Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi
10,096
974
139
nào biết đâu buồn thương
còn chờ ta trước mặt
biết đâu niềm hạnh phúc
từng có thật trong đời
chợt ngoảnh đầu nhìn lại
đã nên điều xa xôi.
(Thơ tặng cháu)
Ý Nhi từng bước thể nghiệm sự cách tân ở thể thơ năm chữ. Đến Ngày
thường, thơ năm chữ của Ý Nhi mang khuôn mặt mới:
Loay hoay trang sách cũ
lời bình từ năm xưa
thơ cộng tác viên dày c ộp
đọc từ mùa nắng sang mùa mưa
quần của con cần xuống gấu
gạo hết, lo xếp hàng
cành lá trên rèm cửa sổ
xanh từ ngày sang đêm.
(Ngày thường)
Những câu năm chữ (vẫn là chủ yếu) xen lẫn với những câu thơ sáu, bảy
chữ thể đã hiện nhu cầu thú c bách tự bên trong không thể kiềm giữ được, cần
phải “vượt biên” từ ngữ. Nếu tuân thủ giới hạn từ ngữ sẽ hạn ch ế nhịp điệu tâm
hồn. Ngày thường với bao việc bận rộn, dường như làm hoài không hết, vậy mà
sao vẫn thấy cũ kĩ, đơn điệu. Bà ao ước “một tiếng gõ bất thường sau cánh cửa”.
Và đây chính là “tiếng gõ bất thường” mà bà mong muốn trong thơ.
Thơ năm chữ của Ý Nhi từ đó tiến gần hơn với thơ tự do để biểu đạt được
nhiều hơn những gì bà muốn. Dần dà một bài thơ của Ý Nhi được viết bằng
nhiều loại thể. Chẳng hạn, bài Không đề, phân đoạn một là những dòng thơ hai,
ba chữ; phân đoạn hai là thơ tự do, đến phân đoạn thứ ba là một bài thơ năm chữ
cách tân:
Đã muộn rồi ban mai
đã muộn rồi con đường
đã muộn rồi chuyến xe.
Đã muộn rồi nụ cười
đã muộn rồi nỗi đau
đã muộn rồi thương nhớ
đã muộn rồi giọt lệ khôn cầm.
Ai còn gọi.
Đã muộn rồi tán lá
đã muộn rồi tiếng chim
đã muộn rồi bờ cát.
Đã muộn rồi ánh nhìn
đã muộn rồi lời yêu
đã muộn rồi bước chân
đã muộn rồi vết hằn nơi vầng trán.
Ai còn gọi chi lạc giọng giữa chiều.
(Không đề)
Đây là buổi chiều muộn của một tâm hồn còn nhiều trăn trở, của
một tâm hồn luôn luôn “xao xác trước ngày yên”, của một con người
mang một “nỗi lòng không xác thực”. Diện mạo bài thơ năm chữ thay đổi
nhiều qua bàn tay “nhào nặn” của Ý Nhi. Những khổ thơ bốn câu năm chữ
đã biến dạng thành nhiều hình thức kh ác: khổ b a câu, khổ bốn câu, khổ
một câu xen lẫn nhau. Câu thơ cuối cùng của khổ không còn năm chữ nữa
mà là bảy, tám chữ. Khổ thơ một câu, ba chữ “Ai còn gọi.” làm nên
khoảng lặng lắng sâu, im lìm như giọt nước mắt rơi, như giọt mưa trong
bể. Âm thầm mà khẩn thiết, đớn đau. Cách gieo vần thường thấy của thể
loại mà Ý Nhi hằng tuân thủ, nay đã không còn nữa. Ch ẳng còn vần, chỉ
còn nhịp nức nở, cam chịu, hư không.
Cách tân bằng cách xóa nhòa ranh giới thể loại, Ý Nhi liều lĩnh và
thành công!
