Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi
10,199
974
139
Có lẽ…
Có lẽ…
Có lẽ…
Có lẽ…
Có lẽ…
Có lẽ…
hãy tha thứ cho tôi
nếu tôi đã đoán sai
những điều có tro ng mã số
218.97.13
Ý Nhi dường như muốn văn xuôi hóa để diễn giải những phán đoán, suy
diễn của bà. Đây là một bước của tư duy triết luận trong thơ.
Ngoài ra Ý Nhi còn dùng các nhóm từ đậm ch ất văn xuôi khác như : Như
thể là, có thể nào, nào hay đâu, nào còn đâu, mấy ai…, đột nhiên anh…,hầu như
bao giờ…, cố nhiên là…, không thể…cũng không thể, có thể là…mà còn là, mấy
nỗi, bạn biết đấy, tôi quả quyết, như thế kia ư, biết chừng nào, giá mà…, báo
văn
hóa thể thao đưa tin…,nhưng…ấy mà, anh không thể…nhưng anh có thể, hãy
lưu tâm đến…Những nhóm từ này được Ý Nhi sử dụng vô cùng tự nhiên thoải
mái. Điều đó chứng tỏ nó nằm trong chủ đích sáng tạo của nhà thơ góp phần làm
nên một nét đẹp trí tuệ trong thơ của bà. Qua đây bà chứng tỏ tính hiệu quả khi
thể nghiệm một cách làm thơ khác đi cùng chiều với sự thay đổi của thời cuộc.
Thơ Ý Nhi còn có những cụm từ đối lập, tương phản để khái quát và luận
giải. Con người, sự vật, hiện tượng xét về bản tính tự nhiên đều là những thực
thể luôn tồn tại trong những trạng thái phức tạp với những xung động đa chiều.
Điều này tạo nên tính không trọn vẹn cũng như tính hai mặt trong mỗi con
người, sự vật, hiện tượng. Là người luôn trăn trở và nhạy cảm, Ý Nhi muốn đưa
vào thơ tất cả những trạng huống đó để b àn luận tạo nên những triết lý khá sâu.
Triết lý về đạo đức con người : « họ đã nói bao điều họ không hề nghĩ/ ta đã
nghĩ bao điều mà không nói », triết lý về lẽ sống còn : « anh đã nghĩ đến cái
chết/ như bao lần anh nghĩ về cách sống », tri ết lý về tự do : « Lúc no người
ta
không nhớ đến cái ăn/ lúc khỏe người ta quên thuốc/ người ta cũng sẽ thôi nghĩ
về may mắn trong hạnh phúc », triết lý về đời thơ : « Giọt nước mắt ràn rụa qua
gương mặt hạnh phúc/ nụ cười cay đắng trước trò đùa nghiệt ngã của số phận »,
triết lý về trò đời : « tôi biết có những trò đùa cay nghiệt/ và những việc
nghiêm
trang lại là một trò đùa »… Những triết lý này có s ức khái quát cao. Nó chính
là
sự thật ở đời mà đôi khi người thường chúng ta dễ dàng bỏ qua hoặc nhận ra
nhưng không nói được thành lời và chẳng để ý mấy. Bằng trải nghiệm và suy tư,
Ý Nhi đã diễn đạt đầy trí tuệ qua việc sử dụng thành công phương thức đối lập.
Ngôn ngữ trong thơ Ý Nhi nặng tính khái quá t, triết luận được thể hiện rõ
nét qua việc dùng từ, đặt câu. Cách diễn đạt theo xu hướng này khiến thơ của bà
giàu chất trí tuệ. Qua đây ta cũng thấy nhà thơ có ý thức vô cùng sâu sắc về
việc
sử dụng ng ôn từ thơ một cách cá tính để thể hiện sự bức phá và vượt thoát bản
thân trong lao động nghệ thuật.
2.1.3. Một số biện pháp tu từ tiêu biểu
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt, là “phương tiện giao tiếp
quan trọng nhất của con người” (V.I Lênin). Xét về bản chất, ngôn ngữ là một
hệ thống kí hiệu, mỗi kí hiệu ngôn ngữ bao giờ cũng gồm hai mặt: âm và nghĩa.
