Luận văn Thạc sĩ Văn học: Thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đoàn Lê
3,995
283
122
98
tương lai và hiện tại. Những lớp cắt thời gian giúp người đọc ngày càng có hình
dung đầy đủ hơn về cuộc đời nhân vật và ý nghĩa tác phẩm. Những cách mở đầu
tác phẩm, Đoàn Lê đã kết hợp nhiều lớp thời gian khác nhau: khi bằng hình ảnh
hiện tại: Nghĩa địa xóm Chùa, Giường đôi xóm Chùa, Hạt Vừng...khi bắt đầu
bằng một mốc thời gian của quá khứ gần: Con bướm nhựa cánh xanh, Đêm
ngâu vào, Viên sỏi; có khi truyện lại bắt đầu bằng lời nhận định đánh giá của
người kể chuyện: Tình Guột, Dấu hỏi gửi thượng đế...
Ở truyện ngắn Hạt vừng, câu chuyện được bắt đầu bằng thời gian hiện tại,
hai người đàn bà ngồi đối diện ngăn cách bởi những ô cửa kiên cố, chấn song to
thẳng tắp khẳng định sức mạnh sắt thép. Trong hai người đó một người là luật
sư, người kia là phạm nhân. Mở đầu truyện chỉ có thế, rồi nhà văn quay ngược
thời gian kể về những dòng hồi ức của hai người đàn bà. Nhìn những nếp nhăn
trên mặt nữ phạm nhân, vị luật sư nghĩ đến mẹ mình vẫn những vạch nếp nhăn
tựa hồ như dấu ấn của quỷ đã tàn phá cuộc đời của mẹ. Rồi từ câu chuyện xuất
thân của người phạm nhân, vị luật sư hồi tưởng lại toàn bộ câu chuyện quá khứ
đau thương của mẹ, của chị em cô, biết đâu người đàn bà khốn khổ kia chẳng
phải là một trong số chị em đã thất lạc của cô. Câu chuyện cứ thế đan xen giữa
quá khứ và hiện tại, hồi ức tưởng tượng và thực tế... Những diễn biến tình tiết
trong vụ án của người phạm nhân đều gợi lại ký ức đau thương của cuộc đời mẹ
cô. Như vậy bằng hình thức đan xen giữa quá và hiện tại, hồi ức và thực tế,
Đoàn Lê đã dồn chứa được trong vài trang giấy rất nhiều vấn đề có ý nghĩa của
hiện thực. Nỗi đau cùng cảnh ngộ bi thương của người nữ phạm nhân như được
cộng hưởng nhân lên khi nó được đặt trong sự đối sánh với những ký ức đau
thương của vị nữ luật sư bào chữa. Câu chuyện cuộc đời người đàn bà khốn khổ
kia cũng chính là câu chuyện cuộc đời của mẹ vị nữ luật sư nên cô đã tin câu
chuyện ấy và đồng cảm, sẻ chia với chị bằng tất cả nỗi đau của người trong
cuộc. Thời gian cốt truyện chỉ diễn ra trong một khoảnh khắc rất ngắn, trong
chốc lát khi người nữ luật sư tiếp xúc với phạm nhân để nghe chị ta kể về vụ án
của mình-chuyện kể thứ nhất nhưng giả thời gian, thời gian của những hồi ức
quá khứ mới chiếm lượng lớn trang văn bản. Chính lối quay ngược thời gian để
kể một câu chuyện thứ hai ấy mới là điểm nhấn làm đậm thêm chuyện kể thứ
nhất góp phần khắc sâu chủ đề tác phẩm.
