Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
4,001
283
122
48
một người phụ nữ bình thường như bao nhiêu người phụ nữ bình thường khác,
cô Huệ cũng khát khao tình yêu, khao khát hạnh phúc với mong muốn được làm
vợ, làm mẹ nên cô đã chủ động đến với lão Đúa. Chẳng ngờ, cái con người vẫn
sống bình thản đến vô tư kia lại chẳng thể cho cô Huệ dù một mụn con bởi
những di chứng của chiến tranh. Từ hai kiếp sống ở bên lề cuộc đời ấy, Đoàn Lê
muốn gửi đến chúng ta một triết lý. Mỗi người đều là một thế giới bí ẩn, một
tiểu vũ trụ. Hãy cố mà tìm hiểu họ sẽ phát hiện được rất nhiều điểm thú vị đáng
quý ở họ. Bởi vậy mỗi người hãy sống sâu sắc đến tận cùng sự sống để khám
phá cho hết ý nghĩa đích thực của đời người. Đừng nên chỉ nhìn bề ngoài mà vội
đánh giá kết luận.
Với Đoàn Lê và nhiều nhà văn khác, trẻ em luôn là niềm vui, niềm hy
vọng làm vợi bớt những nỗi đau của nhân thế. Chúng thật ngây thơ trong sáng
như một thiên thần: “Mọi đứa trẻ đều tinh khiết, đều phảng phất giống tiên đồng
ngọc nữ” và “Trẻ thơ chính là những đóa hồng của chúa” Những đứa trẻ thậm
chí cứu vớt được cả những tâm hồn ma quỷ. Thông điệp mà nhà văn muốn gửi
gắm qua triết lý ấy là hãy thương yêu, trìu mến, nâng niu trẻ thơ. Chúng sẽ đem
lại niềm vui, niềm hy vọng cho bạn. Dẫu cuộc sống có tăm tối, nghiệt ngã đến
nhường nào thì nhà văn vẫn không thôi hy vọng vào tương lai. Tương lai được
tạo dựng từ sự ra đời của những đứa trẻ.“Mỗi đứa trẻ ra đời đều mang theo tin
báo Chúa không tuyệt vọng về con người” (Hai bà mẹ và tôi)
3.2.2. Triết lý về tình yêu, hôn nhân
Đối với các cây bút nữ thời kỳ đổi mới, tình yêu là đề tài được sử dụng
nhiều nhất trong các sáng tác của họ. Phải chăng với họ, tình yêu luôn là cứu
cánh tinh thần giúp họ vượt qua những sóng gió trong cuộc đời. Đồng thời các
nhà văn nữ cũng là người am hiểu hơn ai hết bản chất của tình yêu: có ngọt ngào
nhưng cũng lắm đắng cay “trong tình yêu có lúc phải giành lấy cái để gọi như
chơi bạc ấy, được thì phất, hỏng thì thôi nhưng cứ phải cướp cái” (Cát đợi-
Nguyễn Thị Thu Huệ); hay tình yêu giống như “một chiếc bình quý nhất mà
người ta chỉ có một lần trong đời” (Bàn tay lạnh- Võ Thị Hảo).