Nói như F. de Sausure, đó là mặt “cái biểu đạt” (hình ảnh âm thanh) và mặt “cái
được biểu đạt” (ý niệm). Hiểu một cách nôm na ngôn ngữ phải bao gồm 2 mặt:
từ và nghĩa của từ hay hình thức từ và nội dung mà từ biểu đạt. Mối quan hệ giữa
từ và nghĩa vì vậy là mối quan hệ biện chứng, là mối qua n hệ tự nhiên, có tính
võ
đoán và không có nguyên do.
Tuy nhiên từ ngữ không bao giờ đứng yên m ột chỗ mà luôn luôn thay đổi,
phát triển. Con đường thay đổi cơ bản của từ là chuyển nghĩa thông qua các
phương thức khác nhau. Những cách thức chuyển nghĩa này khiến cho vỏ ngôn
ngữ tuy không thay đổi nhưng lại mở ra nhiều biểu hiện thế giới khách quan một
cách hữu hiệu và tinh tế. Từ đây từ ngữ trở nên có tính đa nghĩa. Và “quan hệ
giữa âm và nghĩa, tức g iữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt không còn là quan
hệ tương ứng một đối một nữa”[49;tr.1]. Các biện pháp nghệ thuật đóng vai trò
to lớn trong sự thay đổi và phát triển của từ ngữ. Theo Lại Nguyên Ân thì:
“trong thực tiễn nghiên cứu văn học, người ta thường nói đến các biện pháp
nghệ thuật khi xác nhận những hình thức phát ngôn mới, hoặc khi nói đến việc
sử dụng những biện pháp nghệ thuật đã ổn định vào mục đích mới.” [82]. Vì vậy
việc sử dụng thành thạo và có hiệu quả các biện pháp nghệ thuật sẽ làm nên cá
tính, phong cách của một nhà văn, nhà thơ. Đồng thời cũng khẳng định được
những đóng góp của nhà văn, nhà thơ trên bình diện ngôn ngữ.
Thơ Ý Nhi xuất hiện các biện pháp tu từ sau:
2.1.3.1. Phép so sánh
So sánh là biện pháp tu từ được sử dụng phổ biến trong đời sống cũng như
trong sáng tác văn học của người Việt. So sánh được hiểu là “đối chiếu hai hiện
tượng có dấu hiệu tương đồng nhằm làm nổi bật đặc điểm, thuộc tính của hiện
tượng này qua đặc điểm, thuộc tính của hiện tương kia” [35;tr.282]. Mô hình
truyền thống của nghệ thuật so sánh là:
Cái được so sánh
(vế A)
Phương diện so
sánh
Từ so sánh
Cái dùng để so sánh
(Vế B)
Trong thơ ca truyền thống, so sánh được dùng như một phương tiện tạo
hình. Trong thơ hiện đại, biện pháp so sánh lại được vận dụng với nhiều sắc diện
mới. Các nhà thơ hiện đại có ý thức mở rộng biên độ so sánh bằng cách mở ra
nhiều trường ngữ nghĩa. Từ việc so sánh cái cụ thể với cái trừu tượng, thi sĩ có
thể so sánh h ai cái trừu tượng với nhau. Chế Lan Viên là một ví dụ. Đặt hai cái
trừu tượng cạnh nhau, nhà thơ đã làm cho câu thơ của ông được nhận thức trong
chiều sâu suy tưởng. Chế Lan Viên viết về nỗi nhớ: “Anh nhớ em như đông về
nhớ rét”. Nhớ là trạng thái cảm xúc, nó không có hình vị; rét cũng vậy, là xúc
giác. Cả hai đều khó miêu tả được bằng quan sát. Nhưng trong sự sáng tạo mới
mẻ của Chế Lan Viên chúng ta đã cảm nhận sự xa cách trong tình yêu khiến lòng
người trống trải, vô duyên giống như đông về mà không có cảm giác rét buốt.
Cách so sánh trừu tượng mới mẻ đó đã mang lại cho cảm xúc “nhớ” dư vị đặc
sắc mà chỉ có thể cảm chứ khó mà diễn đạt thành lời. Có thể thấy thi sĩ hiện đại
đã đẩy phép so sánh lên thành một phương tiện đắc lực cho nhận thức và tư duy.