2.3. Phong cách kết cấu
2.3.1. Kết cấu theo mô hình triết luận
Thơ nữ thường thiên về “duy cảm”. Ý Nhi không lựa chọn con đường đó,
bà chọn thơ “duy lí” mang tính biện giải, đút rút, chiêm nghiệm. Vì vậy nét nổi
bật làm nên phong cách thơ bà là tính triết luận. Những triết lí, luận giải
trong
thơ Ý Nhi như đã đề cập thường không cao xa, khó hiểu mà gắn bó mật thiết với
đời sống, với những cái hằng thường mỗi ngày bà trải qua. Triết lí khi bắt gặp
màu xanh của chùm rau me đất; triết lí khi làm một bài thơ cho con, cho cháu,
cho bạn bè; triết lí khi xem đá bóng; triết lí khi xem xiếc rắn ở hồ Thuyền
Quang… Bất kì cảnh tượng, sự việc gì cũng được Ý Nhi soi chiếu ở một chiều
kích khác - chiều kích của trí tuệ - nó đòi hỏi người nghệ sĩ ngoài vốn sống còn
cần có chiều sâu của tri t hức và liên tưởng.
Để tổ chức một bài thơ, Ý Nhi có một mô hình triết luận đặc biệt thường
xuyên xuất hiện và mang lại hiệu quả trong việc sắp xếp, tổ chức các yếu tố nghệ
thuật thành một chỉnh thể. Con đường như sau:
- Nhân vật, sự việc, hiện tượng được đặt tr ong hoàn cảnh, thời g ian, không
gian.
- Lựa chọn hoặc kết hợp các bước nhận thức sau: tự vấn (hỏi), phán đoán,
khẳng định.
- Quá trình nhận thức được biểu đạt qua các phương tiện nghệ thuật (phép
tu từ): so sánh, phép điệp, đối lập-tương phản…
- Hiện hình thông điệp mang tính triết lí về con người và cuộc đời (trực tiếp
hoặc gián tiếp)
Đây là mô hình:
Người đàn bà ngồi đan là một ví dụ tiêu biểu:
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời
vội vã như thể đó là lần sau chót.
Không thở dài
không mỉm cười
chị đang giữ kín đau thương
hay là niềm hạnh phúc
lòng chị đang tràn đầy niềm tin
hay là ngờ vực.
Không một lần chị ngẩng nhìn lên
chị đang qua những phút giây trước l ần gặp mặt
hay sau buổi chia ly
Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu
trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng.
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
dưới chân chị
cuộn len như quả cầu xanh
đang lăn những vòng chậm rãi.
Bài thơ Người đàn bà ngồi đan có một kết cấu độc đáo tiêu biểu cho mô
hình triết luận trong thơ Ý Nhi. Thông điệp triết lí mà Người đàn bà ngồi đan
gửi đến không được th ể hiện trực tiếp trên văn bản mà được thể hiện gián tiếp
qua hình tượng.
Hình tượng người phụ nữ ngồi đan trong một buổi chiều lạnh đã làm chao
đảo thi đàn trong hai mấy năm qua. Người đàn bà đó bí ẩn có kém gì nụ cười của
nàng MonaLisa của Leonardo da Vinci. Khuôn mặt của chị là một bí ẩn, tâm hồn
của chị còn bí ẩn hơn. Chị được giới thiệu là “một người đàn bà” – có lẽ khoảng
hai mấy hay ba mấy tuổi. Công việc của chị là “đan” – dùng hai mũi kim dài để
kết nối các sợi len theo một quy tắc nhằm tạo ra những vật dụng giữ ấm cơ thể.
Người đàn bà đó được đặt trong thời gian là buổi chiều, trong không gian lạnh
lẽo (có lẽ của mùa đông) và cứ thế ngồi đan không biết đến bao giờ với nhịp đan
khi nhanh, khi chậm như “nhẫn nại”, như “vội vã”. Chị đang giữ điều gì cho
riêng chị?! Chị “không một lần ngẩng nhìn lên” cũng không có một hành động gì
kể cả “thở dài” hay “mỉm cười” để người khác có thể đoán biết được suy nghĩ.
Chị là ai?
Bắt đầu từ đây là một chuỗi những câu hỏi (tự vấn) và những phán đoán :
- Tâm trạng chị như thế nào?
- Cuộc đời chị có biến cố gì?
