Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi
10,202
974
139
Alma Ata, Trong mùa thu, Nguyện ước…Đó cũng thường là những khổ ngắn, ít
dòng nhất trong toàn bài nhưng hầu hết đều là những khổ thơ mang sức nặng về
tư tưởng, tình cảm.
Có khi là khổ thơ tổng kết bằng khẳng định, nhấn mạnh tình cảm cho bài
thơ: “Cánh cửa mở rồi anh đang đứng trước em/ như chẳng có một thời cách
biệt.” (Cánh cửa); “Bài ca về hạnh phúc/ Biết bé còn hát chăng.” (Gặp lại bé);
“Sau bao chặng đường, sau bao nắng mưa/ em đã tới một cánh rừng Chiêm
Hóa” (Tìm về Chiêm Hóa); “Con muốn có lời gì đằm thắm/ ru tuổi già của mẹ
tháng năm nay” (Kính gửi mẹ); “Cuộc hành trình đã đến hồi kết thúc/ ôi chặng
đường dài sao.” (Tưởng niệm họa sĩ Nguyễn Sáng)…
Có khi lại là triết lý, chiêm nghiệm: “Dẫu cho đêm yên lặng/ phía trước là
dòng sông.” (Phía trước là dòng sông); “Lòng chợt ước ao/ một tiếng gõ bất
thường sau cánh cửa” (Ngày thường); “Trên đường dài ta cùng đặt bàn chân/ ở
phía cuối con đường này là biển” (Trong mùa thu); “Nhưng đó là sự lựa chọn
của chính anh/ đó là số phận/ của người mở đường.” (Bay đêm); “ Ra đi/ như
người đàn bà đi khỏi mối tình của mình. ” ( Nguyện ước)…
Khi khác thì tạo bất ngờ của sự trái chiều so với toàn bài, mở ra hướng
mới cho suy nghĩ và tình cảm: “ Có những gì ở phía xa kia/ bao mùa thu đã đi
mãi còn một mùa thu chưa tới” (Mùa thu chưa tới); “Là vòm trời xanh dịu kia/
hay là cơn bão lớn, mùa thu.” (Mùa thu); “Trên cầu tàu/ anh ngoái nhìn biển
đang thẫm lại.” (Thuyền trưởng); “Chỉ còn giữa hai ta/ một lòng đường đầy
nắng” (Phố nắng); “Đôi khi/ chợt ứa tràn nước mắt” (Đôi khi)….
Ta nhận thấy rằng những bài thơ được k
ết cấu có những khoảng lặng
trong thơ Ý Nhi có ý nghĩa vô cùng lớn lao: v ừa tạo được một thứ nhạc điệu
riêng hiếm có và mới lạ; vừa hỗ trợ đắc lực cho sự cất cánh của ý thơ. Bài thơ
nhờ những nét khai bút hoặc hạ bút ấy đã làm chấn động lý trí con người; làm
ngân rung, lan t ỏa tình cảm trong tâm hồn con người.
Tiểu kết: Ý Nhi đã góp phần làm mới bộ mặt thi ca Việt Nam nh ững năm
cuối thế kỉ XX bằng việc luôn tìm tòi và đổi mới. Để làm được điều đó, nhà thơ
cần phải có tài năng. Nhưng tài năng không phải là tất cả mà trên hết tài năng
đó
phải có từ bên trong những con người đầy bản lĩnh. Ý Nhi nhận ra mình “đã qua
thời thanh xuân” và “dẫu chưa quên nhưng không thể hát bài hát cũ”; Ý Nhi đã
tự nguyện chọn thơ là sự nghiệp và chấp nhận mất trắng: “Thơ là một cu ộc chơi
cần sự cá cược cả đời, đôi khi nhà thơ là người mất trắng… Tôi cứ cả nghĩ rằng
làm thơ rất cần đến kĩ thuật cao về sử dụng ngôn từ, nhưng cần hơn lại là một
bản lĩnh, là n ội lực” [102]. Đặt trong không khí văn học Việt Nam n hững năm
sau chiến tranh và thời kì đổi mới, thơ Ý Nhi đã tạo được những dấu ấn rất
riêng,
rất cá biệt trước h ết ở bình diện ngôn ng ữ, thể loại và kết cấu bằng bản lĩnh
và
nội lực của mình. Ở chương 2 này, chúng tôi đã cố gắng chỉ ra và gọi tên những
nét độc đáo của Ý Nhi trên các bình diện đó.
