Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê

3,891
283
122
8
Chƣơng I: Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê gồm
cảm hứng bi kịch và cảm hứng triết luận.
Chƣơng II: Thế giới nhân vật gồm các phần: Đặc điểm nhân vật trong
truyện ngắn của Đoàn Lê, các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện.
Chƣơng III. Một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn
gồm: Cốt truyện, tình huống truyện, không gian- thời gian, ngôn ngữ nghệ
thuật, giọng điệu nghệ thuật...
8 Chƣơng I: Cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê gồm cảm hứng bi kịch và cảm hứng triết luận. Chƣơng II: Thế giới nhân vật gồm các phần: Đặc điểm nhân vật trong truyện ngắn của Đoàn Lê, các kiểu nhân vật và phương thức biểu hiện. Chƣơng III. Một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn của Đoàn Lê gồm: Cốt truyện, tình huống truyện, không gian- thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật, giọng điệu nghệ thuật...
9
PHẦN II : NỘI DUNG
CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT
1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học
Từ trước đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau với khái niệm “Cảm hứng
nghệ thuật”, các cách hiểu đó đều thống nhất chỗ khẳng định vai trò quan
trọng của cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm. Cảm hứng nghệ thuật trong tác
phẩm văn học giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xâu nối các khối văn bản trong
tác phẩm. Cuốn Từ điển thuật ngữ n học đưa ra ki niệm về cảm hứng
nghệ thuật (hay còn gọi cảm hứng chủ đạo) “trạng thái nh cảm
nh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư
ởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc
của những người tiếp nhận tác phẩm.” [21, 32]. thể nói cảm hứng nghệ
thuật chính những cảm xúc, tình cảm chân thành của nhà văn gửi gắm trên
mỗi trang giấy. Cảm hứng nghệ thuật được xem như một điều kiện không thể
thiếu trong việc tạo ra những tác phẩm đích thực”(Bêlinxki). Nhờ “sợi dây” cảm
hứng này toàn bộ các cấp độ, các yếu tố của nội dung tác phẩm được thống
nhất trong một không khí cảm xúc nhất định. Nhưng với ý nghĩa lớn lao hơn,
cảm hứng nghệ thuật còn trở thành “công cụ đắc lực” để thông qua đó nhà văn
thể hiện thế giới quan của bản thân và khẳng định phong cách cá nhân của mình
trên văn đàn.Cảm hứng ngh thuật trong tác phẩm n học với niềm say
khng đnh i tt, cái tích cực; phnhận những điều xấu xa gi dối
sẽ đem lại cho c phẩm một luồng sinh khí, biến những tưởng khô
khan thành các hình ợng sinh động, tạo ra một bầu khí quyển ng
bỏng, biến tác phẩm trở tnh một sợi dây truyền tình cm của tác giả
đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cm xúc của nhà
n, n thơ sẽ khiếncảm hứng chđạo của tác phẩm chi phối sthống
nhất cảm c của nh tượng, chi phi hthống nghệ thuật biểu cảm của
c phẩm”.
Đối với truyện ngắn, cảm hứng nghệ thuật càng đóng một vai trò vô cùng
quan trọng. Người ta thường nói về thể loại truyện ngắn như một “lát cắt của
mặt gỗ”, “sự dồn n đặc lại”, một “khoảnh khắc ngắn ngủi” của đời
sống được lồng vào trong một thiên truyện chỉ dài mấy ơi trang giấy. Tuy
9 PHẦN II : NỘI DUNG CHƢƠNG I. CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT 1. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học Từ trước đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau với khái niệm “Cảm hứng nghệ thuật”, các cách hiểu đó đều thống nhất ở chỗ khẳng định vai trò quan trọng của cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học giống như sợi chỉ đỏ xuyên suốt, xâu nối các khối văn bản trong tác phẩm. Cuốn Từ điển thuật ngữ văn học đưa ra khái niệm về cảm hứng nghệ thuật (hay còn gọi là cảm hứng chủ đạo) là “trạng thái tình cảm mãnh liệt, say đắm xuyên suốt tác phẩm nghệ thuật, gắn liền với một tư tưởng xác định, một sự đánh giá nhất định, gây tác động đến cảm xúc của những người tiếp nhận tác phẩm.” [21, 32]. Có thể nói cảm hứng nghệ thuật chính là những cảm xúc, tình cảm chân thành của nhà văn gửi gắm trên mỗi trang giấy. Cảm hứng nghệ thuật được xem như “một điều kiện không thể thiếu trong việc tạo ra những tác phẩm đích thực”(Bêlinxki). Nhờ “sợi dây” cảm hứng này mà toàn bộ các cấp độ, các yếu tố của nội dung tác phẩm được thống nhất trong một không khí cảm xúc nhất định. Nhưng với ý nghĩa lớn lao hơn, cảm hứng nghệ thuật còn trở thành “công cụ đắc lực” để thông qua đó nhà văn thể hiện thế giới quan của bản thân và khẳng định phong cách cá nhân của mình trên văn đàn.Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học với niềm say mê khẳng định cái tốt, cái tích cực; phủ nhận những điều xấu xa giả dối sẽ đem lại cho tác phẩm một luồng sinh khí, biến những tư tưởng khô khan thành các hình tượng sinh động, tạo ra một bầu khí quyển nóng bỏng, biến tác phẩm trở thành một sợi dây truyền tình cảm của tác giả đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cảm xúc của nhà văn, nhà thơ sẽ khiến “cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chi phối sự thống nhất cảm xúc của hình tượng, chi phối hệ thống nghệ thuật biểu cảm của tác phẩm”. Đối với truyện ngắn, cảm hứng nghệ thuật càng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Người ta thường nói về thể loại truyện ngắn như một “lát cắt của mặt gỗ”, là “sự dồn nén và cô đặc lại”, một “khoảnh khắc ngắn ngủi” của đời sống được lồng vào trong một thiên truyện chỉ dài mấy mươi trang giấy. Tuy
10
nhiên sức gợi cảm của thể loại này lại rất lớn và thường mang tính chất mở ở s
ngắn gọn đọng của nó. Truyện ngắn nên gọn nhưng phải tinh tế n
nhọn về tưởng nghệ thuật. Chính tính chất ngắn gọn ấy mà cảm hứng chủ
đạo của tác phẩm trở thành “chất keo” gắn kết ý tứ và các phần nội dung để trở
thành một thiên tác phẩm giá trị. Bởi vậy thể coi cảm hứng chủ đạo gần
như linh hồn của tác phẩm. Nếu thiếu đi linh hồn, tác phẩm chỉ còn i xác
khô cứng và đương nhiên sẽ không thể sống trong lòng độc giả. Nếu như đối với
truyện dài và tiểu thuyết, do dung lượng lớn n việc miêu tả chi tiết sự vận
động của một m hồn, một tính cách với những diễn biến tâm lý phức tạp nhằm
đạt tới chiều dài của một cuộc đời và sự khái quát hóa về một số phận con người
nên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm được thể hiện rất thì truyện ngắn do
dung lượng tác phẩm có hạn, cảm xúc của tác giả càng phải dồn nén nhiều hơn.