99
Điểm nhìn trần thuật có thể khác nhau, song hầu hết những tác phẩm có
thời gian đồng hiện của Đoàn Lê, hồi tưởng đóng vai trò quan trọng. Hồi tưởng
hay quay ngược- ngoái lại có vai trò làm rõ thêm những sự kiện biến cố được kể
trong mạch truyện chính. Viên sỏi là một truyện ngắn Đoàn Lê sử dụng thời gian
khá linh hoạt. Câu chuyện mở ra là một thời điểm của hiện tại khi hai bà cháu đã
chạy trốn về xóm núi cạnh ven biển sống nương tựa vào nhau, bà đem một viên
sỏi đến hiệu kim hoàn xin đánh thành mặt nhẫn cho cháu. Không được chấp
nhận, ngày nào bà cũng đi các cửa hiệu đến khi không còn ai chấp nhận giúp, bà
mới buồn bã ra về. Người thợ kim hoàn ban đầu thấy áy náy rồi anh cũng quên
luôn bà cụ cùng viên sỏi vô giá trị của bà. Rồi tác giả sử dụng thủ pháp tỉnh
lược
thời gian: năm tuần sau, người thợ kim hoàn ra biển chơi tình cờ gặp lại hai bà
cháu và được biết viên sỏi là kỷ vật bố đứa trẻ để lại cho nó trước khi qua đời
nên được hai bà cháu nâng niu như báu vật. Sau nhiều lần tiếp xúc, qua những
mẩu đối thoại rời rạc, anh mới biết hoàn cảnh bất hạnh của hai bà cháu. Đây
chính là quãng ngưng, nhà văn dừng lại mạch truyện chính để kể về hoàn cảnh
chồng chất những nỗi đau của hai bà cháu. Từ hoàn cảnh ấy, nhà văn lại quay
sang kể về nỗi đau trong quá khứ của người thợ kim hoàn và nguồn gốc của viên
sỏi. Đó là một câu chuyện thật cảm động, bi thương. Khi mạch truyện hồi tưởng,
hồi ức kết thúc, nhà văn khéo léo đưa mạch truyện chính trở về thực tại bằng
quyết định của người thợ kim hoàn sẽ nhận mài viên sỏi giúp bà cụ. Chính
những mẩu hồi ức của quá khứ mới là những điểm nhấn làm nổi bật ý nghĩa sâu
sắc của tác phẩm.
Cùng với việc sử dụng thời gian đồng hiện trong kết cấu tác phẩm, một số
tác phẩm của Đoàn Lê còn sử dụng thời gian tâm tƣởng gắn với ký ức của quá
khứ: Giường đôi xóm chùa, Đêm ngâu vào, Một ngày xứ em. Ở loại truyện này,
dòng ký ức, hồi tưởng của nhân vật là mạch quan trọng để khắc họa tính cách,
xây dựng cốt truyện. Qua dòng ý ức ấy, sự kiện dần dần xuất hiện. Đứng ở thời
điểm hiện tại, nhân vật có một độ lùi thời gian để có thể đánh giá, nhận định
vấn
đề và có những cảm nhận sâu sắc hơn về những chuyện đã qua. Trong Giường
đôi xóm Chùa, câu chuyện mở ra là hình ảnh chiếc giường đôi của hai vợ chồng.
Rồi theo dòng hồi ức, nhân vật “tôi” nhớ lại toàn bộ cuộc sống chung gần ba
mươi năm của hai vợ chồng với bao buồn vui lẫn lộn. Ký ức của chị dừng lại rất
lâu để kể chuyện đứa con trai và đứa cháu nội với cảm xúc dạt dào. Dòng hồi
100
tưởng đưa chị về quá khứ xa xưa một đêm rằm trung thu thủa nhỏ, chị được một
người bạn trai yêu mến tặng một cây đèn kéo quân tuyệt đẹp. Dòng hồi tưởng
này nhằm thể hiện chút luyến tiếc của nhân vật trong việc lựa chọn người bạn
đời. Rồi dòng hồi ức đưa nhân vật trở về quá khứ gần, cách hiện tại một tháng,
chị có chuyến đến Quảng Ninh làm một bộ phim tài liệu. Chuyến đi đó chị tìm
đến thăm người đàn bà là người yêu thời trẻ của chồng chị để tìm lời giải cho
câu hỏi “Anh ấy muốn tìm điều gì ở những người đàn bà anh yêu? Những người
đàn bà, kể cả tôi, đã đặt tình yêu vào con người này vì sao?”. Thời gian cốt
truyện chỉ diễn ra trong một đêm, đêm cuối cùng chị nằm bên chồng nhưng thời
gian sự kiện lại là cả một đời người. Một đêm không ngủ, chị nhớ lại tất cả
những biến cố đời mình, chúng được lắp ghép ngẫu nhiên: từ gần đến xa rồi lại
từ xa đến gần; xen với những ký ức ấy là những cảm xúc của hiện tại. Mạch thời
gian lúc được tỉnh lược, lúc lại ngưng đọng phù hợp với vai trò của các biến cố
được kể. Bằng cách xử lý thời gian này, nhà văn đã làm nổi bật được những
trạng thái tâm lý rất đa dạng, phức tạp của nhân vật.