Chương 3:
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ Ý NHI NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ TRIẾT LUẬN VỀ CÁI ĐẸP VÀ ĐỜI SỐNG
3.1. Cơ sở nghiên cứu
3.1.1. Về khái niệm triết luận
Thuật ngữ triết luận gắn với tính trí tuệ hay tính triết lý trong văn học nói
chung và trong thơ ca nói riêng xuất hiện từ rất sớm. Trước hết nó được hiểu khi
gắn với khái niệm "thơ trữ tình triết học" của Block, Schiller, Bretch, Rilke,
Baudelaire, Valéry, Claudel… Hay khái niệm "trữ tình trí tu ệ" của các nhà thơ
Đức. Sau đó Arnauđốp bổ sung: "Vào thời cận đại, chúng ta ngày càng bắt gặp
nhiều hơn trong trữ tình những mô tip dắt dẫn ta vào vương quốc của các tư
tưởng. Như Ghugô nói, ở những chỗ lý tính thường không được thỏa mãn thì
cảm xúc ngày càng khó khăn hơn trong việc tìm kiếm sự thỏa mãn, để tìm ra
được khoái cảm trong một điều gì đó chúng ta nhất thiết phải suy nghĩ tạo ra
một trong những nguyên nhân của tiến bộ đạo đức và thẩm mỹ" [2; tr.514]. Đến
đây chúng ta có thể hiểu, tính triết luận sẽ có được khi: cảm xúc của nhà thơ
thăng hoa trong lúc suy nghĩ, phân tích, giải thích, biện luận những vấn đề hiện
thực cụ thể mà nhà thơ trải qua. Như vậy triết luận là một yếu tố để cấu thành
nên văn bản văn học chứ không phải là toàn bộ nội dung của văn học.
“Triết” là triết lí, “luận” là bàn luận; “triết luận” có th ể hiểu chung lại là
triết lí và bàn luận. Thông thường nhà thơ triết lí và bàn luận về những vấn đề
con người và xã hội. Chúng tôi hiểu thuật ngữ ở góc độ đơn giản này và cho
rằng: Cảm hứng triết luận là hứng thú được tranh luận, biện giải kh i bắt gặp
những chất liệu cuộc sống, những vấn đề nhân sinh và xã hội gần gũi với những
chiêm nghiệm, suy tư lâu dài của nhà thơ, được nhà thơ sáng tạ
o thành các tứ
thơ.
Khi cảm hứng triết luận trở thành cảm hứng chủ đạo thì tác phẩm sẽ mang
hơi hướng của sự phân tích, biện giải và tính triết lí sẽ xuất hiện thường xuyên
ở
các tác phẩm làm nên nét riêng của nhà thơ. Đến đây, nhà thơ nào có vốn sống,
vốn văn hóa, vốn triết học cao và biết vận dụng những vốn đó sáng tạo thì cảm
hứng triết luận sẽ định hình tư duy triết luận độc đáo làm nên phong cách riêng
của nhà thơ. Những nhà thơ như vậy thường được gọi trân trọng là “nhà thơ trí
tuệ” hay “nhà thơ triết lý”.
Với cách hiểu này, Ý Nhi là một nhà thơ như thế. Có thể nói, Ý Nhi là
một nữ nhà thơ đặc biệt và hiếm hoi của thơ đương đại Việt Nam theo đuổi con
đường thơ “duy lí” có phần gian nan, trúc trắc này. Các nhà thơ nữ Việt Na m
vốn trực tiếp và dai dẳng tiếp xúc với nền văn hóa thi ca bình dân giàu cảm xúc
và nặng yếu tố “duy cảm”. Vượt thoá t khỏi điều này quả là một sự bức phá lớn
lao của nữ giới.