Vì thế mà có nhiều nhận xét cho rằng: truyện ngắn gần với thơ hơn các thể loại
tự sự khác như truyện dài và tiểu thuyết. Ở một số truyện ngắn có xuất hiện các
“tứ”. “Tứ” trong truyện ngắn chính là “chủ đề nhưng đã gắn với hình ảnh, với
chất liệu” (Ma n Kháng). “Tứ” là yếu tố chủ yếu tạo nên “chất thơ” trong
truyện ngắn. Chất thơ hay tính chất trữ tình trong tác phẩm truyện ngắn toát lên
từ khung cảnh, chất liệu, từ không khí chung của toàn tác phẩm, hay từ sự hòa
hợp giữa yêú tố khách quan chủ quan của toàn thiên truyện .Truyện ngắn
ng có điểm tương đng với thơ ch những c cảm tâm thường
bộc lộ một cách cao đn, thể hiện nội dung tư ng một cách nổi bật,
tập trung vào một vấn đề nn sinh trng m ch không dàn trải như
thloi tiểu thuyết, như lời nhận xét của nhà n Lỗ Tấn qua một mảng
ng biết tn bộ con o, qua một con mắt truyền được cả tinh
thần”. Vì vậy, truyện ngắn luôn đòi hỏi cm hứng nghệ thuật phải dồi
o, có định ng, từ đó thể hiện nội dung tư tưởng một cách s ắc n
tạo nên một cấu trúc nghthuật chặt chẽ, i hòa giữa yếu tlí trí và
nh cm.
Cảm hứng nghthuật kng phải tình cm đượcng n tnh
một phát ngôn trong tác phẩm, tình cm người đọc cảm nhận
được tnh huống, tkhung cnh, từ chất liệu, từ không k chung của
toàn c phẩm. luận n học coi cảm hứng ngh thuật là một yếu t
của bản tn nội dung nghệ thuật, của ti độ tư tưởng c cảm của nhà
10 nhiên sức gợi cảm của thể loại này lại rất lớn và thường mang tính chất mở ở sự ngắn gọn và cô đọng của nó. Truyện ngắn nên gọn nhưng phải tinh tế và bén nhọn về tư tưởng nghệ thuật. Chính vì tính chất ngắn gọn ấy mà cảm hứng chủ đạo của tác phẩm trở thành “chất keo” gắn kết ý tứ và các phần nội dung để trở thành một thiên tác phẩm có giá trị. Bởi vậy có thể coi cảm hứng chủ đạo gần như linh hồn của tác phẩm. Nếu thiếu đi linh hồn, tác phẩm chỉ còn là cái xác khô cứng và đương nhiên sẽ không thể sống trong lòng độc giả. Nếu như đối với truyện dài và tiểu thuyết, do dung lượng lớn nên việc miêu tả chi tiết sự vận động của một tâm hồn, một tính cách với những diễn biến tâm lý phức tạp nhằm đạt tới chiều dài của một cuộc đời và sự khái quát hóa về một số phận con người nên cảm hứng chủ đạo của tác phẩm được thể hiện rất rõ thì truyện ngắn do dung lượng tác phẩm có hạn, cảm xúc của tác giả càng phải dồn nén nhiều hơn. Vì thế mà có nhiều nhận xét cho rằng: truyện ngắn gần với thơ hơn các thể loại tự sự khác như truyện dài và tiểu thuyết. Ở một số truyện ngắn có xuất hiện các “tứ”. “Tứ” trong truyện ngắn chính là “chủ đề nhưng đã gắn với hình ảnh, với chất liệu” (Ma Văn Kháng). “Tứ” là yếu tố chủ yếu tạo nên “chất thơ” trong truyện ngắn. Chất thơ hay tính chất trữ tình trong tác phẩm truyện ngắn toát lên từ khung cảnh, chất liệu, từ không khí chung của toàn tác phẩm, hay từ sự hòa hợp giữa yêú tố khách quan và chủ quan của toàn thiên truyện .Truyện ngắn cũng có điểm tương đồng với thơ ở chỗ những xúc cảm tâm lý thường bộc lộ một cách cao độ hơn, thể hiện nội dung tư tưởng một cách nổi bật, tập trung vào một vấn đề nhân sinh trọng tâm chứ không dàn trải như ở thể loại tiểu thuyết, như lời nhận xét của nhà văn Lỗ Tấn “qua một mảng lông mà biết toàn bộ con báo, qua một con mắt mà truyền được cả tinh thần”. Vì vậy, truyện ngắn luôn đòi hỏi cảm hứng nghệ thuật phải dồi dào, có định hướng, từ đó thể hiện nội dung tư tưởng một cách s ắc bén và tạo nên một cấu trúc nghệ thuật chặt chẽ, hài hòa giữa yếu tố lí trí và tình cảm. Cảm hứng nghệ thuật không phải là tình cảm được xướng lê n thành một phát ngôn trong tác phẩm, nó là tình cảm mà người đọc cảm nhận được từ tình huống, từ khung cảnh, từ chất liệu, từ không khí chung của toàn tác phẩm. Lí luận văn học coi cảm hứng nghệ thuật là một yếu tố của bản thân nội dung nghệ thuật, của thái độ tư tưởng xúc cảm của nhà
11
n với thế giới được tả. Cm hng ngh thuật trong tác phẩm n
học ln thống nhất với đ i và ng tác phẩm, tạo n cho tác
phẩm một sự thống nhất mọi cấp độ. Đồng thời, cảm hứng ngh thuật
n thể hiện được thế giới quan của nhà văn, bộc lộ được quan điểm của
nhà n trước mọi vấn đ của cuộc sống. Cảm hứng nghthuật trong tác
phẩm có vai t quan trọng, vai trò không thể thiếu, như linxki đã
i, bởi nó “biến s chiếm lĩnh thuần túy t óc đối với tư ng tnh
nh yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một kt vọng nhiệt
thành”.
2. Cảm hứng nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975
Cảm hứng chủ đạo trong văn chương Việt Nam trước m 1975
gắn liền với những sự kiện lớn lao ln quan tới vận mệnh dân tộc:
ng cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và sự nghiệp y dựng Tổ quốc.
