, mải mê theo đuổi những dục vọng riêng mà nỡ bỏ qua lời kêu cứu của con
trẻ. Đồng thời qua đó, nhà văn cũng muốn gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh
với xã hội về tính hai mặt của một vấn đề. Nếu nhân bản vô tính xảy ra thật thì
xã hội sẽ điên đảo, rất nhiều kẻ xấu sẽ lợi dụng việc này để trục lợi. Chúng sẽ
cho nhân bản hàng loạt những tay chân chuyên làm việc xấu, rồi tội ác tràn
lan…Cuối cùng thì lợi ít, hại nhiều, xã hội loài người sẽ suy thoái, nạn ly hôn
không ngừng gia tăng, có không biết bao nhiêu đứa trẻ bị bỏ rơi… Dưới hình
thức một câu chuyện kỳ ảo, Đoàn Lê đã đặt ra và giải quyết được nhiều vấn đề
hiện thực lớn lao từng gây xôn xao cả dư luận thế giới. Với ý nghĩa to lớn ấy,
tác
phẩm của Đoàn Lê còn mang chức năng dự báo tương lai.
1.4 Vai trò của người kể chuyện với sự phát triển của cốt truyện
Người kể chuyện có vai trò rất quan trọng với sự phát triển cốt truyện.Vì
thế có nhận xét cho rằng: Muốn đọc hiểu một truyện ngắn hiện đại cần lưu ý đến
người kể chuyện đã đành, không có người kể chuyện không có truyện ngắn,
nhưng người kể chuyện luôn luôn ẩn mình. Ngay những truyện ngắn với người
kể chuyện xưng “tôi” cũng là một thứ lảng tránh chủ thể phát ngôn. Nhà văn
muốn làm mất cái tôi cá nhân mình để có được cái tôi nghệ thuật. Ngƣời kể
chuyện trong truyện ngắn của Đoàn Lê nhiều khi ẩn đi vai trò của mình.
Người kể chuyện thường không xuất hiện trực tiếp xưng “tôi”, nhưng trong mỗi
câu chuyện dường như bao giờ cũng có một con người luôn ẩn mình đằng sau
câu chữ, thấu hiểu mọi ngóc ngách của truyện. Câu chuyện cứ thế mở đầu, kết
thúc mà không cớ điểm dừng nào dành cho người kể chuyện. Người kể chuyện
không xuất hiện bằng ngôi thứ cụ thể nào, nhà văn hoàn toàn trao giọng điệu cho
nhân vật tự dẫn dắt câu chuyện ( Đất xóm Chùa, Xóm Chùa Ông, Trinh tiết Xóm
Chùa, A tourism xóm Chùa…). Có đôi khi giọng điệu, thái độ của nhà văn thể
hiện qua giọng điệu ngôn ngữ nhân vật. Trong tác phẩm Trinh tiết xóm Chùa
thái độ người kể chuyện thể hiện qua lời nhân vật lão Bản: Còn đâu xóm Chùa
ngày xưa nữa. Giờ tha hồ con gái đóng mác xuất ngoại, con giai đu đưa ma túy,
87
ca-ve lẻn vào tận làng hoạt động kiếm tiền…Với lối kể chuyện ẩn đi vai trò của
của người kể chuyện, những câu chuyện được kể trở nên khách quan, chân thực
và có sức thuyết phục hơn. Những vấn đề của hiện thực mà nhà văn phản ánh
trong tác phẩm qua điểm nhìn của nhân vật cũng có tính chân thực cao hơn.
Bên cạnh những câu chuyện ẩn đi vai trò của người kể chuyện, sáng tác
của Đoàn Lê còn rất nhiều truyện mà vai trò của ngƣời kể chuyện xuất hiện
trực tiếp xƣng “tôi”. Sự xuất hiện của người kể chuyện thường “đem lại cho
tác phẩm một cái nhìn và một sự đánh giá bổ sung về mặt tâm lý, nghề nghiệp
hay lập trường xã hội cho cái nhìn của tác giả, làm cho sự trình bày, tái tạo
con
người và đời sống trong tác phẩm thêm phong phú” [52,191]. Khi người kể
chuyện ở ngôi thứ nhất thì chủ thể phát ngôn có dáng dấp của chính tác giả. Rất
nhiều truyện ngắn của Đoàn Lê, nhân vật “tôi” mang bóng dáng tác giả. Ở
những truyện ấy, dường như nhà văn đang kể lại câu chuyện của chính cuộc đời
mình. Đó chính là xu hướng “tự nghiệm” trong truyện ngắn Đoàn lê mà luận văn
đã đề cập đến ở phần trên. Nhân vật “tôi” ở Giường đôi xóm Chùa kể cuộc đời
gần ba mươi năm chung sống rồi ly hôn do người chồng bội bạc, hay nhân vật
“tôi” ở Trái táo nham nhở kể lại bi kịch cuộc đời với hai mươi năm bị lừa dối,
bị
đánh cắp tình yêu là những nhân vật có hình bóng tác giả rõ nhất. Trong những
truyện này, nhà văn như hóa thân vào nhân vật để tường thuật lại chính câu
chuyện cuộc đời mình, những cảm xúc, những nỗi đau chồng chéo, đan xen,
những ẩn ức bị kìm nén…Tất cả đều hiện lên chân thực sống động như nó vốn
thế dưới điểm nhìn trần thuật của tác giả. Có những trường hợp nhân vật “tôi”
xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm nhưng đứng ở góc độ là người soi thấu mọi sự
việc hoàn cảnh. Đó là nhân vật người phụ nữ xưng “tôi” trong truyện Hai bà mẹ
và tôi. Nhân vật “tôi” đã chứng kiến toàn bộ câu chuyện bi thảm của hai bà mẹ,
một người có đứa con là sát nhân và một người có đứa con là nạn nhân. Sau câu
chuyện của hai bà mẹ, nhân vật “tôi” đã thay lời nhà văn thể hiện quan điểm,
thái độ của mình với hiện thực thảm khốc của đồng tiền cùng sức hủy diệt ghê
gớm mà nó đã gây ra: “Cầm tờ đô la tôi không khỏi ớn lạnh. Ít nhất đã có hai
nhân mạng chết vì nó. Một kẻ bị giết, một kẻ mới bị tử hình. Đến ai nữa đây?
Những xác chết có lẽ sẽ rữa ra, nhưng nó vẫn tồn tại. Tồn tai cả nỗi đau đớn
của những bà mẹ có cùng bầu sữa ngọt ngào giống nhau”. Nhân vật “tôi” ở Con
bướm ngựa cánh xanh lại trong vai một họa sỹ vẽ tranh được nghe kể và trực