Ý Nhi cũng là một trường hợp như thế. Là người luôn muốn cảm nhận tận
tường mọi biểu hiện giản dị nhất trong đời sống, Ý Nhi đã có gần 100 lần sử
dụng biện pháp so sánh. Chúng ta dễ dàng tìm thấy hiện tượng so sánh trong thơ
Ý Nhi như một biện pháp nghệ thuật đặc sắc và chủ đạo.
Trong thơ Ý Nhi, cấu trúc so sánh được xây dựng từ nhiều mối quan hệ
ngữ nghĩa, nhưng Ý Nhi chuộng sử dụng nhiều nhất là mối quan hệ giữa cái cụ
thể và cái cụ thể: Tô i sững sờ trước một sắc nước xanh / như trời thẳm như vô
cùng cây lá (Biển Miền Trung), Mưa đọng đầy nhị hoa/ cho ong ngờ là mật
(Mưa dạo tháng 10), Em bắt gặp mắt nhìn anh bổi hổi/ như có cả mùa thu chờ
đợi (Cánh cửa), Chùa như thể bóng cây (Chùa trong phố)… Điều đặc b iệt là
những nét nghĩa mang thuộc tính cơ bản của hai đối tượng cụ thể đã bổ sung cho
nhau giúp nâng tầm khái quát hình tượng trong thơ Ý Nhi.
Thơ Ý Nhi có những hình ảnh mang tính ám gợi, tượng trưng cũng được
tạo nên bởi hai vế so sánh cụ thể này:
Con thuyền mỏng như mảnh trăng nằm đợi
(Ngã ba sông)
Con thuyề
n (cái được so sánh) và mảnh trăng (cái dùng để so sánh) là
những vật rất cụ thể. Cả hai đều gợi đến những số phận nhỏ bé mỏng manh, gợi
đến nỗi đơn côi và tội nghiệp. Đó có thể là bóng dáng một người ngơ ngác giữa
ngã ba sông, không biết phải lựa chọn con đường nào để đến được bến bờ mong
muốn. Có điều lạ là: thông thường ta sẽ so sánh “mảnh trăng như con thuyền”,
nhưng ở đây “con thuyền” lại được so sánh v ới “mảnh trăng”. Sự đổi vị trí hai
vế
so sánh đã đẩy sự chờ đợi của con người đơn côi đến đỉnh vô vọng.
Qua việc sử dụng phép so sánh, ta thấy Ý Nhi có biệt tài mở rộng trường
liên tưởng nhất là khi bà sử dụng những hình ảnh so sánh trùng điệp:
Em đã đợi chờ anh suốt cuộc đời mình
như đá xám chờ tay người tạc tượng
sông khô cạn chờ mùa mưa lớn
cây giữa rừng đợi ánh mặt trời lên.
Suốt đời mình em đã đợi chờ anh
như vạt cỏ đợi chờ ngọn gió
giấy trong lành đón đợi những câu thơ.
(Về Chiêm Hóa)
Vế được so sánh: Em đã đợi chờ anh. Vế dùng để so sánh: đá xám…, sông
khô cạn…, cây…, vạt cỏ…, giấy…. Chỉ một hiện tượng thôi mà được đối chiếu
với quá nhiều hiện tượng khác. Nhiều vế so sánh xuất hiện khiến trường liên
tưởng dần mở rộng và tạo cảm giác sự chờ mong của “em” trải qu a nh iều sắc độ:
có khi là đau đáu, có khi là hân hoan, khi khác lại như là sự tự nguyện đến ngây
thơ… tiếp nối nhau tạo hiệu ứng tăng cấp cho sắc thái tu từ. Những vế so sánh
trùng điệp trong đoạn thơ tạo nên chuỗi liên tưởng bất ngờ và thú vị dẫn dắt và
khơi mở xúc cảm nơi người đọc. Vì thế sự chờ đợi của em càng trở nên ám ảnh
hơn.
Có thể nói trong thơ Ý Nhi tràn ngập nh ững hình ảnh so sánh mới lạ,
những hình ảnh tưởng chừng như rất khác xa nhau khi được bà đặt gần nhau
bỗng tạo nên sự liên tưởng đặt biệt, nó vừa nữ tính, lại vừa uyên sâu:
Giữa bao nhiêu năm tháng ngược xuôi
đã có lúc lòng con đơn bạc
quên cả những điều tưởng không sao quên được
như ngườ
i no quên cơn đói của mình.