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), đi sống con ngưi đổi khác,
ởng, m lí, nhu cu vật chất tinh thần của con người cũng không
n như trước, vy n học cũng không thể chỉ mang mãi cm hứng
. Hiện thực cuộc sống đời thường sau chiến tranh m ra những vùng
đất mới, ki gợi những nguồn cả m hứng mới mẻ cho các n văn. Sau
1975, cảm hứng ngợi ca trong văn học không còn đóng vai trò chủ đạo như
trong văn học 30 năm trước. Đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học gần với đời
sống hiện thực hơn. Các nhà văn đã đụng đến một số hiện tượng ít được đề cập
trong văn học trước 1975 như phơi bày một vài mặt tiêu cực trong hội hoặc
nhìn thẳng vào những tổn thất nặng nề trong chiến tranh hay bước đầu đề cập
đến bi kịch cá nhân.
Đất nước cần được đổi mới toàn diện sâu sắc, văn học cũng đòi hỏi
như vậy. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt
Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định “đổi mới
đang là nhu cầu bức thiết”, “có ý nghĩa sống còn” và nói rõ: “Thái độ của Đảng
ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh gía đúng sự thật,
nói rõ sự thật”. Đại hội Đảng lần thứ VI là một sự kiện lịch sử trọng đại đã cắm
một cột mốc lớn đánh dấu sự đổi mới mạnh m của nền văn học ớc nhà.
Thành tựu quan trọng nhất của văn học sau 1975 là sự đổi mới trong ý thức nghệ
thuật của giới cầm bút. Sau Đại hội Đảng lần VI, hầu hết người làm thơ, viết văn
11 văn với thế giới được mô tả. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm văn học luôn thống nhất với đề tài và tư tưởng tác phẩm, nó tạo nên cho tác phẩm một sự thống nhất ở mọi cấp độ. Đồng thời, cảm hứng nghệ thuật còn thể hiện được thế giới quan của nhà văn, bộc lộ được quan điểm của nhà văn trước mọi vấn đề của cuộc sống. Cảm hứng nghệ thuật trong tác phẩm có vai trò quan trọng, có vai trò không thể thiếu, như Bêlinxki đã nói, bởi nó “biến sự chiếm lĩnh thuần túy trí óc đối với tư tưởng thành tình yêu đối với tư tưởng, một tình yêu mạnh mẽ, một khát vọng nhiệt thành”. 2. Cảm hứng nghệ thuật trong văn học Việt Nam sau 1975 Cảm hứng chủ đạo trong văn chương Việt Nam trước năm 1975 gắn liền với những sự kiện lớn lao có liên quan tới vận mệnh dân tộc: công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và sự nghiệp xây dựng Tổ quốc. Sau ngày đất nước thống nhất (1975), đời sống con người đổi khác, tư tưởng, tâm lí, nhu cầu vật chất và tinh thần của con người cũng không còn như trước, vì vậy văn học cũng không thể chỉ mang mãi cảm hứng cũ. Hiện thực cuộc sống đời thường sau chiến tranh mở ra những vùng đất mới, khơi gợi những nguồn cả m hứng mới mẻ cho các nhà văn. Sau 1975, cảm hứng ngợi ca trong văn học không còn đóng vai trò chủ đạo như trong văn học 30 năm trước. Đề tài, chủ đề của tác phẩm văn học gần với đời sống hiện thực hơn. Các nhà văn đã đụng đến một số hiện tượng ít được đề cập trong văn học trước 1975 như phơi bày một vài mặt tiêu cực trong xã hội hoặc nhìn thẳng vào những tổn thất nặng nề trong chiến tranh hay bước đầu đề cập đến bi kịch cá nhân. Đất nước cần được đổi mới toàn diện và sâu sắc, văn học cũng đòi hỏi như vậy. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng khẳng định “đổi mới đang là nhu cầu bức thiết”, “có ý nghĩa sống còn” và nói rõ: “Thái độ của Đảng ta trong việc đánh giá tình hình là nhìn thẳng vào sự thật, đánh gía đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đại hội Đảng lần thứ VI là một sự kiện lịch sử trọng đại đã cắm một cột mốc lớn đánh dấu sự đổi mới mạnh mẽ của nền văn học nước nhà. Thành tựu quan trọng nhất của văn học sau 1975 là sự đổi mới trong ý thức nghệ thuật của giới cầm bút. Sau Đại hội Đảng lần VI, hầu hết người làm thơ, viết văn
12
thuộc các thế hệ khác nhau đều chung một ý nghĩ “không thể viết như cũ được
nữa” (Lê Lựu trả lời phỏng vấn báo Quân đội nhân dân, ngày 24/4/1988). Và t
đó, một khuynh ớng n học mới phát triển mạnh mẽ với i nhìn hiện
thực thẳng thắn hơn, đa chiều hơn. Công cuộc đổi mới càng ny ng
phát triển cả bề rộng lẫn chiu sâu, sự đổi mới diễn ra từ tưởng
thẩm mĩ đến hệ thống thể loại, thi pp và phong cách nghệ thuật. Các
nhà n không còn “nhìn đời nhìn người một phía”, họ kng chỉ
dừng lại cảm hứng ngợi ca nhận thức được rằng hiện thực không
phải một i gì đơn giản, xuôi chiều; con người một sinh thể phong
phú, phức tạp, còn nhiều bí n phi km p; nhà văn phi là nời
tưởng, phải nhập cuộc bằng tưởng chkhông chbằng nhiệt tình và
trong tìm tòi ng tạo kng chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng đồng còn
phải dựa o kinh nghim của cá nhân mình nữa; đc giả kng phải là
những đối tượng để thuyết go những nời bạn đ giao u, đối
thoại một cách bình đẳng[42,16]. Với cái nhìn đa chiều ấy, n học
đồng thời cũng xuất hiện những cảm hứng n học thời chiến tranh
rất ít xuất hin như: cm hứng bi kịch, cảm hứng to lộng.