Ở một số truyện ngắn, Đoàn Lê còn đặc biệt chú ý đến nhịp thời gian
trong tác phẩm. Đó chính là tính chất co duỗi của thời gian để thể hiện tâm lý
nhân vật. Nhịp thời gian trong tác phẩm Một ngày xứ em là một ví dụ. Toàn tác
phẩm là nhịp thời gian dồn nén, thời gian của một đời người được ngưng lại
trong thời gian của một ngày. Một ngày nhân vật “tôi” qua “xứ em” và sống lại
tất cả cảm xúc đau thương của một thời máu lửa. Nhịp thời gian như ngưng lại
khi ký ức đưa anh trở về với nỗi đau thủa ấy. Thời gian hiện thực chỉ có một
ngày nhưng giả thời gian là cả một thời chiến tranh ác liệt của quá khứ. Ký ức
bắt đầu từ chiếc vòng bạc trên tay cô bé nhà khách trên quê hương người con gái
anh yêu. Chính chiếc vòng và đôi tay của nàng đã ám ảnh anh đến hết cuộc đời.
Mạch thời gian như đọng lại trong khoảnh khắc của quá khứ giữa vòng bom đạn
của Trường Sơn với lửa cháy, mùi khét thuốc súng, mùi hăng lá cây giập nát,
hình ảnh “cánh tay em từ mặt đất bị cày xới bừa bộn vươn lên, níu lấy tay tôi,
xoắn lại trong nỗi đau đớn thầm lặng”. Rồi từ câu chuyện về chiếc vòng bạc,
mạch chuyện cứ đan xen giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ là những ký ức đau
đớn khủng khiếp của chiến tranh vẫn sống dậy hiển hiện trong xúc cảm, trong
lời kể của người trong cuộc, người kể chuyện cũng chính là nhân vật chính trong
câu chuyện bi thảm của chiến tranh, còn hiện tại chính là khoảng thời gian anh
101
dừng lại ở “Xứ em”, một ngày nhức nhối kỷ niệm. Vì thế mạch thời gian biến
đổi linh hoạt, nhảy cóc: đang một mình dạo trên trên cầu Tràng Tiền nhìn dòng
nước sông Hương êm đềm lững lờ trôi, mạch xúc cảm đưa thẳng nhân vật trở về
với quá khứ ở Trường Sơn với câu chuyện tình thơ mộng nhưng đầy bi thảm của
mình với “em”. Cứ thế mỗi hình ảnh của quá khứ sống dậy, tim anh lại đau đớn,
quặn thắt. Trong suốt thời gian kể chuyện chừng vài giờ đồng hồ, dường như
anh chưa một lần dời mắt khỏi bao thuốc lá, cái bật lửa và đôi tay để giữ cho
mình được bình tĩnh. Ở đây thời gian của một ngày đã dồn chứa nỗi đau của một
thời, một đời. Vì vậy, thời gian nghệ thuật chính là hình thức nghệ thuật chủ
yếu
để nhà văn miêu tả tâm lý nhân vật.
Thời gian và không gian nghệ thuật là những hình tượng sinh động, gợi
cảm của văn học. Ý thức về thời gian , không gian chính là ý thức về sự tồn tại
của con người. Tìm hiểu những vấn đề về không gian và thời gian nghệ thuật
chính là tìm hiểu những vấn đề thi pháp quan trọng của tác phẩm. Chúng là
những “hình thức mang tính nội dung” [61, 27]. Quan điểm sáng tác cũng như
tư tưởng nghệ thuật của nhà văn được thể hiện qua những hình thức nghệ thuật
của không gian, thời gian. Đối với các nhà văn hiện đại, việc xây dựng một tác
phẩm nghệ thuật bao giờ cũng đề cao vai trò của thi pháp bên cạnh một nội dung
có giá trị đích thực. Bằng tài năng và sức sáng tạo dồi dào của mình, các nhà
văn
đã đem đến cho văn xuôi những khám phá mới trên bình diện thi pháp tác phẩm
trong đó có hình thức thời gian và không gian nghệ thuật.
4. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ là đơn vị cơ sở đầu tiên và cũng là đơn vị cuối cùng thể hiện
những đặc sắc trong thế giới nghệ thuật của nhà văn. Với truyện ngắn, ngôn ngữ
phải phát huy tối đa chức năng của mình do yêu cầu ngắn gọn của thể loại. Ngôn
ngữ truyện ngắn cần cô đặc, cảm xúc, có sức nặng, sức chứa và khoảng trống
gợi mở. Truyện ngắn sau 1975 là truyện ngắn của đời tư, thế sự, vì vậy ngôn
ngữ trong các tác phẩm thời kỳ này cũng có nhiều đặc điểm khác so với ngôn
ngữ nghệ thuật của các giai đoạn văn học trước đây. “Ngôn ngữ đối thoại trong
truyện ngắn hôm nay đã được cá thể hóa sâu sắc. Dấu vết thời đại quy định cách
nói năng, ứng xử. Nhiều lớp từ mới được hình thành, quan niệm về lối sống
cũng được bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Thông qua ngôn ngữ đối thoại,
các trạng thái biểu hiện tâm lý của con người có chiều sâu và hiện thực cuộc
102
sống được cụ thể hóa, sống động hơn” [71]. Đó là thứ ngôn ngữ đời thường,
không trau chuốt, không mỹ miều, không nặng tính triết luận như văn học giai
đoạn trước 1975. Loại ngôn ngữ này tương xứng với mỹ cảm của con người
hôm nay.
Ngôn ngữ nghệ thuật trong sáng tác của các nhà văn nữ giai đoạn đổi mới
thường sắc sảo, tinh tế nhưng chi tiết vụn vặt như bản tính vốn có của họ. Dịu
dàng, nền nã nhưng cũng dung dị đời thường là những đặc điểm dễ nhìn thấy
trong ngôn ngữ của Đoàn Lê. Tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn
Đoàn Lê, chúng tôi khảo sát trên một số đặc trưng ngôn ngữ như: ngôn ngữ giầu
chất hiện thực đời thường thể hiện qua đối thoại, ngôn ngữ đậm chất trữ tình qua
độc thoại nội tâm.
4.1. Ngôn ngữ giầu chất hiện thực đời thƣờng:
Trong chiến tranh, với không khí sử thi và cảm hứng lãng mạn, ngôn ngữ
thường được thi vị hóa hoặc mực thước trang trọng. Chuyển sang thời bình,
cùng với sự chuyển hướng của nền văn học từ cảm hứng sử thi sang đời sống thế
sự, truyện ngắn Đoàn Lê hướng tới những điều thường nhật trong đời sống con
người. Hướng về những số phận đời tư, khám phá những cá tính và phía còn ẩn
khuất trong mỗi con người, chất liệu đời thường đã ùa vào trong mỗi tác phẩm
của bà. Điều đó tạo nên diện mạo mới của ngôn ngữ văn xuôi: từ ngôn ngữ mực
thước, thi vị hóa trở về với ngôn ngữ giản dị, chính xác thường ngày
Ngôn ngữ đời thường trong truyện ngắn Đoàn Lê thể hiện qua lời
đối thoại giữa các nhân vật, hoặc qua lời nhận xét đánh giá của người kể chuyện.
Ví như một đoạn đối thoại trong truyện ngắn Đất xóm Chùa sau:
-Này, ông nghe nó sắp thiến làng chưa?
Sỹ Thái Sư ngớ ra:
- Ai?
- Thằng hoạn lợn chứ ai.
Lão Bản xưa nay chỉ gọi tay Quảng chủ tịch xã bằng cái nghề
nghiệp mới ngày nào anh ta còn hoạt động trong suốt mấy thôn. Gọi cách ấy lão
biểu lộ sự ghét cay ghét đắng anh chủ tịch xã.
- Nó thiến hộ càng may. Như tôi với ông còn tiếc thương gì không
vứt bố của nợ đi.
- Thật chứ?