Ý Nhi đã làm được điều đó. Bà đã biết kết hợp tình cảm và lý trí để xây
dựng những nhân vật, tâm trạng, hình ản h, … (có ngu yên mẫu từ cuộc sống hằng
ngày) bằng ngôn ngữ, gi ọng điệu có tính tr iết lý nhưng vẫn đằm thắm, s âu sắc
yếu tố trữ tình, lãng mạn. Tính triết luận đã trở thành một trong những yếu tố
mang tính thi pháp trong sáng tạo nghệ thuật của Ý Nhi. Ở đó bà chú trọng đến
chất thơ và hình thức thích hợp để truyền tải thông điệp mang những tư tưởng,
triết lý. Từ đây bà lôi kéo người đọc vừa phải rung động tâm hồn vừa phải vận
động trí tuệ để cảm thụ và suy nghĩ một cách tự nguyện, say mê.
Tính triết luận vì thế đã trở thành “đặc sản” trong thơ Ý Nhi. Nó là một
phần phong cách thơ của bà. Ở chương này, chúng tôi sẽ tìm hiểu yếu tố triết
luận của Ý Nhi như một nét đẹp trong phong cách của bà thông qua nh
ững suy
nghĩ của bà về những vấn đề liên quan đến cái đẹp và đời sống.
3.1.2. Xung quanh vấn đề cái đẹp và đời sống trong thơ Ý Nhi
Cái đẹp là phạm trù thẩm mỹ có vị trí cơ bản và trung tâm trong hệ thống
các phạm trù thể hiện đối tượng thẩm mỹ gồm cái đẹp, cái xấu, cái cao cả, cái
thấp hèn, cái bi, cái hài, cái hùng, v.v…Vị trí đó được bộc lộ trước hết ở chỗ:
người ta có thể dùng các thu ộc tính cơ bản của cái đẹp để xác định bản chất các
phạm trù thẩm mỹ khác. Bên cạnh đó, nó còn đặc biệt được bộc lộ trong hình
thái biểu hiện cao nhất của mối quan hệ thẩm mỹ là nghệ thuật. Cái đẹp bao giờ
cũng là mục tiêu hướng tới của nghệ thuật, của nh ững nghệ sĩ chân chính. Cái
đẹp khách quan và tư tưởng, tình cảm đẹp bao giờ cũng là khát vọng biểu hiện
của nghệ thuật chân chính xưa nay. Tác phẩm nghệ thuật luôn luôn đòi hỏi một
vẻ đẹp hoàn thiện từ hình thức đến nội dung. Nói tóm lại, nghệ thuật là nơi cao
nhất tập trung mối quan hệ thẩm mĩ của con người đối với hiện thực
và nghệ
thuật sẽ “chết yểu” nếu xa rời hoặc bỏ rơi cái đẹp.
Người nghệ sĩ là chủ thể sáng tạo cái đẹp trong nghệ thuật nên họ là
những người đầu tiên quan tâm và thể hiện cái đẹp theo tiêu chí, quan niệm thẩm
mỹ của họ. Cho nên từ xưa đến nay có không biết bao nhiêu người phát ngôn về
cái đẹp. Và hầu như những ai là nghệ sĩ đều trang bị cho mình một hành trang
nặng trĩu những suy tư, trăn trở về cái đẹp trong đời sống cũng như trong nghệ
thuật. Cái đẹp vì th ế trở thành một yếu tố không thể thiếu mà còn trở đi, trở
lại
đều đặn, dày đặc trong cảm thức, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ.
Trong cảm quan về cái đẹp và nghệ thuật như vậy, Ý Nhi đã không ít lần
thể hiện quan niệm của mình về cái đẹp thông qua việc triết lý ở các trang thơ.
Từ đây chúng ta nhận ra được quan niệm thẩm mỹ nhân văn và sâu sắc của bà.
Chúng ta dễ dàng nhất trí với nhau rằng, dù có nhiều điều thay đổi nhưng
cũng có những thứ tồn tại gần như là bất biến trong dòng chảy liên tục, bất ngờ
của đời sống (trong đó có đời sống văn học). Một trong những cái bất biến thuộc
về nguyên lý ấy là mối quan hệ không thể tách rời giữa văn chương và đời sống
của nhân dân và thời đại mình. Đơn giản vì con người (trong mối quan hệ với xã
hội) sinh ra văn chương là để thỏa mãn nhu cầu tinh thần của chính mình nên
văn chương không thể ngoảnh mặt lại với con người và đời sống xã hội loà i
người. Đó là con đường duy nhất để dẫn văn chương đến với đờ
i sống và ngược
lại, đời sống đi vào trong văn chương.