Cảm hứng bi kịch khai thác những bi kịch đổi đời; bi kịch hậu
chiến; bi kịch tình u, n nn…phản ánh đúng những bộn bề của
cuộc sống của thời kinh tế thị trường đầy o động. Những c phẩm
mang cảm hứng y đánh dấu s khởi sắc của văn cơng thời kỳ đổi
mới. th nhắc tới những ng c giai đoạn đầu n Đt trắng
(Nguyễn Trọng Oánh), Người đàn trên chuyến u tốc hành (Nguyễn
Minh Cu), Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong ờn (Ma n
Kháng)…Và chặng đường sau ng loạt những n tuổi như Bảo
Ninh, Đn , Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Th Thu Huệ
Cảm hứng phê pn, cảm hứng trào lộng cũng một ngun cả m
hứng lớn trong n học giai đoạn này. Khi ý thức nn phát triển, khi
con người kng còn được nhìn góc nhìn lịch s, ng n nữa
ch yếu được nn nhn phương diện nn trong quan hệ đi
thường, những bi, hài kịch bắt đầu xuất hiện. Cảm hứng to lộng m ra
những bức tranh cuộc sống vi nhiều mảng màu tương phả n: niềm vui
chiến thắng xen với nỗi buồn mất t, sự đủ đy của vật chất thời mở
12 thuộc các thế hệ khác nhau đều chung một ý nghĩ “không thể viết như cũ được nữa” (Lê Lựu trả lời phỏng vấn báo Quân đội nhân dân, ngày 24/4/1988). Và từ đó, một khuynh hướng văn học mới phát triển mạnh mẽ với cái nhìn hiện thực thẳng thắn hơn, đa chiều hơn. Công cuộc đổi mới càng ngày càng phát triển cả ở bề rộng lẫn chiều sâu, sự đổi mới diễn ra từ tư tưởng thẩm mĩ đến hệ thống thể loại, thi pháp và phong cách nghệ thuật. Các nhà văn không còn “nhìn đời và nhìn người một phía”, họ không chỉ dừng lại ở cảm hứng ngợi ca mà nhận thức được rằng “hiện thực không phải là một cái gì đơn giản, xuôi chiều; con người là một sinh thể phong phú, phức tạp, còn nhiều bí ẩn phải khám phá; nhà văn phải là người có tư tưởng, phải nhập cuộc bằng tư tưởng chứ không chỉ bằng nhiệt tình và trong tìm tòi sáng tạo không chỉ dựa vào kinh nghiệm cộng đồng mà còn phải dựa vào kinh nghiệm của cá nhân mình nữa; độc giả không phải là những đối tượng để thuyết giáo mà là những người bạn để giao lưu, đối thoại một cách bình đẳng…[42,16]. Với cái nhìn đa chiều ấy, văn học đồng thời cũng xuất hiện những cảm hứng mà văn học thời chiến tranh rất ít xuất hiện như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng trào lộng…. Cảm hứng bi kịch khai thác những bi kịch đổi đời; bi kịch hậu chiến; bi kịch tình yêu, hôn nhân…phản ánh đúng những bộn bề của cuộc sống của thời kinh tế thị trường đầy xáo động. Những tác phẩm mang cảm hứng này đánh dấu sự khởi sắc của văn chương thời kỳ đổi mới. Có thể nhắc tới những sáng tác ở giai đoạn đầu như Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (Nguyễn Minh Châu), Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)…Và ở chặng đường sau là hàng loạt những tên tuổi như Bảo Ninh, Đoàn Lê, Võ Thị Hảo, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ… Cảm hứng phê phán, cảm hứng trào lộng cũng là một nguồn cả m hứng lớn trong văn học giai đoạn này. Khi ý thức cá nhân phát triển, khi con người không còn được nhìn ở góc nhìn lịch sử, công dân nữa mà chủ yếu được nhìn nhận ở phương diện cá nhân trong quan hệ đời thường, những bi, hài kịch bắt đầu xuất hiện. Cảm hứng trào lộng mở ra những bức tranh cuộc sống với nhiều mảng màu tương phả n: niềm vui chiến thắng xen với nỗi buồn mất mát, sự đủ đầy của vật chất thời mở
13
cửa lại mầm mống của mất mát đạo đức, nh cm trong cuộc sống
tinh thần, hạnh phúc tồn tại song song với những bất hạnh của đời
thường…Những hiện ng d kc d ời diễ n ra trong cuộc sống tạo
thành nguồn cảm hứng cho các c giả sáng tác. Cái i nhân càng
được đề cao, thì việc khai thác vào tận cùng của những nỗi niềm càng
được chú ý tới và thế n chương ngày càng sâu sắc hơn. Chính vì
vậy ng tác n học trong giai đoạn này đã đạt được đến những tnh
ng nhất định khi Vấn đề quyền sng, nỗi đau khổ hạnh phúc của
con nời đưc khai thác trong n cơng với cảm hng nhân đo sâu
sắc [46,3].
Việc m hiểu những đặc điểm tu biểu của n học Việt Nam sau
m 1975 một điều quan trọng, trong i Khái quát về n học Việt
Nam từ ch mạng tháng tám 1975 đến hết thế kXX [42,17] nhn t
về n học thời k đi mới n sau “cảm hứng thế s ng mạnh, trong
khi cm hứng s thi lãng mạn giảm dn; t đó văn học quan tâm nhiều
n ti s phận cá nhân trong nhng quy luật phức tạp của đời thường;
nội m của nhân vật được khai tc sâu n, bút pp hướng nội đưc
phát huy, kng gian đời tư được c ý, thời gian tâm lý ngày càng mở
rộng, phương thức trần thuật trở nên đa dạng, giọng điệu trần thuật trở
n phong p hơn; ngôn ng n học ng gần với hiện thực đời
thường hơn…”[42,18]. Từ đó th thấy sự c động to lớn của cảm
hứng nghệ thuật với các tnh tố khác trong n cơng. m hiểu được
kỹ cm hứng nghệ thuật người nghn cứu shiểu thế giới ngh thuật,
quan nim sáng tác, phong cách nhà văn, thậm c của c một giai đoạn
n học.
một y bút ít nhiều để lại dấu ấn của mình trên văn đàn hôm nay,
truyện ngắn của Đoàn Lê thường xuất phát từ những nguồn cảm hứng chủ đạo
như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán trào lộng, cảm hứng triết luận… Từ
những nguồn cảm hứng đó, nhà văn đã mạnh dạn đưa vào tác phẩm những bức
tranh chân thực, sống động về cuộc sống hiện thực đời thường “ như nó vốn có”.
Từ đó cung cấp cho người đọc những cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống
thời đổi mới.