(Kính gửi mẹ)
Cuộc đời xô ta ngày càng đi xa ngôi nhà của mẹ, ngày càng xa nỗi nhớ
thương của mẹ. Hình ảnh “người no quên cơn đói” tạo nên một tứ thơ lạ. Trường
liên tưởng đi từ một t âm hồn người con lãng quên lòng mẹ, một tâm hồn “đơn
bạc” thành sự no sự đói của một con người làm nên một ấn tượng rất sâu. No gì,
đói gì? No cảm giác bề bộn và đói những tình cảm sâu nặng.
Ý Nhi còn có những so sánh nặng ý vị Thiền:
Lòng chợt buồn ngơ ngác
như người không quê hương
(Tháng mười)
Cảm giác mong manh mà tê tái. Hình ảnh “lòng buồn ngơ ngác” được ví
với “người không quê hương” có gì đó thật mông lung, trống trải. Chợt nhớ đến
bài ca “Bên đời hiu quạnh” của Tr ịnh Công Sơn mà nghiệm ra triết lí “vô sinh,
vô diệt”, “sắc sắc, không không” trong đời. “Rồi một lần kia khăn gói đi xa.
Tưởng rằng được quên thương nhớ nơi quê nhà. Lòng thật bình yên mà sao buồn
thế. Giật mình nhìn tôi ngôi khóc bao giờ…”
Chính những cách tư duy so sánh mới lạ này đã đem lại nhiều nét nghĩa
mới cho sự vật đồng thời th ể hiện một cách mạnh mẽ, trọn vẹn xúc cảm của chủ
thể trữ tình. Biện pháp tu từ so sánh trong thế giới thơ Ý Nhi đã góp phần không
nhỏ trong sự thành công về mặt nghệ thuật cũng như tạo nên dấu ấn rất riêng
của Ý Nhi trong nền thơ Việt Nam hiện đại.
2.1.3.2. Phép tương phản - đối lập
Dường như Ý Nhi có ý thức chọn biện pháp tương phản - đối lập để khách
quan hóa thế giới đặc biệt là thế giới nội tâm. Đối lập - tương phản gần như đã
trở thành tiêu chuẩn thẩm mỹ trong sáng tạo ngôn từ của Ý Nhi.
Cùng với tuổi đời và tuổi nghề, Ý Nhi dần nhận ra mình là “người đàn bà
tìm về kết cục”, “không còn nhiều thời gian cho do dự/ không còn nhiều thời
gian cho sai lầm”. Do đó càng cần phải thâu tóm trọn vẹn thế giới nội cảm đa
chiều và tinh vi một cách trọn vẹn nhất. Chấp nhận quy luật hai chiều của cuộc
sống như “chấp nhận khuôn mặt vốn có của mình” Ý Nhi nuôi dưỡng xúc cảm
nồng nhiệt nhưng luôn ý thức tiết chế nó, nắm giữ ngọn lửa đam mê trong tay
nhưng Ý Nhi luôn tỉnh táo và rạch ròi khi nhận thức. Điều này giúp Ý Nhi có
một độ lùi vừa phải để nhìn thấu suốt cái “giản đơn và rối ren ”, cái “lớn lao
và
cạn hẹp” của chính mình và của đời sống. Phép tương phản, đối lập ở nhiều cấp
độ đã giúp Ý Nhi chuyển tải được tâm thức đó.