Sự hoàn thiện phong cách của Ý Nhi qua mỗi tập thơ một phần là nhờ
những “cú hích” khách quan của thời đại, của đời sống con người và xã hội Việt
Nam những năm sau giải phóng. Đồng thời, đời sống xã hội đi vào thơ Ý Nhi
nhẹ nhàng như hơi thở với sắc diện thâm trầm nhưng đa chiều, đa diện. Ý Nhi
làm mới mình bằng cách sử dụng yếu tố triết luận như một phương tiện nghệ
thuật hữu hiệu để thể hiện những suy nghĩ, những trải nghiệm của bản thân về
đời sống với muôn mặt thường ngày của nó. Qua những th ể hiện ấy, chúng ta
nhận ra Ý Nhi là một “nhà thơ luôn mong muốn … khám phá sắc sảo đối với tất
cả các góc cạnh của cuộc sống” [86] với cái nhìn nhìn sâu sắc và nhân văn.
3.2. Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi nhìn từ góc độ triết luận về cái đẹp
3.2.1. Triết luận về cái đẹp khách quan
Thế giới tự nhiên (với nghĩa khái quát nhất) dù thể hiện dưới hình thức, sự
vật, hiện tượng, hệ thống vật c h ất cụ thể khác nhau thì nó luôn ở trong trạng
thái
vận động, biến đổi không ngừng; đồng thời nó tồn tại khách quan độc lập với ý
thức của con người . Ch ẳng hạn như: một bông hoa nở rực rỡ trong buổi ban mai
tinh khiết, hay một giọng nói dịu dàng cất lên giữa những tạp âm, hay một câu
Kiều: “Cỏ non xanh tận chân tr ời/ Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”… tự
bản thân nó trước hết đã là cái đẹp. Còn đẹp như thế nào, đẹp đến mức độ nào,
tại sao đẹp lại là những vấn đề khác. Ở đây chúng tôi muốn nói đến thuộc tính
tồn tại khách quan, không hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con
người mà cái đẹp tự nhiên nói chung và cái đẹp nghệ thuật nói riêng sở hữu. Nói
như nhà nghiên cứu Lê Ngọc Trà trong Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa thì:
“Chúng ta không hề khuếch đại mặt b ản năng của nghệ thuật, …Th ừa nhận nó ở
một mức độ nào đó chính là khẳng định vai trò của nhân tố khách quan trong sự
đánh giá thẩm mĩ. Cái đẹp không chỉ là sản phẩm của ý thức, chỉ tồn tại trong
phán đoán thẩm mĩ của con người. Cái đẹp có cơ sở khách quan trong những
thuộc tính tự nhiên nào đó của bản thân sự vật.”[110; tr.256-267]
Ý Nhi triết luận về cái đẹp khách quan với các hình thức tồn tại sau:
3.2.1.1. Cái đẹp là cái đơn giản, tự nhiên, thuần khiết
Tự nhiên, đơn giản, thuần khiết tuy là ba từ nhưng cùng thể hiện một ý
niệm chung về cái đẹp của sự vật. Người Nhật dùng từ ghép Wabi Sabi để chỉ ý
thức, cảm nhận về cái đẹp tự nhiên, thuần khiết, đơn giản. Đó là cái đẹp không
phô trương mà cần sự quan sát, chú ý mới cảm nhận được. Ba từ của tiếng Việt
và từ ghép trong tiếng Nhật cùng chỉ những sự vật, những trạng thái đơn giản,
hoang sơ, truyền thống nhưng không vĩnh viễn. Nó cũng nhằm thể hiện cuộc
sống trong tính chân thực như nó vốn có nhưng không ngừng ph át triển và hoàn
thiện hơn nữa. Đó là cái đẹp Ý Nhi hướng tới.
Ý Nhi thường dùng khả năng quan sát tinh tế của mình để nhận ra những
cái đẹp như thế. Bà miêu tả nhị hoa trong vẻ đẹp chỉ có “on g” mới thấy để mà
nhầm lẫn hân hoan:
Đi suốt triền núi xa
hái đôi nhành “mảnh bát”
mưa đọng đầy nhị hoa
cho ong ngờ là mật.