13 cửa lại là mầm mống của mất mát đạo đức, tình cảm trong cuộc sống tinh thần, hạnh phúc tồn tại song song với những bất hạnh của đời thường…Những hiện tượng dở khóc dở cười diễ n ra trong cuộc sống tạo thành nguồn cảm hứng cho các tác giả sáng tác. Cái Tôi cá nhân càng được đề cao, thì việc khai thác vào tận cùng của những nỗi niềm càng được chú ý tới và vì thế mà văn chương ngày càng sâu sắc hơn. Chính vì vậy sáng tác văn học trong giai đoạn này đã đạt được đến những thành công nhất định khi Vấn đề quyền sống, nỗi đau khổ và hạnh phúc của con người được khai thác trong văn chương với cảm hứng nhân đạo sâu sắc [46,3]. Việc tìm hiểu những đặc điểm tiêu biểu của văn học Việt Nam sau năm 1975 là một điều quan trọng, vì trong bài Khái quát về văn học Việt Nam từ cách mạng tháng tám 1975 đến hết thế kỷ XX [42,17] có nhận xét về văn học thời kỳ đổi mới như sau “cảm hứng thế sự tăng mạnh, trong khi cảm hứng sử thi lãng mạn giảm dần; từ đó văn học quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những quy luật phức tạp của đời thường; nội tâm của nhân vật được khai thác sâu hơn, bút pháp hướng nội được phát huy, không gian đời tư được chú ý, thời gian tâm lý ngày càng mở rộng, phương thức trần thuật trở nên đa dạng, giọng điệu trần thuật trở nên phong phú hơn; ngôn ngữ văn học cũng gần với hiện thực đời thường hơn…”[42,18]. Từ đó có thể thấy sự tác động to lớn của cảm hứng nghệ thuật với các thành tố khác trong văn chương. Tìm hiểu được kỹ cảm hứng nghệ thuật người nghiên cứu sẽ hiểu rõ thế giới nghệ thuật, quan niệm sáng tác, phong cách nhà văn, thậm chí của cả một giai đoạn văn học. Là một cây bút ít nhiều để lại dấu ấn của mình trên văn đàn hôm nay, truyện ngắn của Đoàn Lê thường xuất phát từ những nguồn cảm hứng chủ đạo như: cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán trào lộng, cảm hứng triết luận… Từ những nguồn cảm hứng đó, nhà văn đã mạnh dạn đưa vào tác phẩm những bức tranh chân thực, sống động về cuộc sống hiện thực đời thường “ như nó vốn có”. Từ đó cung cấp cho người đọc những cái nhìn đa diện, đa chiều về cuộc sống thời đổi mới.
14
3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê.
3.1 Cảm hứng bi kịch.
Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học từ rất sớm. Tuy nhiên phải đến
văn học hiện đại nguồn cảm hứng này mới được thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc
sống thời mở cửa có nhiều thay đổi do sự thâm nhập của nền kinh tế thị trường.
Sự thay đổi ấy dẫn đến biết bao bi kịch của con người.
Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học Việt Nam từ xa xưa nhưng mới
chỉ nằm rải rác trong các giai đoạn n học chưa sự tập trung thành hệ
thống. Từ thời văn học n gian đã xuất hiện những tấn bi kịch: bi kịch nước
mất nhà tan trong truyền thuyết An Dương Vương Mỵ Châu Trọng Thủy, bi
kịch hôn nhân gả bán, ép buộc trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu của tộc
người Thái, bi kịch thân phận người phụ nữ - những con người thấp cổ bé họng,
những “con sâu i kiến” trong hội cũ Ca dao. Văn học trung đại thế kỷ
XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện hàng loạt bi kịch của những hồng
nhan bạc mệnh”, “hồng nhan đa truân” như bi kịch của những người cung nữ
xinh đẹp bị biến thành đồ chơi rồi bị bỏ quên nơi lãnh cung trong Cung oán
ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều hay bi kịch của người chinh phụ có chồng đi
chinh chiến trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn , bi kịch của người con
gái đẹp nghiêng nước nghiêng thành” nhưng cuộc đời một chuỗi những bất
hạnh khổ đau trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, bi kịch về thân phận khổ đau
bất hạnh phải chịu cảnh chồng chung cùng muôn vàn những hủ tục giàng buộc
người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Bước sang giai đoạn văn học
hiện đại, phong trào Thơ mới là chuỗi bi kịch của cái “tôi” cá nhân, cá thể. Đó
là một cái tôi đơn bế tắc hoàn toàn đối lập với xã hội, một cái tôi được đào
sâu đến tận cùng và càng đi sâu càng thấy lạnh: Thế Lữ thoát lên tiên nhưng
động tiên đã khép, Lưu Trọng phiêu diêu trong trường tình nhưng tình u
không bền, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng rồi lại tỉnh, Xuân Diệu say
đắm vẫn bơ vơ…Đến văn học 30 m chiến tranh, cảm hứng bi kịch vẫn chưa
một vị trí đáng kể do những điều kiện khách quan của lịch sử. Phải đến
những năm 80 của thế kỷ XX, cảm hứng bi kịch mới trở thành một trong những
nguồn cảm hứng xuyên suốt trong văn học. Lúc này do sự tác động của nền kinh
tế thị trường cùng xu thế toàn cầu hóa, văn học sự biến đổi nhanh chóng để
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Cuộc sống xã hội muôn màu, muôn vẻ tạo
14 3. Những cảm hứng nghệ thuật cơ bản trong truyện ngắn của Đoàn Lê. 3.1 Cảm hứng bi kịch. Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học từ rất sớm. Tuy nhiên phải đến văn học hiện đại nguồn cảm hứng này mới được thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc sống thời mở cửa có nhiều thay đổi do sự thâm nhập của nền kinh tế thị trường. Sự thay đổi ấy dẫn đến biết bao bi kịch của con người. Cảm hứng bi kịch xuất hiện trong văn học Việt Nam từ xa xưa nhưng mới chỉ nằm rải rác trong các giai đoạn văn học mà chưa có sự tập trung thành hệ thống. Từ thời văn học dân gian đã xuất hiện những tấn bi kịch: bi kịch nước mất nhà tan trong truyền thuyết An Dương Vương và Mỵ Châu Trọng Thủy, bi kịch hôn nhân gả bán, ép buộc trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu của tộc người Thái, bi kịch thân phận người phụ nữ - những con người thấp cổ bé họng, những “con sâu cái kiến” trong xã hội cũ ở Ca dao. Văn học trung đại thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX xuất hiện hàng loạt bi kịch của những “hồng nhan bạc mệnh”, “hồng nhan đa truân” như bi kịch của những người cung nữ xinh đẹp bị biến thành đồ chơi rồi bị bỏ quên nơi lãnh cung trong Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều hay bi kịch của người chinh phụ có chồng đi chinh chiến trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn , bi kịch của người con gái đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” nhưng cuộc đời là một chuỗi những bất hạnh khổ đau trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, bi kịch về thân phận khổ đau bất hạnh phải chịu cảnh chồng chung cùng muôn vàn những hủ tục giàng buộc người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương… Bước sang giai đoạn văn học hiện đại, phong trào Thơ mới là chuỗi bi kịch của cái “tôi” cá nhân, cá thể. Đó là một cái “tôi” cô đơn bế tắc hoàn toàn đối lập với xã hội, một cái tôi được đào sâu đến tận cùng và càng đi sâu càng thấy lạnh: Thế Lữ thoát lên tiên nhưng động tiên đã khép, Lưu Trọng Lư phiêu diêu trong trường tình nhưng tình yêu không bền, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên điên cuồng rồi lại tỉnh, Xuân Diệu say đắm vẫn bơ vơ…Đến văn học 30 năm chiến tranh, cảm hứng bi kịch vẫn chưa có một vị trí đáng kể do những điều kiện khách quan của lịch sử. Phải đến những năm 80 của thế kỷ XX, cảm hứng bi kịch mới trở thành một trong những nguồn cảm hứng xuyên suốt trong văn học. Lúc này do sự tác động của nền kinh tế thị trường cùng xu thế toàn cầu hóa, văn học có sự biến đổi nhanh chóng để phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới. Cuộc sống xã hội muôn màu, muôn vẻ tạo
15
nên những tình huống bi kịch, những xung đột điển hình cho văn học. “Cái nhất
thời trong cái muôn đời, cái độc ác nằm trong cái nhân hậu, i cực đoan nằm
giữa cái tinh thần xởi lởi, cởi mở, cái nhảy cẫng lên lấc láo lên giữa cái dung dị,
thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần trách nhiệm đầy suy nghĩ” [10] . Hiện
thực cuộc sống thời hậu chiến với bộn bề những vấn đề nhức nhối đã khơi
nguồn cảm hứng bi kịch cho những nhà văn giai đoạn văn học này.
