Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi
10,193
974
139
Thơ Ý Nhi rõ ràng nặng về ý hơn là trau chuốt ngôn từ. Lê Đạt cho rằng
“chữ bầu lên nhà thơ”, rằng nhà thơ là một “phu chữ” suốt hành trình sáng tạo.
Dẫu là nhà thơ nữ có những nét mới, nét cách tân, nhưng về cơ bản Ý Nhi vẫn là
tác giả của những bài thơ mạnh về ý, tứ, thơ của nội dung bên trong chứ không
phải người miệt mài tìm cái mới của chữ. Song, vẫn không thể phủ nhận sức
mạnh ngôn từ đầy ám ảnh trong thơ Ý Nhi là một nét phong cách nổi bật. Sức
mạnh đó bắt nguồn từ phong thái làm thơ tự nhiên, chân thành, giản dị.
2.1.1. Ngôn từ giản dị mà chân thành
Đọc thơ Ý Nhi, chúng ta cảm nhận được cách bà chiêm nghiệm cuộc sống
nhẹ nhàng, chân phương, không hề tô vẽ. Đó là con-người-thơ của bà. Nó được
biểu hiện ở một số đặc điểm sau:
a) Lời thơ là lời tự tình về bản thân, là lời tâm sự với mọi người rất thành
thật, chân tình
Ý Nhi từng nói: làm thơ là một nhu cầu. Thật vậy, nó là nhu cầu bộc bạch,
nhu cầu trao đổi, thể hiện tình cảm của con người đối với vạn vật. Không có nhu
cầu này thì không thể làm thơ. Đối với Ý Nhi đó là nhu cầu tự thân. Vì vậy bà
chuộng cách làm thơ mộc mạc, đem chất giọng và ngôn từ hằng ngày của chính
mình vào trong thơ một cách hồn nhiên, bình dị. Bà kể về thời hồn nhiên của
mình bằng ngôn từ rất đời thường:
Thuở ấy tôi mặc áo rộng thùng thình
và tóc tết đuôi sam
thuở ấy tôi đi lang thang giữa thành phố của mình
chưa biết đến niềm vui làm ta rơi nước mắt
chưa có nụ cười nào xa xót nở trên môi.
(Nhớ Hải Phòng)
Hình ảnh cô bé mặc áo rộng, tết tóc đuôi sam với khuôn mặt vô tư lự đi
khắp phố phường dần rõ nét qua mỗi câu thơ. Cách Ý Nhi vẽ khuôn mặt tuổi thơ
của mình nhanh và nhẹ nhàng bằng từ ngữ khiến người đọc phần nào cảm nhận
được một nét đẹp mộc mạc trong từng lời thơ.
Khi đã có tuổi, Ý Nhi nói về bản thân mình khác hơn. Chúng ta dễ dàng
nhận thấy dấu thời gian trong mỗi ý thơ nhưng vốn từ ngữ của bà vẫn có gì đó
rất đỗi Ý Nhi, vẫn chân tình và nhẹ nhàng như thở:
Tôi không ưa đồ trang sức
kể cả nhẫn vòng, và các chức danh”.
…
Tôi thường mua đắt mọi thứ
với vốn liếng ít ỏi của mình
hay làm vỡ các đồ dùng bằng sành, sứ, thủy tinh
tôi làm mất xe đạp
mất ví tiền, tem phiếu và chứng minh thư
(Tiểu dẫn)
Đoạn thơ như thước phim quay chậm về những việc nhỏ nhặt trong cuộc
sống của bà. Ngôn ngữ trong thơ chính là lời nói thường nhật, không trau chuốt
từ cách dùng động từ “ưa” thay cho “thích”, “cần” cho đến các danh từ chỉ sự vật
“nhẫn”, “vòng”, “chức danh”; rồi đến việc bà chọn cách hành xử trong cuộc
sống (mua đắt mọi thứ với vốn liếng ít ỏi) cũng như những sơ sẩy thường tình
(làm vỡ đồ dùng gia đình, làm mất vật dụng cá nhân). Bài thơ đơn giản đến k inh
ngạc. Nhưng nó có thể dễ động lòng người ghê lắm. Một con người nhà thơ
được cách điệu hóa rồi, đã thành hình tượng rồi mà vẫn sống như đang phập
phồng đi lại trong đời. Đó là cái tài của Ý Nhi.