103
- Tôi đã nghĩ mãi ông ạ, hoạn lợn nó chỉ được hột đách lợn, chứ
hoạn làng nó moi ra cây ra chỉ, mà làng lại không kêu được eng éc, êm thấm
lắm, ông hiểu không?
- Tôi hiểu rồi.
Lão ghé sát tai ông lào thào:
- Nó sắp bán đứt đây.
Ông Sỹ Duệ giật mình:
-Có quyết định bán chính thức rồi ư?
- Chứ gì, tẩu tán càng nhanh càng tốt. Ban quản lý hợp tác xã sắp
đến nước giải tán, còn tí đất dôi dư nào bán nốt, thủ vào túi mấy thằng chính
quyền với nhau. Giải tán, hòa cả làng.
Ông Bản đang nói tới khu vườn cây của các cụ phụ lão xóm Chùa, một
khu đất ngon mắt, nằm hơ hớ cạnh đường quốc lộ như gái ngủ ngày, gần năm
ngàn mét vuông...
- Ông nghe rõ chửa, bán cho dân thôn được bao nhiêu tiền đã sờ sờ
đấy, còn đút túi khoản nào? Thằng hoạn lợn kỳ này tuyên bố giải quyết cho Viện
cây giống nào đó lấy một tỉ hai...
- Chết chửa, tỉ hai...rẻ thối. Giá phải gấp hai ba lần.
- Dào ôi, nó bán mấy tỉ cho nhau, ai biết ma ăn cỗ ở đâu. Nó bảo
sao, dân bào hao làm vậy. Chỉ ức rõ rành nó bán đấy, Viện cây giống cũng mua
đấy, nhưng chúng mua bán dưới chiêu bài hợp pháp, dân trơ mắt ếch
- Phải. Thằng này cáo già, nó thoát bao nhiêu vụ bán đất cát của
xóm Chùa mới tài chứ.
Ngôn ngữ trong đoạn đối thoại này là ngôn ngữ thân mật đến suồng sã,
cách nói bỗ bã, trần trụi, kiểu xưng hô dân dã với các đại từ nhân xưng: Lão,
nó,
thằng hoạn lợn, thằng cáo già... Chất khẩu ngữ đậm đà thể hiện trong cách đối
thoại và trong những cụm từ thường sử dụng trong cuộc sống thường ngày như:
“thiến làng”, “hoạn làng”, “ngon mắt, nằm hơ hớ”, “rõ chửa, sờ sờ đấy”, “chết
chửa, rẻ thối”, “ôi dào, ai biết ma ăn cỗ ở đâu..dân bào hao làm vậy...dân trơ
mắt
ếch”, và cả những thành ngữ được sử dụng “trơ mắt ếch”, “hơ hớ như gái ngủ
ngày”, “ghét cay ghét đắng”...Lối sử dụng ngôn ngữ không kiểu cách, mực
thước mà gần gũi với ngôn ngữ hàng ngày không chỉ khiến cho những vấn đề
mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm trở nên chân thực sinh động mà còn rất gần
104
gũi với đời sống hàng ngày của nhân dân. Những vấn đề mà nhà văn phê phán:
sự tha hóa của đội ngũ cán bộ xã, những chuyện tiêu cực về đất cát đặt trong
miệng lưỡi của nhân vật khiến nó khách quan mà cũng sắc nét hơn. Ngôn ngữ
đối thoại khá gay gắt thể hiện sự bức xúc của các nhân vật với vấn đề được đề
cập đến trong câu chuyện. Nhân vật nói với nhau thẳng thắn không cần giữ gìn,
trực diện bày tỏ những nhận xét, đánh giá bằng ngôn ngữ báng bổ, suồng sã.
Những tác phẩm trực diện phản ánh, phê phán hiện thực của Đoàn lê
thường sử dụng loại ngôn ngữ này: Đất xóm Chùa, xóm Chùa Ông, Trinh tiết
xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa...Việc sử dụng ngôn ngữ giầu tính hiện thực,
khẩu ngữ cho phù hợp với hướng khai thác cuộc sống ở góc nhìn đời tư, số phận
cá nhân trong các mối quan hệ phức tạp là một việc là có ý nghĩa của nhà văn.