Trong những câu chuyện viết về tình yêu của Đoàn Lê, phần thanh cao
trong tình yêu bao giờ nhà văn cũng dành cho phái nữ. Bởi họ luôn là người chịu
nhiều đau khổ, thiệt thòi hơn khi những cuộc tình tan vỡ. Và có một điều đáng
trân trọng ở họ là cho dẫu họ bị phản bội thì cuối cùng họ vẫn nghĩ tốt về đối
49
phương, vẫn tìm cách tha thứ cho kẻ phản bội mình. “Đúng thế cái gì người ta
cũng có thể cố gắng, nhưng không ai có thể cố gắng yêu” Ấy là một triết lý, một
sự thật đau lòng mà người phụ nữ trong Trái táo nham nhở phải thừa nhận sau
gần hai mươi năm bị đánh cắp tình yêu. Dù vẫn còn rất yêu người đàn ông ấy,
chị vẫn chấp nhận giải thoát cho anh ta, chấp nhận để hạnh phúc của mình như
“Trái táo nham nhở” để giữ được lòng tự trọng. Vì chị hiểu rằng “Một người
đàn bà tự trọng phải biết rút lui đúng lúc” (Giường đôi xóm Chùa). Chị cũng
biết “Một cái giường xét về phương diện thực dụng cũng như đạo đức vốn được
đóng cho hai người nằm, nói rõ hơn cho một người nam cùng một người nữ của
Đấng – Tạo- Hóa. Khi phải chứa đến người thứ ba thì độ bức bối chuyển thành
giông bão không thể chịu đựng được” và “đôi lúc sự tồn tại của người ảo còn
đáng sợ hơn cả người thực”. Ấy là sự tồn tại chập chờn ẩn hiện của người thứ
ba chen vào hạnh phúc của hai người. Sau gần hai mươi tám năm chung sống,
chị biết tình cảm của anh và chi đã rách tươm như lá cờ giữa trận tiền, không
thể
vá víu được nữa. Giờ anh lại có người phụ nữ khác ở bên ngoài, người ấy vẫn
đêm đêm hiện hình trên chiếc giường đôi của anh chị, ám ảnh chị làm chị không
thể chịu đựng được. Chị quyết định chia tay, biết đâu “sự dở dang chẳng phải là
một may mắn”. Chị hiểu tình yêu cũng như cuộc đời, cái mất không bao giờ mất
hết, nó luôn đi liền với cái được như hai mặt của một vấn đề. Triết lý về tình
yêu, hôn nhân trong sáng tác của Đoàn Lê nhẹ nhàng nhưng có sức lan thấm sâu
rộng. Triết lý về sự không hòa hợp của hai tâm hồn, nhà văn viết: “ trong hình
hài mỗi con người ẩn chứa cả một tầng địa ngục sâu kín, không có lấy một lối
nhỏ đi vào” (Ngôi nhà gỗ). Vì không hiểu nhau nên không thể sẻ chia, và đó
cũng là đầu mối của những bi kịch tan vỡ không thể cứu vãn được của hôn nhân,
gia đình.
Khi triết lý về tình yêu, hôn nhân, Đoàn Lê tỏ ra là người am hiểu sâu sắc
những cung bậc trạng thái cảm xúc của người đang yêu: có sự nhớ mong đợi
chờ, cũng có lòng ghen tuông thù hận “ Máu ghen vốn tiềm ẩn trong mỗi con
người như một kẻ thù thâm hiểm, tàn bạo, chỉ rình cơ hội chơi khăm ta. Nó
giống loài bạch tuộc, bất ngờ phóng hàng chục cái vòi quấn thít lấy mẩu thịt tội
nghiệp gọi là trái tim, tiêm nọc độc cho lý trí ta tê liệt, duy nhất còn mỗi nỗi
đau
đớn khủng khiếp, man rợ, súc vật. Rồi cả ngàn điều nghi ngờ mù lòa xúi giục,
thét gào đòi ta hành động” (Tình Guột). Lời triết lý thật đầy đủ, sâu sắc, khái
50
quát bằng những hình ảnh so sánh gợi nhiều liên tưởng cho lòng người. Ghen là
một dạng biểu hiện của tình yêu. Có yêu thì mới ghen, nhưng ghen một cách mù
quáng thì lại là liều thuốc độc giết chết tình yêu. Đôi khi triết lý lại được
thể
hiện qua lời kể bình thản, nhẹ nhàng. Trong tác phẩm Thành hoàng làng xổ số
khi nói đến cuộc sống của những số phận bất hạnh của những cô gái phải dùng
những mánh khóe táo tợn để thu phục đàn ông, nhà văn đã viết: "Trong mỗi
người đàn ông đều có một đứa trẻ đòi bế ãm, nâng niu. Chỉ cần biết dang tay ra,
đứa trẻ sẽ xà ngay vào. Rồi nó sẽ trở thành đứa trẻ ngoan ngoãn vâng lời". Ấy
là mánh khóe mà ả bán thuốc lá vẫn dùng để moi tiền của những người đàn ông
sa cơ lỡ bước hay những kẻ “ham của lạ”.