- Lòng chị đang chất chứa tâm sự gì?
Dường như có muôn vàn câu hỏi tác giả tự đặt cho mình và cho người đọc
về tâm trạng và cuộc đời của chị. Không thể nhận ra điều gì từ dáng vẻ “vừa
nhẫn nại vừa vội vã” kia, nhà thơ buộc phải suy đoán:
- đau thương >< hạnh phúc
- tin yêu >< ngờ vực
- những phút giây trước lần gặp gỡ >< những phút giây sau buổi chia ly
- hân hoa n >< lo â u
- chán chường >< hy vọng
Những phán đoán của nhà thơ là những cực đối chiều nhau được thể hiện
bằng những từ ngữ mang tính đối lập-tương phản. Những phán đoán đối lập và
cực đoan này dường như làm người đàn bà kia thêm phần bí ẩn. Vì càng hỏi,
càng phán đoán lại càng vô vọng trong nhận thức. Hình ảnh “người đàn bà ngồi
đan” vì vậy càng có cơ hội tồn tại một cách day dứt và ám ảnh.
Hai câu đầu của khổ cuối nhắc lại hình ảnh “người đàn bà ngồi đan” với
không gian, thời gian giống y như lúc chị vừa xuất hi ện (Giữa chiều lạnh/ một
người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ). Đó là cái kết của một ánh nhìn. Dường như
đến đây, các giác quan của chúng ta bắt đầu mệt mỏi, chúng bỏ cuộc trong h ành
trình đi sâu vào trí não để tìm hiểu về khuôn mặt chị, tâm trạng chị, cuộc đời
chị;
chúng chuyển hướng quan sát và nhanh chóng bắt gặp chiếc chìa khóa mở ra tất
cả. Chiếc chìa khóa là vật đang nằm ngay dưới chân chị - cuộn len xanh.
Thông điệp mang tính triết lý được thể hiện ngay ở hình ảnh so sánh này:
“Cuộn len như quả cầu xanh/ đang lăn những vòng chậm rãi”. Quả cầu tròn xoe,
nhỏ bé chuyên chở trong nó bao trắng đen của cuộc đời, bao may rủi của số
phận, bao điều yêu thương, bao nỗi tị hiềm, bao lần tin yêu, bao lần phản trắc…
Quả cầu chính là sự thu nhỏ của đời sống. Quả cầu chính là cuộc đời. Cái cuộc
đời đó quay chậm rãi, đều đặn trong sự điều khiển dịu dàng mà tinh tế của người
đàn bà ngồi đan trong một buổi chi ều lạnh. Quả cầu chứa đựng muôn mặt của
cuộc sống, mỗi sợi tơ làm nên quả cầu chính là những sợi len làm nên chiếc áo
ấm, chiếc khăn ấm. Hai mũi đan có khác gì chiếc đũa thần làm nên điều kì diệu.
Và đôi bàn tay “nhẫn nại” và “vội vã” kia làm thay đổi tất cả, thay đổi cuộc
đời.
Hình tượng kép: “Người đàn bà” – “Quả cầu xanh” vì thế vừa là tứ thơ
vừa là triết lý nhân sinh mà nhà thơ Ý Nhi đã dụng công sắp đặt làm nên cấu trúc
tuyệt vời của một văn bản ngữ văn. Tài hoa là ở đây - ở kết cấu văn bản theo mô
hình triết luận mà Ý Nhi đã nhiều lần thể nghiệm trước và sau đó.