- Đối lập - tương phản trong câu chữ: “Mưa ồn ào mùa hạ/ mưa dịu
mềm mùa xuân”; “bao miền đất đi qua, bao cánh đồng trở lại”,
“bước thành rồi bước bại/ ngà y nắng theo ngày mưa”; “rau muống
đầu mùa lên cao/ hoa cuối xuân giá hạ”; “và gương mặt thân quen/
vừa gần gụi/ vừa xa vời/ trong giấc mơ hạnh phúc”; “Có lẽ/ người ấy
mạnh mẽ và dịu dàng/ sâu sắc và hồn nhiên”; “tôi đang đứng kề bên
cái vạch nhỏ xíu/ của thủy chung và phản trắc, của tan vỡ, và hy vọng,
của hằn thù và tha thứ”; “và mắt người lo âu/ và mắt người hân
hoan”; “rượu mới ngọt làm sao/ đắng làm sao/ chua chát làm sao”…
- Đối lập - tương phản trong hình ảnh: “Là vòm trời xanh dịu kia/ hay là
cơn bão lớn, mùa thu”; “tàu điện lanh canh giữa lòng phố vắng”;
“nào đâu hay có một miền cát nóng/ như hạt mầm trong sỏi đá/ như
đốm lửa dưới tàn tro”; “chị mệt mỏi mỉm cười/ đáp lại niềm hân hoan
của hàng vạn người xem”; “Giọt nước mắt ràn rụa qua gương mặt
hạnh phúc/ nụ cười cay đắng trước trò đùa nghiệt ngã của số phận”;
“Trên đôi mi khô bỏng/ lại lăn chảy giọt nước mắt m ặn ấm/ Và cỏ
mùa xuân lại mềm mại dường bao/ dưới lòng chân chai sạn”…
- Đối lập - tương phản trong cấu tứ, tư tưởng: “đồi đã ngủ câ y cọ rồi
cũng ngủ/ có điều gì thao thức ở trong em”; “ông là vầng mặt trời
phương Nam khi người ta còn ngủ vùi trong đêm phương Bắc”;
“nhiều khi tôi khóc vì chính cái khiến những người quanh tôi vui
sướng”; “Thôi chào nhé/ số phận đã gắn bó ta cùng tất cả/ số phận
cũng đã buộc ta cùng lúc phải xa rời tất cả”; “Rồi, bác cháu ta chắc
sẽ lặng im/ giữa bao lời cười nói”; “không ai có thể làm cho anh chói
sáng/ không ai khiến anh lu mờ/anh tự mình/ rực rỡ hay tàn lụi”; “ tôi
biết có những trò đùa cay nghiệt/ và những việc nghiêm trang lại là
một trò đùa”; “Đôi lần, em nhìn tán cây mà ứa nước mắt/ vì màu
xanh” …
Phép tương phản - đối lập trong thơ Ý Nhi xuất phát từ nhu cầu nhận thức
đời sống trong chiều sâu bản chất của nó. Vậy nên sự đối lập, tương phản của từ
ngữ, hình ảnh, cấu tứ, tư tưởng là sự đối lập mang tính phổ qu át. Cuộc đời được
nhà thơ cảm nhận trong sự đa chiều, phức tạp của nó, không dễ dàng nắm bắt,
không dễ dàng cầm giữ để từ đây nhà thơ đẩy lên thành triết lí. Điều này càng
nhấn mạnh hơn yếu tố “duy lí”, “nội cảm”, “trí tuệ” trong thơ Ý Nhi. Phép tương
phản - đối lập đã làm nên một phong cách thơ độc đáo cho Ý Nhi đồng thời nó
giúp mở rộng khả năng thẩm thấu, cảm nhận thế giới trong tính khái quát, đa
chiều từ phía người đọc.
2.1.3.3. Phép điệp
Phép điệp là một trong những biện pháp tu từ nghệ thuật được sử dụng
phổ biến và đắc địa trong thơ Ý Nhi. Không những thế, nó trở thành một trong
những nhân tố qu an trọng trong sự cách tân ngôn ngữ của bà. Việc lặp lại cùng
một từ, một cụm từ trong cùng một dòng thơ hay trong nhiều khổ thơ để đẩy
mạnh cảm xúc, để thể hiện sự “giày vò”, “sự xao xác” không yên trong tâm hồn
nhà thơ đa cảm mà nặng tư duy phân tích này. Xét trong 203 bài thơ, dường như
bài nào cũng có sử dụng hình thức điệp (lặp): điệp âm, điệp ngữ, điệp đầu, điệp
cuối, điệp phụ âm đầu, điệp thanh, điệp vần… Phép điệp góp phần rất lớn trong
việc tạo nên tính nhạc trong thơ, làm cho bài thơ giàu cảm xúc. Hơn nữa, việc sử
dụng phép điệp cùng với việc mở rộng biên độ thơ góp phần thể hiện những tình
cảm phong phú, đa dạng nhưng cũng rất phức tạp của đời sống con người.
Một số cách điệp Ý Nhi thường sử dụng và đã tạo ra những hiệu ứng nghệ
thuật đặc sắc:
- Điệp từ ở đầu mỗi câu thơ: “Những người đàn bà gánh trên vai hàng
chục cái tang/ những trẻ sơ sinh chỉ một mình sống sót/ những người
yêu cách xa biền biệt/ những cụ già trơ trọi chẳng cháu con” (Cát. 4 .