Sau khi hòa bình lập lại, nỗi đau và sự mất mát chiến tranh để lại
những căn nguyên u xa của những tấn bi kịch con người hậu chiến phải
gánh chịu. Thêm vào đó, cuộc sống thời mở cửa với tốc độ đô thị hóa chóng mặt
căn nguyên dẫn tới những tấn bi kịch thương tâm cho biết bao gia đình.
nhà văn thuộc thế hệ “gạch nối giữa hai thời kỳ của đất nước”, n nữa bản thân
Đoàn đã từng sống chứng kiến, thậm chí trải nghiệm nỗi đau tột cùng và
những mất mát lớn lao của con người do chiến tranh gây ra. Bởi vậy những
trang viết về chiến tranh của luôn sâu sắc và cảm động.
3.1.1 Bi kịch chiến tranh
Chiến tranh bao giờ cũng là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với tất cả những
ai từng trải qua nó. đó có nỗi đau, có sự hy sinh mất mát. Đoàn Lê thuộc thế
hệ nhà văn sinh ra lớn lên trong thời chiến, được tận mắt chứng kiến cuộc
sống cùng cực của con người dưới bom đạn chiến tranh. Bản thân Đoàn Lê suốt
thời thơ ấu biết bao lần cùng những chị em của mình chạy tản cư: giặc càn rất dữ
dội, chúng lùng sục, bắt bớ, bắn giết người rất dã man, rồi cảnh nhà tan tác chia
ly, người còn người mất... Những ký ức đau thương ấy được nhà văn biến thành
những liệu quý giá cho những trang viết của mình. Cũng nhờ những trải
nghiệm thực tế ấy mà cách tiếp cận bi kịch của nhà văn dường như có phần sâu
sắc, xúc động hơn.
Khảo sát toàn bộ sáng tác của Đoàn Lê, chúng ta nhận thấy hầu như mọi
sáng tác của bà đều bắt nguồn từ cảm hứng bi kịch: bi kịch chiến tranh, bi kịch
tình yêu hôn nhân- gia đình, bi kịch từ cuộc sống thời mở cửa…Trong đó những
trang viết của Đoàn Lê về bi kịch chiến tranh không nhiều nhưng lại có sức ám
ảnh thật ghê gớm với lòng người.
Viết về đề tài chiến tranh, người đọc biết đến rất nhiều cây bút tên
tuổi như: Chu Lai với Ăn mày vãng”, “Vòng tròn bội bạc”; Nguyễn Minh
Châu với “Miền cháy”, Bảo Ninh với “Nỗi buồn chiến tranh”, Lựu với
15 nên những tình huống bi kịch, những xung đột điển hình cho văn học. “Cái nhất thời trong cái muôn đời, cái độc ác nằm trong cái nhân hậu, cái cực đoan nằm giữa cái tinh thần xởi lởi, cởi mở, cái nhảy cẫng lên lấc láo lên giữa cái dung dị, thái độ bình thản chịu đựng và tinh thần trách nhiệm đầy suy nghĩ” [10] . Hiện thực cuộc sống thời hậu chiến với bộn bề những vấn đề nhức nhối đã khơi nguồn cảm hứng bi kịch cho những nhà văn giai đoạn văn học này. Sau khi hòa bình lập lại, nỗi đau và sự mất mát mà chiến tranh để lại là những căn nguyên sâu xa của những tấn bi kịch mà con người hậu chiến phải gánh chịu. Thêm vào đó, cuộc sống thời mở cửa với tốc độ đô thị hóa chóng mặt là căn nguyên dẫn tới những tấn bi kịch thương tâm cho biết bao gia đình. Là nhà văn thuộc thế hệ “gạch nối giữa hai thời kỳ của đất nước”, hơn nữa bản thân Đoàn Lê đã từng sống chứng kiến, thậm chí trải nghiệm nỗi đau tột cùng và những mất mát lớn lao của con người do chiến tranh gây ra. Bởi vậy những trang viết về chiến tranh của bà luôn sâu sắc và cảm động. 3.1.1 Bi kịch chiến tranh Chiến tranh bao giờ cũng là nỗi ám ảnh lớn nhất đối với tất cả những ai từng trải qua nó. Ở đó có nỗi đau, có sự hy sinh mất mát. Đoàn Lê thuộc thế hệ nhà văn sinh ra và lớn lên trong thời chiến, được tận mắt chứng kiến cuộc sống cùng cực của con người dưới bom đạn chiến tranh. Bản thân Đoàn Lê suốt thời thơ ấu biết bao lần cùng những chị em của mình chạy tản cư: giặc càn rất dữ dội, chúng lùng sục, bắt bớ, bắn giết người rất dã man, rồi cảnh nhà tan tác chia ly, người còn người mất... Những ký ức đau thương ấy được nhà văn biến thành những tư liệu quý giá cho những trang viết của mình. Cũng nhờ những trải nghiệm thực tế ấy mà cách tiếp cận bi kịch của nhà văn dường như có phần sâu sắc, xúc động hơn. Khảo sát toàn bộ sáng tác của Đoàn Lê, chúng ta nhận thấy hầu như mọi sáng tác của bà đều bắt nguồn từ cảm hứng bi kịch: bi kịch chiến tranh, bi kịch tình yêu hôn nhân- gia đình, bi kịch từ cuộc sống thời mở cửa…Trong đó những trang viết của Đoàn Lê về bi kịch chiến tranh không nhiều nhưng lại có sức ám ảnh thật ghê gớm với lòng người. Viết về đề tài chiến tranh, người đọc biết đến rất nhiều cây bút có tên tuổi như: Chu Lai với “Ăn mày dĩ vãng”, “Vòng tròn bội bạc”; Nguyễn Minh Châu với “Miền cháy”, Bảo Ninh với “Nỗi buồn chiến tranh”, Lê Lựu với
16
Thời xa vắng”…Họ viết về chiến tranh bằng tất cả sự xúc động của người trong
cuộc- những người lính đã đi qua cuộc chiến tranh. Bởi thế, qua những trang
viết của mình, họ đã tái hiện được rất chân thực bộ mặt tàn khốc của chiến tranh.