Điều đó khẳng định được phong cách hóm nhẹ mà sâu cay của Đoàn Lê. Nói
như Nguyễn Minh Châu trong tiểu luận Chăm sóc câu văn: “Mỗi nhà văn có
một cách viết riêng nhưng cuối cùng và trước hết đó là những con người có một
thứ khả năng đem đến cho ngôn ngữ đời sống một thứ ma lực mà ta gọi là ngôn
ngữ văn học, có thể chuyển tải được mọi thứ tình cảm tư tưởng của mình đến
với mọi người”. Ngôn ngữ trong sáng tác của Đoàn Lê cũng là thứ ngôn ngữ có
ma lực như vậy.
4.2 Ngôn ngữ độc thoại nội tâm.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm được nhà văn sử dụng khi nhân vật có nhu
cầu bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của mình. Đó là cuộc đấu tranh tâm lý thường có ở
những nhân vật mang bi kịch. Độc thoại nội tâm giúp nhà văn bộc lộ những suy
nghĩ của mình qua giọng của nhân vật hay bằng lời thuyết minh tâm lý. Ở những
đoạn độc thoại nội tâm, nhà văn thường trao giọng điệu cho nhân vật để nhân
vật tự giãi bày, bộc lộ nỗi niềm. Ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật được
hòa làm một: Đêm ngâu vào, Giường đôi xóm chùa, Trái táo nham nhở, Dấu hỏi
gửi thượng đế, Ngôi nhà gỗ...Toàn truyện Đêm ngâu vào là dòng ký ức của nhân
vật “tôi” khi nhớ về cuộc đời gần hai mươi năm của anh và nàng. Trong dòng ký
ức ấy, nhà văn dành rất nhiều đoạn cho nhân vật độc thoại nội tâm, nhất là
những khi anh ngồi vào bàn viết một mình đối diện với những chú khỉ gỗ.
Dường như chúng luôn hiểu được mọi tâm tư, nỗi niềm của anh nên lúc thì
chúng diễu cợt khiêu khích anh, lúc lại đồng cảm sẻ chia: “Ông vui à? Ông ngỡ
có một cuộc thoát xác vừa xảy ra ở đây ư? Không, đó chẳng qua các người vừa
105
được thấm thía một chút mùi vị nô lệ của các người thôi”. Lời của những chú
khỉ thực ra là những lời độc thoại nội tâm của nhân vật “tôi”. Anh đã tự phân
thân ra để trải nghiệm hết mọi trạng thái cảm xúc của mình: nỗi nhớ nhung
mong chờ, niềm luyến tiếc, xót xa; cả sự ân hận day dứt vì để vuột mất tình yêu.
Hình thức độc thoại nội tâm trong truyện ngắn của Đoàn Lê khá đa dạng:
khi là những dòng nhật ký (Dấu hỏi gửi thượng đế), lúc là những lời tự vấn
lương tâm (Trái táo nham nhở). Qua những dạng độc thoại này, tâm lý tính cách
của các nhân vật được bộc lộ. Từ hai cuốn nhật ký với những lời lẽ nồng nàn,
đắm say của cô Huệ (Dấu hỏi gửi thượng đế), ta biết được khát khao tình yêu,
hạnh phúc đến cháy bỏng của nhân vật. Trong cuốn nhật ký, người đàn bà gù tội
nghiệp bỗng biến thành một nàng tiên xinh đẹp óng ả với những bộ trang phục
thanh nhã nhất dạo chơi cùng người yêu: “Ta đi rất chậm. Gió từ lòng hồ làm
bay tung hai tà áo vàng nhạt tựa như chút nắng mùa thu vương vất quanh ta.