(Mưa dạo tháng Mười)
Không dừng ở việc phát hiện cái đẹp tự nhiên, đơn sơ, thuần khiết trong
thiên nhiên, Ý Nhi cũng thường ngẫm nghĩ đến cái đẹp ấy trên đường đời:
Nắng trên đường, mây gió tháng năm qua
bước thành bại giữa đường nhiều xoay trở
như đã xa, như chưa bao giờ có
chỉ còn màu nước biếc đến muôn khơi.
(Biển)
Những hình ảnh thiên nhiên truyền thống : “n ắng”, “mây”, “gió” được nhà
thơ đưa vào thơ để thể hiện sự đổi thay, “xoay trở” của “thành bại” trên con
đường đời nhiều chông gai, trắc trở. Nhưng rồi mọi thứ cũng sẽ qua, rồi cũng
đến lúc người ta biết quên những gì không cần nhớ (“như đã xa, như chưa bao
giờ có”). Bởi vì, có một cái gì lớn lao, khoáng đạt hơn đang chờ ch úng ta ở
trước. Hình ảnh cuối cùng nhà thơ thấy được sau chuyến đi dài nhiều vất vả là
màu nước xanh biếc trải đến muôn khơi. Đó là hình ảnh thiên nhiên mang vẻ đẹp
“Wabi Sabi” – điểm dừng cuối cùng mà nhà thơ hằng ao ước. Cái đẹp đơn giản,
tự nhiên, thuần khiết mở ra để khép lại một suy nghiệm, một bài học đi đường
mà nhà thơ dành cho mọi người.
3.2.1.2. Cái đẹp là cái gắn với những giá trị tinh thần cao quý trong
cuộc sống
Giá trị tinh thần là phạm trù ý thức hệ rộng lớn của cộng đồng người mang
tính tích lũy và truyền thống. Giá trị tinh th ần là nội dung cơ bản của văn
hóa,
tạo nên các giá trị văn hóa cũng như tầm vóc văn hóa cho cộng đồng. Ở đây
chúng ta hiểu giá trị tinh thần ở mức độ đơn giản nhất là những gì tốt đẹp trong
phẩm chất cá nhân và cộng đồng.
Yêu quê hương, đất nước là một giá trị tinh thần được bồi đắp trong suốt
tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Tình yêu đất nước được Ý Nhi thể hiện
vô cùng giản dị trong thơ. Đó có thể là một lần nhà thơ“chỉ nghe ào ào tiếng
gió/
biết mình đang ở Tuy Hòa ” (Qua Tuy Hòa), hay lần khác nhà thơ thấy “lòng
cảm động nghẹn ngào trước đất/ đất khổ nghèo cay cực miền Trung” (Biển miền
Trung). Nhà thơ thường hay cảm động trước sắc trời quê hương, yêu tha thiết
những vùng đất đã đi qua và chưa bao giờ tới. Nơi nào trên dải đất hình chữ “S”
cũng là nơi gắn bó thân thiết với bà nên bà hay làm thơ về các địa danh như là
để
lưu dấu một kỉ niệm, một cái tên (Biển miền Trung, Qua Tuy Hòa, Tìm về
Chiêm Hóa, Nhớ Hải Phòng, Cà Mau, Sông Trà, Quảng Bình…)
Là người trải qua những thời khắc khốc liệt của chiến tranh, Ý Nhi suy
nghĩ và trân trọng vô cùng hai tiếng tự do. Bà hân hoan trong ngày giải phóng:
Đêm bình yên gió thổi xanh hàng cây
Hà Nội vào hè vị chua trái sấu
ôi Đất nước niềm vui không thể giấu
nước mắt, nụ cười, tiếng hát chúng ta đây.
(Mặt trời tháng Tư)
Càng thiết tha yêu quê hương đất nước bao nhiêu bà càng cố lý giải ý
nghĩa của tự do bấy nhiêu. Ý Nhi đã nhiều lần suy nghĩ về giá trị của hai chữ
“tự
do” :
Đó không phải là cách một người đói hiểu giá trị của bữa cơm
một người ốm quý trọng thuốc
cũng không giống như kẻ bất hạnh luyến tiếc tình yêu.