Đoàn Lê cũng là nhà văn sống qua thời chiến, cũng từng chứng kiến và trải
nghiệm nỗi đau đớn, mất mát tột cùng do chiến tranh để lại. Bởi thế bộ mặt
chiến tranh hiện hình trong những trang viết của bà sức sống, sức gợi tả
nỗi đau thật ghê gớm. Dù không hđi sâu vào việc miêu t diễn biến của
cuộc chiến, cũng không chú tâm đến việc tái hiện sự gian khổ, thiếu thốn của
cuộc sống thời chiến người lính phải trải qua nhưng bộ mặt gớm ghiếc của
chiến tranh với tất cả sức hủy diệt của nó vẫn hiện lên mồn một trong những
trang văn của bà.
Viết về chiến tranh, Đoàn thường đi sâu khai thác đời sống nội m
của những người lính khi cuộc sống không còn tiếng súng. Họ ớc ra khỏi
cuộc chiến với tâm hồn rách nát tả tơi. Chiến tranh tàn khốc đã cướp đi của họ
tất cả: tình yêu, cuộc sng, nim tin, cướp đi mọi niềm vui sống họ. Đó
mảng đời sống nội tâm đầy ắp những kỷ niệm đau đớn, nhức nhối của nhân vật
tôi khi sống lại Một ngày ở xứ em”. Thời gian chỉ một ngày nhưng dồn chứa
nỗi đau của một thời, một đời. Nhân vật tôi đã sống với tất cả ký ức đau thương
của một thời máu lửa. Chỉ trong một khoảnh khắc, bom đạn khốc liệt của chiến
tranh đã vĩnh viễn cướp đi người con gái anh yêu cùng bao đồng đội của anh.
Chứng kiến cảnh người yêu bị chôn vùi dưới lớp đất đá chỉ còn hở một cánh tay
cầu cứu tuyệt vọng, trái tim anh như muốn vỡ ra trăm mảnh. Đặc biệt ấn tượng
về chiếc vòng bạc trên cổ tay người con i anh yêu rạch một đường nhỏ rớm
máu luôn hiển hiện nhức nhối trong anh. Chiếc vòng bạc chính là kỷ vật tình yêu
mà anh tặng nàng. được tạo nên từ những vòng thép sáng loáng của một trái
bom bi bị tháo gỡ. Nhờ chiếc vòng đặc biệt ấy tình yêu của họ đã nổi tiếng
khắp rừng trường Sơn những năm tháng ấy. Nhưng chiến tranh tàn khốc với bộ
mặt ghớm ghiếc đã chỉ trong phút chốc tiếng súng, tiếng bom, tiếng rít căng
thẳng của máy bay cường kích ào đến…” trong khoảnh khắc ý thức bị liệt,
anh chạy bổ xuống cung đường nơi người yêu đang làm việc. Trái tim anh đau
thắt khi thấy “hình ảnh cánh tay em lọt giữa khe hở của hai cây xà cừ vươn lên
vẫy gọi, cầu cứu. Cánh tay giống như một búp cây trắng mọc lên từ mặt đất vừa
16 “Thời xa vắng”…Họ viết về chiến tranh bằng tất cả sự xúc động của người trong cuộc- những người lính đã đi qua cuộc chiến tranh. Bởi thế, qua những trang viết của mình, họ đã tái hiện được rất chân thực bộ mặt tàn khốc của chiến tranh. Đoàn Lê cũng là nhà văn sống qua thời chiến, bà cũng từng chứng kiến và trải nghiệm nỗi đau đớn, mất mát tột cùng do chiến tranh để lại. Bởi thế bộ mặt chiến tranh hiện hình trong những trang viết của bà có sức sống, có sức gợi tả nỗi đau thật ghê gớm. Dù bà không hề đi sâu vào việc miêu tả diễn biến của cuộc chiến, cũng không chú tâm đến việc tái hiện sự gian khổ, thiếu thốn của cuộc sống thời chiến mà người lính phải trải qua nhưng bộ mặt gớm ghiếc của chiến tranh với tất cả sức hủy diệt của nó vẫn hiện lên mồn một trong những trang văn của bà. Viết về chiến tranh, Đoàn Lê thường đi sâu khai thác đời sống nội tâm của những người lính khi cuộc sống không còn tiếng súng. Họ bước ra khỏi cuộc chiến với tâm hồn rách nát tả tơi. Chiến tranh tàn khốc đã cướp đi của họ tất cả: tình yêu, cuộc sống, niềm tin, cướp đi mọi niềm vui sống ở họ. Đó là mảng đời sống nội tâm đầy ắp những kỷ niệm đau đớn, nhức nhối của nhân vật “tôi” khi sống lại “Một ngày ở xứ em”. Thời gian chỉ một ngày nhưng dồn chứa nỗi đau của một thời, một đời. Nhân vật tôi đã sống với tất cả ký ức đau thương của một thời máu lửa. Chỉ trong một khoảnh khắc, bom đạn khốc liệt của chiến tranh đã vĩnh viễn cướp đi người con gái anh yêu cùng bao đồng đội của anh. Chứng kiến cảnh người yêu bị chôn vùi dưới lớp đất đá chỉ còn hở một cánh tay cầu cứu tuyệt vọng, trái tim anh như muốn vỡ ra trăm mảnh. Đặc biệt ấn tượng về chiếc vòng bạc trên cổ tay người con gái anh yêu rạch một đường nhỏ rớm máu luôn hiển hiện nhức nhối trong anh. Chiếc vòng bạc chính là kỷ vật tình yêu mà anh tặng nàng. Nó được tạo nên từ những vòng thép sáng loáng của một trái bom bi bị tháo gỡ. Nhờ chiếc vòng đặc biệt ấy mà tình yêu của họ đã nổi tiếng khắp rừng trường Sơn những năm tháng ấy. Nhưng chiến tranh tàn khốc với bộ mặt ghớm ghiếc đã chỉ trong phút chốc “tiếng súng, tiếng bom, tiếng rít căng thẳng của máy bay cường kích ào đến…” trong khoảnh khắc ý thức bị tê liệt, anh chạy bổ xuống cung đường nơi người yêu đang làm việc. Trái tim anh đau thắt khi thấy “hình ảnh cánh tay em lọt giữa khe hở của hai cây xà cừ vươn lên vẫy gọi, cầu cứu. Cánh tay giống như một búp cây trắng mọc lên từ mặt đất vừa
17
bị cày xới ám đen đang còn nghi ngút khói…” Chỉ trong phút chốc, người anh
yêu đã vĩnh viễn bị vùi sâu, chôn chặt dưới lớp đất đá loang lổ.