Những cặp mắt tò mò dõi theo. Ta muốn mỉm cười nhưng vờ thờ ơ. Ta đang hồi
hộp thắt lòng, chờ đợi người ấy đến...” Đó là những giấc mơ tuyệt vời mà nàng
đã tạo ra để thắng Thượng Đế khi cố tình dày vò tâm hồn nàng bằng sự khiếm
khuyết của hình hài. Những người đàn ông trong những trang nhật ký của nàng
đều là những trang nam nhi hào hoa lý tưởng. Đêm đêm họ vẫn đến bên gối
nàng thủ thỉ cả ngàn lời âu yếm. Không ai gian đối, thô lận hay vô tình, mọi
người đều tìm cách chiều lòng nàng, nhận sự dâng hiến của nàng như nhận một
ân phước. Đêm đêm những vòng tay ân ái nâng niu đưa nàng vào giấc ngủ êm
đềm... Tất cả là mơ tưởng, là huyễn hoặc để xoa dịu những năm tháng khao khát
cháy bỏng tình yêu, hạnh phúc của nhân vật. Nhờ hình thức độc thoại qua nhật
ký mà tâm lý, tính cách nhân vật cô Huệ được khắc họa chân thực, sống động và
có chiều sâu.
Những lời tự vấn lương tâm của nhân vật “tôi” (Trái táo nham nhở) cũng
có tác dụng đẩy nhanh tấn bi kịch của nhân vật đến hồi kết thúc. Nhờ có đoạn
độc thoại- tự vấn lương tâm này mà nhân vật có điều kiện nhìn nhận lại mình,
đánh giá đúng đắn khách quan về người khác để có cách ứng xử hợp lý. Với anh
đó là quá trình tự thú để lòng được nhẹ nhõm, lương tâm được thanh thản sau
gần hai chục năm sống trong tâm trạng day dứt vì phải đeo bộ mặt giả dối.
“Trong chuyện này, anh hoàn toàn có lỗi với em. Nhưng anh không muốn dối
trá lừa lọc mãi...Hãy tha tội cho anh. Cái gì người ta cũng có thể cố gắng,
106
nhưng không ai có thể cố gắng yêu...anh bị vắt kiệt lòng nhẫn nại lẫn sự dối
trá,
anh không thể tiếp tục mãi...”. Nhờ sự sám hối chân thành này mà nhân vật của
Đoàn Lê còn xứng đáng là con người với ý nghĩa đầy đủ nhất của từ này. Còn
chị, nhờ quá trình độc thoại tự- vấn lương tâm mà chị mới nhận ra được con
người thực của anh. Thì ra trong suốt thời gian qua, chị đã bị tình yêu mù quáng
làm mờ mắt, chị đã quá tâng bốc, lý tưởng hóa anh nên không nhận ra những
khiếm khuyết của anh. Hoặc giả thử có nhận ra thì chị cũng nhắm mắt cho qua,
vẫn yêu chiều anh hết mức. Đó chính là bi kịch dai dẳng của đời chị. Đến hôm
nay khi chị bình tĩnh, tỉnh táo để xem xét anh từ chân tơ kẽ tóc: “Anh tưởng
mình ghê gớm lắm sao? Thiên tài ư? Cao quý ư? Không tôi đã trả giá quá đắt
bằng cả cuộc đời mình cho một kẻ tầm thường nhất trong vô vàn kẻ tầm thường,
một thứ giẻ rách” thì tất cả đã quá muộn. Chị ngậm ngùi chấp nhận sự thật, chấp
nhận sự dang dở của đời mình như chấp nhận trái đất không tròn trịa mà nham
nhở như trái táo bị cắn dở.
Đứng ở những điểm nhìn trần thuật khác nhau, lời văn độc thoại cũng phụ
thuộc vào từng điểm nhìn trần thuật cụ thể. Khi người kể chuyện ở ngôi thứ
nhất, tính chất độc thoại bao giờ cũng rõ nét hơn. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
trong truyện ngắn Đoàn lê đã biểu đạt được sâu sắc thế giới tâm hồn, tình cảm
của con người, góp phần làm phong phú thế giới ngôn ngữ của văn học thời kỳ
đổi mới.