Tác giả kể lại: có một lần đưa con ra ngoại ô, tôi chăm chú nhìn vào cảnh
vật, cố tìm ra nét đặc trưng của chúng rồi lại cố gắng sử dụng ngôn từ sao cho
dễ
hiểu và sinh động nhất để diễn đạt cùng các con. Bởi vậy nhà thơ mới viết những
câu thơ hồn nhiên đến thế này:
Đồng đang vào mùa gặt
lúa u
ốn cong thân vàng
cánh buồm nhỏ sang ngang
gió theo về mát rượi.
Mới xanh tròn trái bưởi
đã tím chùm dâu da
mắt còn khép quả na
dưa đã vàng đất bãi
bàn tay con cầm tr ái
mở xòe như cánh hoa.
(Đưa con ra ngoại ô)
Ý Nhi ăn nói mực thước, không ồn ào, sáo rỗng, không hoa mỹ, cầu kì
nhưng cũng không quá dân dã, tầm thường. Ngôn từ trong thơ bà cũng vậy. Nó
có nét quyến rũ của sự chân phương, giản dị nhưng lịch thiệp kín đáo.
b) Lời thơ là lời kể chuyện, cả bài thơ là một câu chuyện thân quen
Ý Nhi thích kể chuyện và kể chuyện bằng thơ rất hay. Bà kể về quá khứ
và hiện tại, kể về người quen và người không quen, kể về tất cả những gì mà bà
trăn trở, ấp ủ. Mỗi trang thơ của Ý Nhi giống như một trang nh ật kí kể lại
những
gì bà nhìn thấy hoặc trải qua. Ta thường bắt gặp ở cuối mỗi bài thơ tháng và năm
của nó và ở đâu đó chúng ta bắt gặp những tiêu đề có cả tháng năm như: Hải
Phòng, tháng 11 năm 1979; Nguyễn Du. 1813; Dương Bích Liên – mùa đông
1988; Hà Nội, tháng 5.2987; Mùa khô 1992… Đó là cách Ý Nhi lưu giữ kí ức
thời gian, lưu giữ những câu chuyện của đời mình. Những câu chuyện, những
cuộc đời được tái hiện bằng thơ hết sức giản dị, đôi khi sơ lược nhưng vẫn hiện
ra trọn vẹn con người của họ. Để làm được điều này Ý Nhi dùng lối làm thơ điệu
nói kết hợp với ngôn ngữ kể. Chúng ta thử đọc một phần bài Hai người
(3.1984):
Giữa dòng người xuôi ngược
giữa những hàng quán
giữa những ánh nhìn căng thẳng
những bước đi vội vã
những áo choàng đúng mốt
tôi nhìn thấy một người đàn bà mặc áo đen
và bên chị, là người đàn ông mù
tay trong tay
họ đi rất chậm như vừa đi vừa dò tìm
Bằng cách mở đầu như thế, Ý Nhi kể về cuộc đời thăng trầm của họ. Người
đàn ông mù lòa là anh lính bước ra sau cuộc chiến. Người phụ nữ là người đã
từng lạc lối, mất mát trong quá khứ. Cả hai đã từng trải qua khoảng thời gian
đau
thương nhất đời họ. Họ đi bên nhau, chở che cho nhau, cảm thông cùng nhau và
điều quan trọng là cả hai đều mãn nguyện với hạnh phúc mà họ đang có:
Tay trong tay
họ bước đi rất chậm
Chị nói điều chi với nụ cười dịu dàng
và trên gương mặt anh
lan tỏa niềm vui.
Câu chuyện đầu cuối chỉ có thế nhưng Ý Nhi đã đưa được nó vào thơ bằng
ngôn từ nhẹ nhàng, giản dị, yêu thương. Người viết không cố tạo ra một biến cố
nào, nhưng dường như một người đọc bình thường vẫn có thể cảm nhận một
“biến cố” nào đó trong tâm hồn trước một lát hiện thực hiện ra bằng thơ như vậy.