Cứ như thế những câu chuyện viết về tình yêu, hôn nhân, gia đình, cuộc
sống của Đoàn Lê thật nhẹ nhàng nhưng đầy triết lý sống. Ai đã từng yêu, từng
có gia đình chắc hẳn đều thấm thía những lời triết lý ấy. Những triết lý ấy
chính
là lời nhắc nhở chúng ta cần luôn tỉnh táo trước mỗi hành động. Tình yêu, hôn
nhân, cuộc sống luôn cần sự chân thành, bao dung, thông cảm và sẻ chia lẫn
nhau. Nếu quá lạnh lùng, sòng phẳng, đề cao chủ nghĩa cá nhân tất yếu sẽ dẫn
đến bi kịch. Vậy hãy chân thực rất mực với lòng mình, sống vì mọi người để cho
cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Cảm hứng triết luận đã nâng cao chất tư tưởng
và tính nhân văn cho những truyện ngắn của Đoàn Lê.
51
CHƢƠNG II. THẾ GIỚI NHÂN VẬT
1. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê.
Đặc điểm nhân vật trong giai đoạn văn học trƣớc và sau 1975.
Nhân vật là yếu tố hàng đầu của tác phẩm văn học. Nhân vật là hình thức
thể hiện quan điểm của nhà văn về con người. “Nhân vật là nơi tập trung mọi giá
trị tư tưởng- nghệ thuật” (Từ điển văn học tập 1). Nhân vật là “công cụ khái
quát
hiện thực và phương tiện để tác giả hiện thực hóa quan niệm nghệ thuật về con
người dưới một hình thức biểu hiện tương ứng”. Mỗi kiểu nhân vật có tính quy
luật và lô gích của nó. Nhưng nó cũng có những sáng tạo riêng của mỗi nhà văn.
Mỗi giai đoạn văn học đều có những nhân vật đặc trưng. Từ nhân vật mặt
nạ, nhân vật biểu tượng trong thần thoại, truyền thuyết, anh hùng ca…đến nhân
vật tâm lý, nhân vật tính cách, nhân vật tự ý thức trong văn học hiện đại…Tất cả
đều mang trong mình những yếu tố thời đại và ngày càng đa dạng hơn. Nghệ
thuật và các phương thức thể hiện nhân vật cũng năng động hơn. Hệ thống nhân
vật là bề sâu của những quan niệm khác nhau về cuộc sống, con người của từng
tác giả. Vì thế không thể lý giải những đặc trưng nghệ thuật của một tác giả mà
không khảo sát nhân vật và những quan điểm của nhà văn về nó. Nói cách khác,
tìm hiểu nhân vật cũng có nghĩa là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật về con người
của nhà văn.
Trước thời kỳ đổi mới, nhân vật văn học vẫn còn ảnh hưởng của kiểu xây
dựng nhân vật trong văn học truyền thống. Nghĩa là con người luôn luôn gắn với
những vấn đề chính trị- xã hội lớn lao của đất nước, đó là con người chính trị,
xã
hội. Văn học thời kỳ này lấy lịch sử làm điểm quy chiếu nên con người bao giờ
cũng được “khoác chiếc áo trùng khít với chính bản thân mình”, con người được
xem như chủ nhân của lịch sử, của ý thức cộng đồng. Trong văn học kháng
chiến, nhân vật văn học luôn có tâm thế của những con người mang trên vai
trọng trách của lịch sử. Họ được gọi tên bằng những danh từ chung như “Chúng
Ta”; “Nhân Dân”; “Đất Nước”…Sự quy chiếu này không có sự phân biệt giữa
thơ ca và văn xuôi, dù là nhân vật trữ tình hay hiện thực đều nằm trong “biên
độ” văn học được giới hạn bởi lịch sử. Vì thế mà nhân vật văn học giai đoạn này
bao giờ cũng là những hình tượng trọn vẹn mang tính tư tưởng.