Anh bước ra khỏi cuộc chiến như người mất hn, trái tim anh đã hoàn
toàn rệu chỉ còn mang chức năng của một cái bơm máu”. Anh sợ hãi trốn
tránh quá khứ, mỗi khi nhớ đến nó thần kinh anh lại không thể chịu nổi. Tất
cả ký ức đau thương gắn với cánh tay cầu cứu của người con gái anh yêu vươn
lên giữa những mảnh đất đá bị cày xới, vẫn sống, vẫn hiển hiện, vẫn cào xé nhức
nhối lòng anh. Nỗi đau đó đeo đẳng ngay cả trong đêm tân hôn, khi anh cận kề
bên người vợ mới thì một luồng điện buốt giá xâm chiếm tâm hồn i. Trong
nháy mắt, tất cả như sụp đổ, vỡ toác ra.Tôi bỗng chìm nghỉm vào vòng bom đạn
Trường Sơn. Lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát. Cả người
tôi nôn nao sống dậy cảm giác kinh hoàng tuyệt vọng khi tay em từ mặt đất bừa
bộn vươn lên, níu lấy tay tôi, xoắn lại với nỗi đau đớn thầm lặng…”. Ngay trong
giây phút hạnh phúc nhất của đời người, những ám ảnh của chiến tranh vẫn
không buông tha người lính để anh phải trải qua một đêm tân hôn thật khốn
khó...hôm nay, sau mười hai năm trở về với cuộc sống đời thường, né tránh
những va đập của quá khứ, anh lại sống “Một ngày xứ em tràn đầy và nhức nhối
kỷ niệm”. Mọi thứ lại sống dậy hiển hiện đau đớn đến quay quắt. Chỉ một ngày
nhưng anh đã uống trọn nỗi đau của một thời, một đời…
Theo dõi câu chuyện được kể qua dòng hồi ức của nhân vật tôi”, thần
kinh người đọc như căng lên, trái tim thổn thức, quặn đau theo nỗi đau của nhân
vật. Những trang văn này gợi chúng ta liên tưởng đến tâm trạng nhức nhối của
nhân vật Kiên trong chuyến đi ngược Trường Sơn thu nhận hài cốt đồng đội ở
Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Ký ức đau thương ở chuông Gọi Hồn cứ
ẩn hiện cào nhức nhối trong Kiên. Rồi lần lượt từng số phận gắn với những
cái chết kinh hoàng của đồng đội hiển hiện trong Kiên như một thước phim
quay chậm mọi góc cảnh. Những lúc ấy Kiên lại đau đớn đến chết lịm. Nỗi
đau của Kiên có khác gì nỗi đau của nhân vật “tôi” trong Một ngày xứ em”. Bi
kịch của họ cũng là bi kịch chung của những người lính bước ra từ cuộc chiến
tranh. Họ đều cống hiến hết mình cho Tổ Quốc, những người may mắn sống sót
bước ra khỏi cuộc chiến thì hoặc mang thương tật về thể xác hoặc bị chấn động
về tinh thần đến không thể hoà nhập được với cuộc sống mới.
17 bị cày xới ám đen đang còn nghi ngút khói…” Chỉ trong phút chốc, người anh yêu đã vĩnh viễn bị vùi sâu, chôn chặt dưới lớp đất đá loang lổ. Anh bước ra khỏi cuộc chiến như người mất hồn, trái tim anh đã hoàn toàn rệu rã “chỉ còn mang chức năng của một cái bơm máu”. Anh sợ hãi trốn tránh quá khứ, mỗi khi nhớ đến nó là thần kinh anh lại không thể chịu nổi. Tất cả ký ức đau thương gắn với cánh tay cầu cứu của người con gái anh yêu vươn lên giữa những mảnh đất đá bị cày xới, vẫn sống, vẫn hiển hiện, vẫn cào xé nhức nhối lòng anh. Nỗi đau đó đeo đẳng ngay cả trong đêm tân hôn, khi anh cận kề bên người vợ mới thì “một luồng điện buốt giá xâm chiếm tâm hồn tôi. Trong nháy mắt, tất cả như sụp đổ, vỡ toác ra.Tôi bỗng chìm nghỉm vào vòng bom đạn Trường Sơn. Lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát. Cả người tôi nôn nao sống dậy cảm giác kinh hoàng tuyệt vọng khi tay em từ mặt đất bừa bộn vươn lên, níu lấy tay tôi, xoắn lại với nỗi đau đớn thầm lặng…”. Ngay trong giây phút hạnh phúc nhất của đời người, những ám ảnh của chiến tranh vẫn không buông tha người lính để anh phải trải qua một đêm tân hôn thật khốn khó...Và hôm nay, sau mười hai năm trở về với cuộc sống đời thường, né tránh những va đập của quá khứ, anh lại sống “Một ngày xứ em tràn đầy và nhức nhối kỷ niệm”. Mọi thứ lại sống dậy hiển hiện đau đớn đến quay quắt. Chỉ một ngày nhưng anh đã uống trọn nỗi đau của một thời, một đời… Theo dõi câu chuyện được kể qua dòng hồi ức của nhân vật “tôi”, thần kinh người đọc như căng lên, trái tim thổn thức, quặn đau theo nỗi đau của nhân vật. Những trang văn này gợi chúng ta liên tưởng đến tâm trạng nhức nhối của nhân vật Kiên trong chuyến đi ngược Trường Sơn thu nhận hài cốt đồng đội ở “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh. Ký ức đau thương ở chuông Gọi Hồn cứ ẩn hiện cào xé nhức nhối trong Kiên. Rồi lần lượt từng số phận gắn với những cái chết kinh hoàng của đồng đội hiển hiện trong Kiên như một thước phim quay chậm ở mọi góc cảnh. Những lúc ấy Kiên lại đau đớn đến chết lịm. Nỗi đau của Kiên có khác gì nỗi đau của nhân vật “tôi” trong “Một ngày xứ em”. Bi kịch của họ cũng là bi kịch chung của những người lính bước ra từ cuộc chiến tranh. Họ đều cống hiến hết mình cho Tổ Quốc, những người may mắn sống sót bước ra khỏi cuộc chiến thì hoặc mang thương tật về thể xác hoặc bị chấn động về tinh thần đến không thể hoà nhập được với cuộc sống mới.