Việc nhà thơ sử dụng ngôn ngữ kể vẫn thường xuất hiện ở nhiều nhà giai
đoạn sau 1975. Theo Phạm Quốc Ca, khi sử dụng ngôn ngữ kể “Nhà thơ không
mấy quan tâm tới vẻ đẹp ngôn từ, không để lộ cảm xúc, thái độ chủ quan mà
thường ẩn mình đi. Chất thơ ở đây chỉ là trạng huống đời sống mà ngôn ngữ thơ
này đã dựng lên.” [10;tr.158]. Ở Ý Nhi, việc sử dụng dạng ngôn ngữ này có
phần tự nhiên hơn và nó mang tính thường xuyên hơn. Đôi lúc chúng ta thấy Ý
Nhi làm thơ mà như đang nói chuyện với một người thật nào đó. Khi đọc nh ững
bài thơ như: Khóc Bác Bùi Xuân Phá i, Gửi con nhân sinh nhật lần thứ 20,
Gửi chá u Lâm Ng ọc Quỳnh Anh, Tặng một người làm thơ trẻ…, chúng ta có
cảm giác như đang đối thoại rất gần với nhà thơ bởi cái dư vị của sự chân thành,
gần gũi trong mỗi lời thơ.
c) Các đại từ giúp việc xưng hô gần gũi, thân mật
Ý Nhi thường gọi: anh, chị, em, họ, cô, bác, cháu… và xưng: ta, chúng ta;
nhiều nhất là tôi với một thái độ rất gần gũi, trân trọng. Đó là cách khẳng định
cái cá nhân thuần hậu nhưng thẳng thắn của bà. Khi họa sĩ Bùi Xuân Phái qua
đời, Ý Nhi dành tặng ông niềm tiếc nhớ cùng lòng tôn kính sâu sắc qua cách hô
gọi “Bác” – “Cháu”. Chúng ta thấy có điều gì đó rất tự nh iên khi xúc cảm dâng
tràn trong lồng ngực. Phải chăng là nhờ cách hô gọi đó.
Thưa bác
cháu
thắp nén hương này
xa Hà Nội hàng nghìn cây số
và xa Bác biết chừng nào
.
(Khóc bác Bùi Xuân Phái)
Ta cũng bắt gặp cách Ý Nhi gọi “Bác” – “Cháu ” với cô bé Lâm Ngọc Quỳnh
Anh:
Một ngày nào trời đất thương tình
cho bác
cháu ta sum họp
chắc rằng bác
sẽ nhận biết cháu ngay
giữa bao khuôn mặt khác
(Gửi cháu Lâm Ngọc Quỳnh Anh)
Và nhiều những cách xưng hô tương tự như thế như: mẹ - con, chị - em,
anh – em,… trong thơ Ý Nhi đã khiến người đọc cảm động và ngạc nhiên. Kèm
thêm đó là những từ, ngữ (gạch chân) có nét gì đó rất thiệt tình của thi nhân
làm
cho mối quan hệ giữa người với người gần gũi, đằm th ắm hơn. Ý Nhi sử dụng
nhiều nhất là đại từ “Tôi” – đại từ bản ngã – theo ý của Trần Đình Sử th ì
“thiếu
đại từ này, nhà thơ dường như chỉ trữ tình bằng mắt, bằng ý, bằng tâm, mà
miệng thì câm lặng. Thiếu đại từ này thì nhà thơ hòa tan vào thế giới xung
quanh làm lu mờ bản ngã” [93 ;tr.128]. Ý Nhi thường xưng gọi tôi – a nh, tôi –
chị,… và tôi – với mọi người. Đại từ “tôi” trong thơ Ý Nhi là cái tôi tâm sự,
đôi
khi là tâm sự với bản thân mình: tôi – bạn ( là tôi):
Bạn biết đấy
tôi
chẳng chơi xổ số
cũng không biết đi buôn
không thân thích chi với các vị đương quyền
cũng chẳng gần gũi gì đồng nghiệp
tôi
sống trong cuộc đối thoại thầm cùng bạn
chấp nhận cái nghèo
chấp nhận sự đơn độc
như người ta chấp nhận khuôn mặt vốn có của mình.
(Gửi bạn)
Cái “tôi” này sao thầm lặng quá đỗi, nhưng là cái tôi của người hiểu mình,
cái tôi tự vẽ lên “khuôn mặt tinh thần” của mình; Cái tôi không cầu may, cái tôi
không xô bồ, cái tôi không nịnh hót, cái tôi nghèo, cái tôi cô đơn nhưng cái tôi
biết hài lòng với những gì mình có. Và người bạn (c ủa tôi) phải là người thật
gần
gũi, thương thích lắm mới được nghe “tôi” tâm sự thật lòng đến vậy. Lời thơ là
lời nói rút ruột, sự trải lòng hiếm hoi trong một “cuộc đối thoại thầm”.
Có thể thấy đại từ “Tôi” trong thơ Ý Nhi mang nhiều sắc điệu nhưng sự
chân thành, mộc mạc vẫn luôn là điều mấu chốt của sự trao đổi tâm tư.