Văn học từ 1975 đến nay là giai đoạn chuyển biến từ một nền văn học
chịu sự tác động của quy luật chiến tranh sang một nền văn học chịu sự chi phối
52
của quy luật đời thường. Đây chính là giai đoạn chuyển biến từ tư duy sử thi, từ
phạm trù cao cả anh hùng sang tư duy phi sử thi, lối tư duy nghiêng về cuộc
sống đời thường với sự mở rộng các phạm trù thẩm mỹ: cái xấu, cái kệch cỡm,
nghịch dị… Hơn lúc nào hết, truyện ngắn đã khẳng định vai trò chủ yếu của
mình trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực bề bộn của giai đoạn mới với
quan niệm mới về con người. Mười năm đầu sau chiến tranh, văn học tuy vẫn
gắn với truyền thống nhưng đã có sự quan tâm hơn đến con người. Lúc này, văn
học đã bắt đầu xuất hiện những tác phẩm mang cảm hứng nghiêng về con người,
lấy con người làm tâm điểm quy chiếu lịch sử. Nhà văn bắt đầu quan tâm đến sự
tồn tại của con người cá nhân với tư cách là một “nhân vị” độc lập. Con người
được nhìn nhận như một thực thể riêng tư. Có thể nói chưa bao giờ văn học đề
cập đến giá trị và sự sống của con người cá nhân như giai đoạn này. Trong văn
học bắt đầu xuất hiện kiểu nhân vật “không trùng khít với chính mình”, kiểu con
người lưỡng diện, phức tạp nhiều chiều mà Bức tranh – Nguyễn Minh Châu là
bước khởi nguồn cho sự xuất hiện của kiểu con người như vậy. Nhân vật văn
học được miêu tả với đầy đủ mọi khía cạnh của cuộc sống hiện thực, con người
không chỉ là “chủ nhân” của lịch sử mà còn là “nạn nhân” của hoàn cảnh sống.
Bắt đầu từ những năm 1986, văn học chuyển tiếp sang một giai đoạn hoàn
toàn mới. Các cây bút dường như trầm tĩnh hơn để len lỏi vào các ngõ ngách của
cuộc sống tinh thần con người. Văn học bắt đầu khám phá về con người trên cơ
sở hệ thống quan niệm mới mà chiều sâu của nó là “triết học nhân bản”, giống
như nhà văn Nguyễn Minh Châu từng viết: “khơi nguồn cho dòng sông văn học
trở về với đời sống vốn có của nó, văn học đi sâu vào những giá trị nhân bản
nhưng bằng nhiều chiều của đời sống tâm lý con người, trong đó có mặt tốt, mặt
xấu, có cái tiêu cực, tích cực, cái thiện, cái ác…”. Càng về giai đoạn sau, văn
học càng thể hiện khuynh hướng cụ thể. Dưới cách nhìn nhận, đánh giá của một
tầng lớp đông đảo các cây bút trẻ, con người trở thành “đối tượng nghiên cứu”
của họ. Họ khám phá góc độ đời tư của con người nhằm lý giải đời sống tâm lý
phức tạp của mỗi cá nhân. Trong văn học bắt đầu xuất hiện những kiểu nhân vật
khác nhau: con người- hoàn cảnh, con người cô đơn , con người tự ý thức…mà
trước đây chưa xuất hiện cụ thể trong văn học truyền thống.
Văn học sau năm 1975 là giai đoạn văn học chịu ảnh hưởng của những
quy luật đời thường, do vậy quan niệm nghệ thuật về con người của các nhà văn
53
trong giai đoạn này bắt đầu xuất hiện ngày càng nhiều sự khác biệt so với văn
học giai đoạn trước đây. Họ quan tâm đến con người cá thể, đi sâu vào những
chi tiết của đời sống tâm hồn, nghĩa là khám phá đời sống tinh thần của con
người ở góc độ từng cá nhân riêng biệt. Có thể nói chưa bao giờ văn học lại đề
cập nhiều đến giá trị và sự sống của con người cá nhân như giai đoạn này. Ở bất
kỳ thời đại nào, con người cũng là trung tâm chú ý của văn học. Văn học trung
đại là nền văn học “phi ngã, vô ngã”, không có vị trí xứng đáng cho cá nhân.