Có thể đọc rất nhiều bài thơ của Ý Nhi theo mô hình kết cấu này. Chẳng
hạn như: Mùa thu chưa tới, Về Thái Nguyên, Cái chết của một nhà thơ, Người
bán rắn bên hồ Thuyền Quang, Một buổi chiều ở Praha, Thơ vui dưới hàng
cây cơm nguội, Theo dõi một trận đấu cờ vua, Lẽ phải, Trận đấu giã từ của
Olek Blokhin, Hà Nội, tháng 5.1987, Quán cũ…
2.3.2. Cách tạo khoảng lặng trong kết cấu thơ
Chủ nghĩa hình thức của Jakobson cho rằng: thơ là “sự quay trở lại”
(vertere, versus) và "câu thơ là sự trở về" (le "vers est "vers")[113;tr.197],
nghĩa
là câu thơ luôn quay trở lại với nó bằng hiện tượng lặp lại một cách trùng điệp
các mặt ngữ âm, từ vựng, cú pháp, nhịp điệu… Các nhà thơ thường vận dụng
điều này để gây hiệu ứng âm thanh và nhạc điệu cho thơ của mình. Nó giúp tạo
sự rung động dìu dặt hoặc mạnh mẽ trong sự cảm nh ận của người đọc, khiến họ
tò mò hoặc phấn khởi tham gia vào cuộc truy tìm“dòng chảy ngầm”. Tận dụng
điều này, nhà thơ “nội cảm” Ý Nhi đã tạo những khoảng trắng trên không gian in
thơ, khoảng lặng ngôn từ trong kết cấu bài thơ để biểu đạt ý niệm và nhạc tính
của thơ.
Ý Nhi có nhiều kiểu tạo khoảng lặng trong kết cấu tùy vào sự triền miên
hay dồn nén, dàn trải hay đứt đoạn, nhảy cấp hay liên tục của ý thơ. Sau đây là
những kiểu tạo khoảng lặng cơ bản trong kết cấu thơ của bà:
- Khoảng lặng của không gian văn bản: là biện pháp cơ bản và hữu
hiệu để tạo những không gian trống vô ngôn trong văn bản. Điều đó giống như
nhạc sĩ hạ một nốt lặng nhả hơi trong âm nhạc. Ở đây nhà thơ xuống hàng, bỏ
trống một không gian in thơ. Nói một cách dễ hiểu thì đây là việc ph ân ch ia
khổ
thơ rất phổ biến trong thi ca xưa nay.
Ý Nhi cũng làm như vậy, nhưng đó không chỉ là cách bà phân khổ cho
bài thơ mà việc tạo một khoảng trống còn thể hiện dụng ý nghệ thuật. Như đã
phát hiện ở phần II.2.1 thì hầu hết mỗi khổ thơ của Ý Nhi đều là một câu thơ
được ngắt dòng nên đầu mỗi dòng các tiếng không được viết hoa, cuối mỗi dòng
không có dấu chấm câu mà phải đợi đến hết khổ mới có. Như vậy, việc tạo
khoảng lặng ở mỗi khổ chắc chắn mang trong nó một lượng thông tin nhất định.
Ta thử quan sát một bài thơ, bài Nhà văn Nguyễn Minh Châu chẳng
hạn:
Tự mình thức tỉnh
điều chỉ có nơi một lương tâm trong sạch.
Tự lìa bỏ
những giá trị đã một đời xây đắp
điều chỉ có nơi một người hoàn toàn mạnh mẽ.
Tự bước khỏi lối mòn
(cái lối mòn từng dẫn tới vinh quang)
Điều chỉ xảy ra với một tài năng.
Bừng sáng
giữa bao nhiêu ràng buộc, tối tăm.
Bừng sáng
giữa bao nhiêu hiềm khích.
Bừng sáng
Gương – Mặt – Người – Kêu – Gọi.
Bài thơ được chúng tôi chép nguyên văn bản in. Bài thơ có tất cả 6 khổ
thơ ứng với 6 câu thơ. Khổ 1 có 2 dòng, khổ 2-3 có 3 dòng, khổ 4-5-6 trở lại 2
dòng. Giữa các khổ là những khoảng trống. Vị chi toàn bài thơ chiếm hết 19
dòng trên không gian văn bản. Không gian đó có vẻ rộng hơn những gì cần nói.
Nhận xét về sự phân chia các khổ chúng ta thấy một sự bất cân bằng, theo
chữ dùng của Jakobson là “lệch đối xứng”. Điều này tạo nhiều liên tưởng:
+ bài thơ giống như một chiếc cân mà hai bàn cân không bằng nhau,
trục đỡ cũng có cảm giác khập khiêng;
+ hoặc bài thơ giống như một cái b ập bênh mà một bên chịu sức nặng
hơn nên lúc nào cũng nghiêng hẳn về một phía;
+ hoặc bài thơ là một cái đòn bẩy mà một đầu hợp lực cùng giá đỡ để
nâng đầu kia có sức nặng hơn lên cao hơn chỗ mà nó đang đứng.