Bài ca); “Ai còn đi trên đường đời bốn mươi năm sau ông/ còn có thể
tuyệt vọng/ còn có thể hạnh phúc/ còn có thể kiếm tìm/ còn có thể xuất
hiện với một khuôn mặt mới” (Viếng mộ Hàn Mặc Tử)
- Điệp từ ở đầu mỗi khổ thơ: “Có phải…” (Thành phố tràn đầy hoa
cúc); “Đã nhiều lần…Nhiều lần….Rồi một lần” (Chuyện kể), “Thôi ta
hãy…” (Viết nhân một câu thơ)
- Điệp đầu câu bằng từ nối: “Chỉ còn lại trước ta một con đường/ và
hoa phượng đỏ tràn về/ và lá xoài non/ và nước êm đềm kênh rạch/ và
lúa/ và dừa/ và ánh vô tư nơi đáy mắt” (Ra kh ỏi thành phố); “ Và bậc
thềm/ Và ô cửa/ Và sương mù/ Và lá/ Và bờ dốc im lìm/ Và mặt hồ
vắng lặng/ Và tường vi lung linh bờ dậu/ Và nắng ngập lòng phố nhỏ”
(Đà lạt)
- Điệp cấu trúc câu:
+ Hai câu hoặc nhiều câu gần nhau trong cùng một khổ: “sông tự biết
thu mình hẹp lại/ sông tự biết qua đá ngầm bóng tối” (Sông); “Không
ai trói buộc/ không ai gông cùm/ không ai đánh đập/ không ai chửi
mắng/ sao ta sống như trong lồng cũi” (Nguyễn Du, 1813)
+ Một câu ở đầu hoặc ở cuối các khổ liên tiếp: “một lần nữa” (Qua
Huế); “khi dịu dàng tay nắm lấy bàn tay” (Và vườn trong phố); “phải
chăng đó là cuộc đời ông” (Nhà thơ và cái hồ nhỏ)
+ Một câu ở khổ đầu và khổ cuối: “Có những gì chờ đợi phía xa kia”
(Mùa thu chưa tới), “Giữa chiều lạnh/ một người đàn bà ngồi đan
bên cửa sổ” (Người đàn bà ngồi đan)
- Điệp cả đoạn hoặc khổ thơ: “Dương Bích Liên uống rượu/ lặng im/ và
vẽ” (Đắc đạo), “Nhặt lá/ bao thuốc rỗng/ những vé số đã hết hạn/ gom
góp lại/ và đốt” (Người điên ở phố Bà Triệu)
- Điệp kèm theo cấu trúc so sánh: “ Phố như thể cuộc đời…Chùa như
thể bóng cây” (Chùa trong phố); “Đôi khi/ ta như chiếc gàu thả sâu
trong lòng giếng… Đôi khi/ ta như đứa trẻ bán hủ tiếu rong… Đôi khi/
ta như người leo núi rủi ro…” (Đôi khi)
- Điệp mở rộng: “Lòng bồn chồn giữa Praha bình yên/ tôi như người
đánh mất/ lại như người vừa tìm thấy được/ như người đã trải qua/
như người đang đón gặp/ như người sắp đi xa/ như người sắp trở về/
Ôi Praha! Praha.” (Một buổi chiều ở Praha); “Bừng sáng/ giữa b ao
nhiêu ràng buộc, tối tăm./ Bừng sáng/ giữa bao nhiêu hiềm khích./
Bừng sáng/ Gương – Mặt – Người – Kêu – Gọi.” (Nhà văn Nguyễn
Minh Châu)
Hiện tượng điệp trong thơ Ý Nhi cực kì phong phú. Mỗi hình thức điệp là
một dụng ý nghệ thuật. Có khi đó là những xôn xao không thể chỉ nói một lần;
khi khác lại là sự bâng khuâng cơ hồ là vô tận; khi khác nữa lại là sự rối ren,
chật
hẹp không gì gỡ ra được ngo ài những câu thơ… Và cũng có lần quá rung động
vì những tinh khôi:
Đôi lần
em nhìn tán cây mà ứa nước mắt
vì màu xanh.
Đôi lần
em nghe tiếng chim khuyên mà ứa nước mắt
vì sự trong trẻo.
(Vườn (1))