Cùng với các đại từ, thán từ và hư từ trong thơ Ý Nhi cũng góp phần làm
nên diện mạo ngôn ngữ của bà.
Ý Nhi đã chọn cho mình một hệ thống ngôn từ mang âm hưởng của sự
giản dị nhưng chân thành. Đó là cách Ý Nhi giao cảm với cuộc đời và với bản
thân. Không màu mè, tô vẻ, Ý Nhi trải lòng qua thơ bằng vốn từ của riêng mình.
Ngôn từ đã giúp vẽ nên tâm tính và tâm tình của nhà thơ.
2.1.2. Ngôn từ mang tính khái quát, triết luận
Ý Nhi sinh ra trong một gia đình có nền học vấn cao, bản thân nhà thơ
cũng tốt nghiệp Đại học ngành Ngữ văn. Những yếu tố n ày góp phần tạo nên
một phong cách thích đặt vấn đề, khái quát vấn đề và luận giải. Càng v ề sau,
thơ
Ý Nhi càng nặng suy tư, nặng « chất nghĩ ». Chu Văn Sơn cũng đã nhận ra việc
Ý Nhi « từ bỏ sự giải bày nặng chất duy cảm ban đầu, chị bước nhanh đến
những lời thơ tiết chế nặng ch ất su y tư » [8 9]. Một mặt đây là dụng ý nghệ
thuật
của nhà thơ để tạo sự mới lạ cho thơ. Nhưng mặt khác và trên hết đó cũng là nhu
cầu nội tại của chính nhà thơ. Có ý thức sáng tạo, lại được thôi thúc bởi cảm
hứng thi ca, thơ Ý Nhi càng đậm màu sắc của thơ ca triết luận. Nhưng triết luận
trong thơ Ý Nhi không mang tính triết học cao vời, cũng không phải là sự biện
giải thâm sâu theo kiểu lập thuyết, càng không phải là sự nỗ lực lý sự, biện lý
trong thơ. Tính triết luận trong thơ Ý Nhi đơn giản ch ỉ là tiết chế cảm xúc,
thêm
vào thơ một chút hương vị của trí tuệ khiến dòng thơ, ý thơ khơi gợi sự ngẫm
nghĩ, suy tư. Đặc biệt là từ tập thơ Người đàn bà ngồi đan trở đi, yếu tố triết
luận trong thơ Ý Nhi xuất hiện thường xuyên hơn đã tạo nên một hệ ngôn ngữ có
tính khái quát, triết luận rõ nét trong thơ Ý Nhi.
Thơ Ý Nhi thường xuất hiện những từ ngữ có tính khái quát cao nhờ hình
thức ghép từ. Chúng ta dễ dàng bắt gặp những từ kiểu như : miền chờ đợi, trái
tim hình cầu, những phán đoán khốc liệt, lời ly biệt đắng cay, năm tháng nặng
nề, niềm vui se giá, miền cổ xưa, vạt rừng mới lớn, n
ỗi lòng không xác thực…
Biên độ về nghĩa của từ được nới rộng đến mức có thể.
Thơ Ý Nhi thường có những từ ngữ và cấu trúc ngôn ngữ mang tính định
nghĩa, giải thích, suy luận.
- Một số từ thông thường có thể được liệt kê l
à : như, như thể là, là, đó là,
nhưng, có thể, nếu có thể, sao, sao lại, dù, dẫu, hay, nào đâu, đâu, nào hay
đâu,
…
Chúng tôi có làm một thống kê nhỏ và nhận thấy tần số xuất hiện qua các tập thơ
khá cao đã khẳng định tính thường xuyên, lặp lại, góp phần giúp ta nhận thấy tư
duy triết luận trong thơ Ý Nhi.