Liên tưởng cuối cùng có vẻ phù hợp với vị thế của “Gương – Mặt – Người
– Kêu – Gọi” Nguyễn Minh Châu nhất. Có được hiệu quả của sự liên tưởng
phong phú đó là nhờ những khoảng trống giữa các khổ thơ. Nó giúp tạo nên một
không gian rộng lớn để người đọc có thể để cho trí não của mình xoay chuyển
trong đó.
Giả sử nhà thơ ghép khổ 2 lại với khổ 3; các khổ 4-5-6 lại với nhau; bỏ đi
ba khoảng trống thì ý nghĩa thơ không thay đổi nhưng độ giãn nở của nó không
có, tính tăng cấp của hình tượng và y ếu tố phân tích – khẳng định không còn
nữa. Và như vậy thì bài thơ đã mất đi quá nhiều cái mà nó đáng (cần) có.
Với những khoảng lặng vô ngôn đó, Ý Nhi đã nói được nhiều hơn những
gì cần nói, nghĩa là, nhà thơ không cần diễn giải gì cả mà các khoảng lặng ấy tự
nó sẽ cộng hưởng, tương tác với ý nghĩa của câu chữ để tạo nên một chỉnh thể
trọn vẹn, hoàn thiện bất ngờ. Đây chính là cách Ý Nhi thường dùng để xây dựng
kết cấu văn bản thơ sao cho thơ nói được nhiều nhất mà ngôn từ lại giản dị, ít
gọt
giũa nhất, tiết kiệm nhất.
- Khoảng lặng ở đầu và cuối bài thơ: Ý Nhi có rất nhiều bài thơ được
kết cấu theo kiểu tạo khoảng lặng ở đầu bài thơ hoặc ở cuối bài thơ hoặc đôi khi
kết hợp cả hai (rất ít và không tiêu biểu). Điều đó tạo nên dấu ấn cho bài thơ
đồng thời cũng tạo nên một kiểu kết cấu mang tính cá biệt của Ý Nhi.
Những bài thơ được kết cấu theo kiểu tạo khoảng lặng ở đầu bài thơ như:
Về trung du tháng rét; Người lính; Sông Trà; Hải Phòng, tháng 11 năm 1979;
Vận động viên; Tiểu dẫn; Biển chiều… Đó thường là một khổ thơ ngắn khoảng
chừng hai, ba dòng. Về hình thức: chúng thường ít về số chữ, số dòng hơn so với
các khổ còn lại; về nội dung: chúng thường làm nhiệm vụ giới thiệu và khơi gợi
cảm xúc; về nhịp điệu: chúng thường nhanh, gấp, gãy gọn hơn so với nhịp điệu
toàn bài. Chúng thường nằm tách biệt khỏi hệ thống bài thơ. Có khi người đọc sẽ
quên nó ngay sau khi đọc và cảm nhận được nét đặc sắc trong nội dung, tư tưởng
của toàn bài. Nhưng giá trị nổi bật và đặc biệt của chúng chính là sự lập ý và
gợi
tứ cho toàn bài thơ. Nói một cách ví von, chúng giống như những ngọn hải đăng
để đảm bảo sự vững vàng của ý và tứ thơ giúp nhà thơ định hướng được điều
mình sẽ giải bày nhằm tránh sự sa đà, điều rất hiếm gặp trong thơ Ý Nhi.
Những bài thơ được kết cấu bằng cách tạo khoảng lặng ở cuối bài thơ xuất
hiện dày đặc hơn hết, có thể kể như: Tìm về Chiêm Hóa, Mùa thu chưa tới, Về
Thái Nguyên, Mùa thu, Ngày thường, Cái ch ết của nhà thơ, Phố nắng, Theo
dõi một trận đấu cờ vua, Nhà thơ và cái hồ nhỏ, Tháng Chạp, Thơ tặng Êlêna,