Một thời gian dài văn học của ta chịu ảnh hưởng của triết thuyết Nho giáo chỉ
quan tâm đến con người xã hội (con người nhập thế), thủ tiêu cái cá thể, không
xem cái cá thể là sự tồn tại đầu tiên của con người. Cạnh đó, Phật giáo với
triết
lý “vô ngã” phủ nhận sự tồn tại của một “cái ngã” cá nhân. Từ thế kỷ XVII, con
người cá nhân đã xuất hiện ở những mức độ đậm nhạt khác nhau (Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ). Nhưng con người cá nhân trong văn
học trung đại xuất hiện với tư cách là cái tôi trữ tình công dân chứ chưa mang
tính chất cái tôi trữ tình cá thể, ý thức cá nhân chưa xuất hiện mạnh mẽ. Vì
thế,
văn học trung đai mới chỉ xuất hiện những yếu tố của con người cá nhân. Còn cá
nhân với giá trị tự thân, với ý nghĩa và sự sống đích thực của nó thì chưa có
hay
quá mỏng manh.
Đầu thế kỷ XX, ý thức cá nhân mới hình thành rõ rệt. Trước hết trong đời
sống xã hội do sự hình thành các đô thị mới, sự ra đời các tầng lớp mới, ảnh
hưởng của văn hóa phương Tây…trong xã hội con người cá nhân hình thành.
Lần đầu tiên con người nhận ra giá trị đích thực của cá nhân mình. Trong văn
học bắt đầu hình thành quan niệm con người cá nhân.- đặc biệt trong Thơ mới
và Tự lực văn đoàn. Nhưng con người cá nhân ở giai đoạn này càng về sau càng
cực đoan và đi đến bế tắc. Từ sau 1945, trước những đổi thay lớn lao của cộng
đồng dân tộc, con người cá nhân tự lu mờ nhỏ bé trước sức mạnh lớn lao của tập
thể. Do yêu cầu chính đáng của một giai đoạn văn học trong chiến tranh, con
người cá nhân không được đề cập đúng mức. Con người quần chúng, con người
tập thể, con người cộng đồng dân tộc trội lên thay thế những cá nhân vừa được
khẳng định nhưng sớm bế tắc của giai đoạn trước. Số phận cá nhân đôi lúc tách
khỏi số phận cộng đồng, con người xã hội và con người riêng tư có lúc không
trùng khít. Từ sau 1975 nhất là từ sau đổi mới, con người cá nhân, cá thể đã
được điều chỉnh một cách hợp lý và có chiều sâu. Trong sự chuyển đổi lớn lao
54
của đất nước, văn học cũng bắt đầu chuyển biến, đổi mới. Trong đó vấn đề cá
thể trở thành vấn đề được quan tâm nhiều nhất. Chưa bao giờ số phận cá nhân,
bi kịch cá nhân được đặt ra một cách bức xúc, mạnh mẽ như trong giai đoạn
hiện nay. Quan niệm con người cá thể ở đây không phải là cái tôi đòi hỏi tự do
duy nhất của cá thể, phủ nhận mọi cơ sở đạo đức đã được thiết lập, không hề
chịu sự tác động của xã hội mà số phận cá nhân được giải quyết thỏa đáng trong
mối liên hệ chặt chẽ với cộng đồng. Đấy chính là giá trị truyền thống và hiện
đại
về sự song hành giữa hai khái niệm riêng chung. Quan niệm con người cá thể
không dẫn đến sự cô lập hóa cá nhân với cộng đồng xã hội mà đằng sau số phận
của từng cá nhân vẫn là những vấn đề có ý nghĩa khái quát của thời đại.