Những biểu hiện
của ngôn từ
mang tính triết luận
Từ dùng để
định nghĩa
Từ dùng để
giải thích
Từ dùng để
suy luận
Những từ
thường dùng nhất
như là nhưng
đâu,
nào
đâu
có lẽ,
có thể
sao,
sao lại
Tần số xuất hiện
qua các tập thơ
50 27 40 12 40 20
Có thể đưa ra một số ví dụ :
- Như : tôi thường đợi mùa thu với nỗi lòng không xác thực/vừa hân hoan, vừa
ưu phiền/vừa mong ngóng, vừa ngại ngùng/như tôi đang đứng trước cuộc hẹn hò
(Mùa thu) ; Chưa một lần gặp gỡ/bà khước từ mọi mối tình khác/như một người
tuyệt vời hạnh phúc/như một kẻ hoàn toàn vô vọng (Thơ về Marina Xvetaeva) ;
phải đi đến cùng con đường ta đã chọn/dù phải đi/như người nghệ sĩ trên chiếc
dây căng qua khoảng trống. (Gửi con nhân sinh nhật lần thứ 20)…
- Có lẽ/có thể: Thượng đế/có lẽ cũng chỉ nhìn thấy/một hạnh phúc thương
đau/một hân hoan buồn bã như thế (Không đề) ; Có lẽ/bàn làm việc của người
ấy/có một chiếc đèn bàn đã cũ/và một chiếc đĩa con/đựng những cây b út đã hoàn
toàn hết mực (218.97.13) ; Có thể rất nhiều người trong số họ/không còn tuổi tên
trên sử sách/có thể họ đã chết bình thường, không chiến công hiển hách/có thể
mai sau người ta dần quên…(Cát)….
Một số cấu trúc thường gặp :
- Cấu trúc lặp :
Hiện tượng lặp trong thơ Ý Nhi khá phong phú và mang nhiều sắc diện.
Ngoài hiện tượng lặp từ rất phổ biến, cấu trúc câu thơ của Ý Nhi cũng thường
được lặp lại trong các bài thơ. Việc lặp cấu trúc câu giúp nhà thơ truyền tải
trọn
vẹn nỗi hoài nghi cũng như sự suy luận về thế giới, con người, sự vật, sự việc
xung quanh. Cấu trúc lặp thường gặp nh ất là: A và B….A và B, A như B….A
như B, A là B…A là B để khẳng định hay hoài ng hi.
Trong bài Tưởng niệm họa sĩ Nguyễn Sáng, cấu trúc này đã thể hiện thật
rõ sự khẳng định :
Rắn rỏi và mềm mại
…
Chói lọi và hiền hòa
…
Cổ xưa và hiện đại
…
Xác thực và siêu nhiên
…
Ôi vẻ đẹp
Được tạo ra từ Nguyễn Sáng.
Hay khi Ý Nhi muốn khẳng định niềm say mê của một cô gái 17 tuổi d ành
cho danh thủ Platini, chúng ta cũng thấy hiện tượng lặp như sự truy vấn đến tận
cùng để đào xới hết mọi ngóc ngách tình cảm của cô bé :
Đối với cô
Paris là Platini
nước Pháp là Plat ini
thế giới là Platini
…
Đối với cô
tài năng là Platini
vẻ đẹp là Platini
khát vọng là Platini
Dường như đó cũng là một cách Ý Nhi lí luận trong thơ.
- Cấu trúc liệt kê:
Ý Nhi hay liệt kê những biểu hiện kết lại một suy nghĩ đã được chiêm
nghiệm nhằm đưa ra một kết luận mang tính khẳng định :
Trong những phán đoán khốc liệt
những câu hỏi không lời đáp
trong nỗi chua chát của tuyệt vọng
trong kiêu hãnh của sự khước từ
anh đơn độc
(Bay đêm)
Để đi đến sự khẳng định : « anh đơn độc » Ý Nhi đã liệt kê những biểu
hiện mà ta cảm nhận đó dường như là sự giải thích kiệm lời nhất cho sự đơn độc
của người « bay vào đêm ».
Ý Nhi còn dùng cấu trúc liệt kê và tận dụng triệt để sự trùng điệp giữa các vế
để
luận giải một vấn đề. Bà dành cho một người làm thơ trẻ một tình cảm đặc biệt
trong sự chiêm nghiệm về đời sống thi ca: «Một người làm thơ trẻ/ da tái xanh vì
thiếu ăn/ đang viết những câu thơ đầy dự cảm/ thi đàn hôm nay/ chật ních những
kẻ bất tài, những kẻ lỗi thời/ họ giống như người đàn bà không biết mình đã qua
thì xuân sắc/ cứ tô vẽ nói cười, dở mọi trò ngạo ngược » (Hà Nội, tháng
5.1987). Không trực tiếp thể hiện thái độ nhưng qua việc liệt kê đã nổi bật thái
độ trọng – khinh của bà.
- Cấu trúc văn xuôi hóa : ví dụ như bài thơ « 218.97.13 », toàn bài là
một văn bản được biểu đạt theo phương thức tự sự :
Tôi nhặt được trên đường phố Matxcơva
số điện thoại
của một người nào đó
218.97.13
Có lẽ...