(Tự do)
Bằng ngòi bút triết luận như là một cố tật Ý Nhi thể hiện sự trăn trở về ý
nghĩa của từ “tự do”, và như vậy Ý Nhi càng trân trọng những người đã hy sinh
vì hai tiếng đó :
Có thể rất nhiều người trong số họ
không còn tuổi tên trên sử sách
có thể họ đã chết bình thường, không chiến công hiển hách
có thể mai sau người ta dần quên
nhưng họ đã thành hạt cát dưới bàn chân
thành miền đất chói ngời bên biển sóng.
(Cát 2)
Đối với Ý Nhi, họ đã trở thành hạt cát bất tử, sống mãi cùng đất trời. Đó
là những hạt cát lưu giữ những giá trị tinh thần lớn lao của toàn dân tộc. “Hạt
cát
dưới bàn chân” đã được bà nâng thành biểu tượng của cái đẹp tinh thần quý giá.
Nhớ về những gì đã qua, những người đã khuất dường như là thói quen
của Ý Nhi. Với người Việt đó là một biểu hiện của giá trị tinh thần, một nét đẹp
văn hóa. Ý Nhi thương nhớ cô bạn tên Nguyệt Lệ đã “ra đi không về nữa” bằng
một sự chờ mong, ngóng đợi vô vọng mà thiết tha: “Chiều nay mình trở về/ căn
nhà xưa của Lệ/ tưởng ch ỉ sau ô cửa/ là chúng mình có nhau” (Với Lệ). Hay ở
Sài Gòn mà hằng năm vẫn thắp nén nhang tưởng niệm họa sĩ Bùi Xuân Phái xa
tận thủ đô (Khóc bác Bùi Xuân Phái). Khi lớn tuổi, Ý Nhi rất thích tìm về
những nét đẹp của tín ngưỡng dân gian: thờ thần, tin tưởng vào sự linh thiêng
của trời đất nên bà khấn nguyện trời đất sự s um vầy, bình an (Trung thu, Ngày
mồng một..).
Ý Nhi hay tìm cái đẹp trong những mối tình đích thực. Đó là mối tình mà
người đến với người bằng sự đồng cảm, sẻ chia như mối duyên muộn của anh
lính mù và cô gái truân chuyên ở bài Hai người. Hay mối tình dịu dàng, say
đắm, vị tha của một người đàn ông gửi cho người tình đơn phương tên Lili trong
bài Đọc một bài thơ tình. Tình yêu là cái đẹp mang giá trị tinh thần to lớn, nó
đòi hỏi người trong cuộc phải có những phẩm chất cơ bản để biết nhận diện và
nuôi dưỡng nó. Ý Nhi chỉ dạy con trai những bài học đầu tiên để có được tình
yêu thật sự của mình:
Tình yêu sẽ chờ con sau tháng năm kia
khi đón gặp xin con đừng hờ hững
chỉ một chút yếu hèn toan tính
con có thể lạc đi hạnh phúc suốt đời mình.
(Trò chuyện)
Những giá trị tinh thần làm nên cái đẹp cho người và cho đời vốn đã rất
đáng quý. Khi được Ý Nhi đưa vào thơ với một chút suy tư, triết lý chúng càng
trở nên sâu sắc hơn, giá trị của chúng trở nên l ớn lao hơn. Chúng ta nhận thấy
đó
không chỉ là cái đẹp thông thường nữa mà dường như được nhà thơ đưa lên tầm
« tín ngưỡng »: tín ngưỡng văn văn hóa, tín ngưỡng tình thương…
3.2.1.3. Nhân cách nghệ sĩ là một phạm trù của cái đẹp khách quan
Nói đến nhân cách nghệ sĩ là nói đến đạo đức, lối sống của người ng hệ sĩ.
Nghệ sĩ có nhân cách là nghệ sĩ có đạo đức, có lối sống đúng chất nghệ sĩ, theo
kiểu “Anh là họa sĩ, anh hãy vẽ đi!”. Chính điều đó làm nên vẻ đẹp của người
nghệ sĩ mà không cần ai phải bình phẩm hay đánh giá.