Có thể nói chưa bao giờ văn học lại đề cập nhiều đến giá trị cá nhân như
trong giai đoạn văn học sau đổi mới. Đặc biệt là truyện ngắn. Từng cá nhân,
từng mảng đời thầm lặng hay sôi động đều góp phần làm nên thế giới nhân vật
đa dạng, phức tạp. Bằng nhiều cách khám phá và thể hiện độc đáo, truyện ngắn
đã khắc họa chân dung con người cá nhân một cách sinh động, sâu sắc và đa
chiều. Mỗi nhà văn đều tìm cách đi vào chiều sâu không cùng của tâm hồn con
người thấy được ở mỗi cá nhân từng niềm vui, nỗi buồn, sự đau khổ, niềm khát
khao, đam mê và cả những khát vọng…Con người xuất hiện trong văn học thực
sự là một sinh linh, một thực thể trần tục với tất cả “chất người” của nó: Có
tốt
lẫn xấu, phải và trái, cao cả lẫn thấp hèn, có lý lẫn vô lý, cái vô thức lẫn hữu
thức…Con người có dục vọng, có tha hóa, đồng thời cũng biết phản tỉnh, tự ý
thức. Qua hiện thực về con người, qua từng số phận cá nhân, các nhà văn đã lật
sới những vấn đề nhức nhối có ý nghĩa nhân sinh của thời đại. Mỗi thời đại có
một quan niệm nghệ thuật về con người. Mỗi nhà văn lại có một quan niệm
riêng châu tuần quanh quan niệm chung nhất: Con người tự ý thức của Nguyễn
Minh Châu, con người phi cá tính trong truyện ngắn Phạm Thị Hoài, con người
thực dụng trong truyện ngắn Lê Minh Khuê, con người trần thế của Hòa Vang,
con người trần tục của Nguyễn Huy Thiệp, con người “ vừa trẻ con, vừa người
lớn” trong truyện ngắn Phan Thị Vàng Anh…Tất cả đều là dạng thức của con
người cá nhân, cá thể.
Trong các nhà văn đương đại, Nguyễn Minh Châu đóng vai trò như một “
viên gạch nối” giữa hai giai đoạn văn học, trước và sau 1975. Hơn thế ông còn
là “người mở đường tinh anh” trong văn học Việt Nam hiện đại. Những tác
55
phẩm của ông thể hiện rõ nét những biến chuyển của văn học, đặc biệt là quan
niệm nghệ thuật về con người. Trước 1975, sáng tác của Nguyễn Minh Châu
chủ yếu tập trung vào việc xây dựng kiểu nhân vật lý tưởng. Nhà văn “ đi tìm
những hạt ngọc ẩn chứa trong bề sâu tâm hồn con người” đó là những con người
mang trong mình vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, nhân cách cao thượng: Khám phá
vẻ đẹp con người nơi hậu phương ( Cửa sông); ca ngợi tình yêu thủy chung, sự
gắn bó với cách mạng ( Những vùng trời khác nhau, Mảnh trăng cuối
rừng)…Sau năm 1975, Nguyễn Minh Châu bắt đầu chuyển ngòi bút sang những
vấn đề thế sự, nhân vật là những con người bình thường với những số phận cụ
thể. Đó là những thân phận bé nhỏ, tội nghiệp: gia đình cụ Khang ( Dấu chân
người lính); mẹ Êm ( Miền cháy)…Họ giống như những nốt trầm lặng lẽ giữa “
bản hợp xướng anh hùng ca ở giai đoạn cao trào”. Lấy cuộc sống con người làm
đối tượng miêu tả, nhà văn không bỏ sót một chi tiết nào được xem là đặc trưng
nhất để xây dựng hình tượng nhân vật: một lão nông có tính khí hơi bất thường
nhưng trong lòng luôn ẩn chứa một tình yêu chung thủy với quê hương, làng
xóm hay ngay cả với con bò của mình ( Lão Khúng – Phiên chợ Giát) đã bao
quát đầy đủ và chi tiết đời sống, số phận của người nông dân trong giai đoạn đổi
mới. Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh
Châu cũng là quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai đoạn tiếp
theo.