5. Giọng điệu nghệ thuật
Với một tác phẩm văn chương, giọng điệu nghệ thuật đóng vai trò dẫn dắt
cảm xúc của người đọc khi tiếp nhận tác phẩm, đồng thời là yếu tố hàng đầu của
phong cách nhà văn, là “yếu tố có vai trò thống nhất mọi yếu tố khác của hình
thức tác phẩm vào một chỉnh thể” [63, 355]. Tác phẩm văn học không thể thiếu
giọng điệu, nó là phạm trù thẩm mỹ của tác phẩm văn học. Giọng điệu văn học
là hiện tượng “siêu ngôn ngữ”, phụ thuộc vào cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm,
khuynh hướng nghệ thuật của tác giả và của thời đại. Mỗi nhà có một giọng điệu
chủ đạo bao trùm toàn bộ sáng tác làm nên nét phong cách khác biệt của họ so
với những nhà văn khác. Cảm hứng nghệ thuật chủ đạo mà nhà văn sử dụng là
yếu tố cơ bản để tạo nên các giọng điệu khác nhau. Bên cạnh cảm hứng nghệ
thuật, giọng điệu trong tác phẩm văn học còn được thể hiện ở các “mô tuýp và
hình tượng” (M.Bakhtin). Chẳng hạn, các mô tuýp nước mắt, nỗi đau, mối sầu là
107
cơ sở của giọng điệu cảm thương của chủ nghĩa tình cảm. Tùy theo từng giai
đoạn văn học, từng môi trường văn hóa mà những tác phẩm có giá trị đích thực
thể hiện được giọng điệu riêng của nó. Giọng cảm thương trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du, giọng đồng cảm, xót xa trong Chí Phèo của Nam Cao, Giọng châm
biếm, mỉa mai trong Vi hành của Nguyễn Ái Quốc...Có khi trong cùng một tác
phẩm, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu khác nhau tạo nên sự phong phú trong
cách biểu hiện, thái độ, tình cảm của nhà văn. Với những giọng điệu khác nhau
xuất hiện trong cùng một tác phẩm thường phụ thuộc vào ngữ cảnh phong cách:
“Mối quan hệ giữa ngữ cảnh phong cách này với ngữ cảnh phong cách khác làm
nên cấu trúc chất giọng cho tác phẩm”( Nguyễn Thái Hòa, Chất giọng Nam Cao
trong Chí Phèo).
Với các nhà văn nữ giai đoạn văn học đổi mới, giọng điệu nghệ thuật là
một trong những yếu tố nghệ thuật rất được chú trọng. Khi các cây bút nữ đồng
loạt xuất hiện thì trên văn đàn cũng xuất hiện nhiều giọng điệu nghệ thuật gần
giống nhau. Nhỏ nhẹ, tinh tế nhưng cũng sắc sảo triết lý là những đặc điểm dễ
dàng nhận thấy trong giọng điệu nghệ thuật của các cây bút nữ. Vì vậy để tìm
cho mình một giọng điệu nghệ thuật riêng mà qua đó phong cách nghệ thuật của
nhà văn được khẳng định là điều không dễ với các nhà văn nữ giai đoạn này.
Dẫu vậy bằng niềm đam mê sáng tạo đến quên mình, Đoàn lê đã tìm tòi cho
mình một chất giọng riêng, khẳng định được tiếng nói của mình trên văn đàn
hôm nay. Đó là một cây bút đa giọng điệu. Người đọc có thể tìm thấy trong sáng
tác của bà những chất giọng khác nhau: Khi là giọng điệu trữ tình (Người đẹp
xóm chùa, Đêm ngâu vào, Ngôi nhà gỗ, Giường đôi xóm Chùa...),có lúc là giọng
điệu mỉa mai, châm biếm, phê phán (Nghĩa địa xóm chùa, Trinh tiết xóm chù,
Đất xóm Chùa, A Tourism xóm Chùa...),có giọng đồng cảm xót xa (Hạt vừng,
Dấu hỏi gửi thượng đế, một ngày xứ em,Viên sỏi, Con bướm nhựa cánh xanh,
Tình Guột.)..Sự phong phú về giọng điệu tạo cho sáng tác của Đoàn Lê sự đa âm
trong cách thể hiện thái độ tình cảm cũng như lập trường tư tưởng của nhà văn.
5.1 Giọng điệu trữ tình.
Giọng điệu trữ tình là một trong những chất giọng cơ bản trong
sáng tác của Đoàn Lê. Giọng điệu trữ tình chủ yếu được thể hiện ở ngôn ngữ
nghệ thuật mà nhà văn sử dụng cũng như các yếu tố nghệ thuật khác như: mô
típ, hình tượng nghệ thuật, hình ảnh, ngữ điệu, cách miêu tả nhân vật...Ngôn ngữ