Sau năm 1986, quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học ngày
càng có nhiều nét đột phá. Con người được nhìn nhận hoàn toàn ở góc độ đời tư.
Con người trở thành đối tượng quan trọng của văn học, “là một tiểu vũ trụ đầy bí
ẩn không thể biết trước, không thể biết hết, họ đều có những đột biến tâm lý,
tính cách và những hành động bất ngờ”. Với quan niệm nghệ thuật về con người
như vậy, văn học thời kỳ đổi mới (đặc biệt là sau 1986) đã đánh dấu những mốc
quan trọng của quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam.
1.2. Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê.
Những đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của văn học giai
đoạn sau 1975, đã tác động chi phối đến hầu hết cây bút trẻ. Là nhà văn thuộc
thế hệ trước, nhưng sáng tác của Đoàn Lê chỉ thực sự có tiếng vang từ những
năm chín mươi của thế kỷ XX nên cũng không nằm ngoài sự chi phối này. Là
một cây bút luôn nhạy cảm và tinh tế trong cách nắm bắt và lý giải tâm lý nhân
56
vật, Đoàn Lê đã khám phá và chắt lọc những tính cách tâm lý điển hình để xây
dựng một thế giới nhân vật phong phú, sinh động nhưng cũng rất phức tạp. Đó
là những kiếp đời có nhiều giông bão, những số phận éo le bất hạnh bởi những
ám ảnh của chiến tranh (Một ngày xứ em) hay đó là nỗi bất hạnh của những
người con gái tài sắc nhưng không thoát nổi “ nghiệp chướng” của cái đẹp bạc
mệnh (Người đẹp xóm Chùa, Con bướm nhựa cánh xanh…), thế giới nhân vật
của bà còn có những mảng đời đói khổ, rách rưới, bần cùng vì miếng cơm manh
áo ( Hạt Vừng, Thành hoàng làng sổ số)...
Cùng với Đoàn Lê có khá nhiều cây bút nữ khác xuất hiện với những tác
phẩm ít nhiều đã để lại những dấu ấn trong lòng bạn đọc hiện đại: Nguyễn Thị
Thu Huệ, Võ Thị Hảo, Y Ban, Lý Lan, Phan Thị Vàng Anh, Vũ Thị
Thường…Các chị thường viết về những đề tài gần giống nhau, có quan điểm
sáng tác và đi tìm những đối tượng sáng tác cũng gần giống nhau. Tuy nhiên
mỗi cây bút lại có một giọng điệu khác nhau tạo nên một vườn hoa đa hương
nhiều sắc: “ Một Vũ Thị Thường sắc sảo, cô đọng; một Nguyễn Thị Ngọc Tú
chân chất, mộc mạc; một Lê Minh Khuê giàu chiêm nghiệm; một Nguyễn Thị
Ấm với lối viết tài hoa, pha chút giễu cợt đầy thiện ý; Nguyễn Thị Thu Huệ chao
chát nhưng dịu dàng và từng trải; một Y Ban đằm thắm và khắc khoải; một
Vàng Anh lạnh lùng trí tuệ và hóm hỉnh; Lý Lan hồn hậu và sắc sảo…”. Tất cả
đếu xuất phát từ tình yêu cuộc sống, niềm tin với con người của các chị. Truyện
của Đoàn Lê cũng vậy: dung dị, đơn giản nhưng sâu sắc để người đọc có thể
cảm nhận được sự tinh tế trong cách nắm bắt và khám phá cuộc sống của nhà
văn.
Nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê là những con người đi ra từ cuộc
sống. Chính vì vậy, đặc điểm đầu tiên dễ nhận thấy nhất ở nhân vật trong truyện
ngắn của Đoàn Lê chính là sự gần gũi với con người thực, cuộc đời thực như
cuộc sống hàng ngày. Các nhân vật trong truyện từ ông Sỹ Duệ (tức Sỹ thái sư),
ông Hớn, Cường xóm Chùa, lão Bạch mù, bà Chiu, cô Lầy Lầy, lão Bản…như
là nguyên bản của người thật việc thật đều xuất phát từ một không gian sống, sự
quan sát thực tế của nhà văn nơi xóm Chùa cụ thể. Họ đều là những chân dung
rất sống, có địa chỉ lý lịch hẳn hoi: lão Bạch mù chuyên chơi đàn bầu, người
luôn hài lòng với sự bình yên của xóm làng. Tiếp đến là ông sỹ Duệ- một kép
hát cải lương trên tỉnh, nhân vật trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của Đoàn
Lê,
57
cũng là người mang văn minh tân tiến đến cho dân xóm Chùa bằng việc dùng
cát sét thay cho kèn trống, loa đài trong các đám ma, đám cưới. Rồi cái Nhớn
con bà cả Thận được đoàn ca múa trung ương tuyển vào làm diễn viên, hôm nó
được về thăm nhà, hai mắt xanh lè, mí mắt rắc nhũ óng ánh, mặt mũi chỗ đỏ,
chỗ nâu, quần áo miếng xanh, miếng tím làm cả làng lác mắt. Lạ nhất là chuyện
về bà Chiu người quanh năm bán rượu nếp trên phố để nuôi lũ con ăn hại. Một
lần bà bị người tây Thụy Điển lạng tay lái ở khúc ngoặt móc vào gánh hàng, bà
được bồi thường đến 400 đô la khiến bao người ở xóm Chùa ước được như bà.
Rồi câu chuyện về cuộc đời cô gái lai tây tên Mừng chuyên hủ hóa với trai làng
rồi quy đổi ra gạo, chuyện về lão Hớn, người chuyên sản xuất tiền vàng, đô la
cho âm phủ… (Xóm Chùa Ông, Đất xóm Chùa, Trinh tiết xóm Chùa, A Toursim
xóm Chùa, Nghĩa địa xóm Chùa…). Những hành động, suy nghĩ, tâm lý của họ
là những hành động suy nghĩ của con người hiện đại giữa đời thường với những
tính toán nhỏ nhặt nhất để có miếng cơm manh áo. Vì vậy nhân vật của Đoàn Lê
rất gần với con người thực trong cuộc sống hiện đại.
Nhân vật trong sáng tác của Đoàn Lê gắn những mảng đời rất thực như
cuộc sống mà nhà văn từng chứng kiến. Họ cũng lăn lộn, đấu tranh với cuộc
sống sinh tồn hàng ngày, hàng giờ để kiếm miếng cơm, manh áo và đôi khi phải
bất chấp cả những mánh lới thủ đoạn (Thành hoàng làng sổ số, Hạt Vừng, Đất
xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa), cả chuyện “ma cũ bắt nạt ma mới” với những
thủ tục hành chính rườm rà khi nhập cư nơi ở mới dẫu là nghĩa địa (Nghĩa địa
xóm Chùa). Có khi lại là những mảnh đời bất hạnh vì sự thiếu hụt của hình hài:
Cô Huệ ( Dấu hỏi gửi Thượng đế), lão Guột (Tình Guột). Nhân vật của Đoàn Lê
có lúc là mảng đời lắm nỗi chuân chuyên của những cô gái hồng nhan nhưng
lâm vào cảnh đời trôi dạt phải bán thân nuôi miệng và nhận lấy cái chết đầy bí
ẩn (Tiểu Anh), hay cái chết âm thầm từ căn bệnh thế kỷ (Thúy) và rất nhiều cô
gái lưu lạc đến xóm biển (Con bướm nhựa cánh xanh). Nhân vật của Đoàn Lê
đôi khi là mảng đời sống nhiều chật vật, khó khăn của các văn nghệ sỹ do miếng
cơm manh áo, nơi ăn chốn ở (Tí teo hạnh phúc,), thậm chí phải biến thành Ruồi
(Lên Ruồi). Cuộc sống thời mở cửa với muôn vàn những phức tạp cũng để lại
khe hở cho những thói tham lam, lộng quyền của một số kẻ có chức có quyền
như lão Quang chủ tịch, anh em họ Đào ( Đất xóm Chùa).