Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi
10,197
974
139
vội vã như thể đó là lần sau chót.
Không thở dài
không mỉm cười
chị đang giữ kín đau thương
hay là niềm hạnh phúc
lòng chị đang tràn đầy niềm tin
hay là ngờ vực.
Không một lần chị ngẩng nhìn lên
chị đang qua những phút giây trước l ần gặp mặt
hay sau buổi chia ly
Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu
trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng.
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
dưới chân chị
cuộn len như quả cầu xanh
đang lăn những vòng chậm rãi.
Sau thành công của Người đàn bà ngồi đan, Ý Nhi hăng hái tiếp tục phát
huy nét đẹp trong phong cách nghệ thuật của mình. Ngày thường (1987), Mưa
tuyết (1991), Gương mặt (1991), Vườn (1999) lần lượt ra đời. Mỗi tập thơ đều
được chờ đón và hoan nghênh. Người đọc dần dần tiếp nh ận và đồng điệu hơn
với thơ của bà. Xã hội phát triển càng nhanh, thơ Ý Nhi càng mau chóng tìm
được sự đồng cảm. Không còn xa lạ, thơ Ý Nhi được đăng trên báo, được bình
luận, phân tích, được khen ngợi nhiều hơn. Cổng thông tin điện tử mở ra, từ
khóa “Thơ Ý Nhi” được truy cập từng giờ. Chỉ cần một cái nhấp chuột, cả trăm
trang mạng xã hội và blog cá nhân chép và bình thơ Ý Nhi hiện ra trên màn hình
máy tính. Theo quan sát của chúng tôi, hầu hết là những lời khen tặng dành cho
thơ Ý Nhi. Một phần có lẽ vì phong cách mới lạ và độc đáo của bà; phần khác là
nhờ sự đồng c ảm với những trúc trắc, khúc khuỷu nhưng toàn diện, nhiều mặt,
nhiều bề trong cách cảm nhận con người và cuộc đời của Ý Nhi.
Ngày thường là tập thơ của những ngày bình thường, của những con
người bình thường, cũng là của những điều bình thường trong cuộc sống. Đó là
một ngày về với đất liền của vị thuyền trưởng, ngày thi đấu khát khao của một
vận động viên, ngày dạo chơi của một họa sĩ, ngày ra đi của một nhà thơ, ngày
công cán của nhà văn Nguyên Hồng, ngày của “chùa” và “vườn trong phố”,
ngày của biển chiều, của phố nắng, ngày của khát vọng, của lẽ phải, của tự do…
Những người, những việc thường ngày, giản dị đó được Ý Nhi soi chiếu dưới
lăng kính của sự đối nghịch để người đọc nhận ra rằng: chúng bình thường
nhưng cao quý. Cảm giác về sự trầm tĩnh, lý trí, chiêm nghiệm dày đặc ở các
trang thơ. Tất cả những cái ngày thường đơn giản là thế nhưng để có được nó
nhiều khi con người ta phải đánh đổi thật nhiều, ph ải nỗ lực thật lớn, phải
khát
khao thật mãnh liệt. Đến tập thơ này, yếu tố triết luận trong thơ Ý Nhi dườ
ng
như đậm đặc hơn cả. Bài thơ nào cũng đòi hỏi sự tập trung cao độ của người đọc
để nhận ra khuôn mặt thật, giấu kín tận sâu bên trong của cái hằng thường.
Đến với Ngày thường chúng ta cũng nhận diện rõ ràng hơn sự “tiết chế”
trong câu ch ữ của Ý Nhi. Từ là vỏ ngôn ngữ để Ý Nhi khéo léo tạo nên cái đẹp
của sự kiệm lời. Và vui mừng vì đã đem lại niềm hạnh phúc cho người thưởng
lãm:
như một nhà thơ biết tiết chế
tôi vừa đun nấu trên ngọn lửa dầu chút thức ăn ít ỏi
vừa nghĩ đến vẻ đẹp thực chất của những bữa ăn
niềm hạnh phúc tôi có thể đem lại cho mọi người.
(Ngày thường)
Tập thơ cho chúng ta hiểu hơn quan niệm của Ý Nhi về cái đẹp thực sự
của những ngày bình thường bằng cách “nhìn thấu cu ộc đời này bằng con mắt
thứ ba”, bằng sự “điềm tĩnh bước ra khỏi bản th ể, đi qua chiếc cầu vòng cheo
leo mà quyến rũ để viết”.[13]
Sau sự day dứt, khắc khoải của Ngày thường, Ý Nhi viết Mưa tuyết. Vẫn
cái chất thơ của sự trầm tĩnh, điềm đạm vốn có, Mưa tuyết dẫn người đọc vào
cảm thức của cái lạnh tê tái nhưng thanh cao. Mở đầu tập thơ là giấc mơ về
những cơn mưa tuyết “nhẹ nhàng/ tinh trong/ buốt giá”. Nổi bật trong tập thơ là
những gì như là nỗi nhớ. Chúng trải dài suốt cả tập thơ. Và nổi bật hơn cả là
nỗi
nhớ nước Nga. Chợt nhớ một câu chuyện đọc vội ở đâu đó về việc Ý Nhi mời
(rủ) bạn đồng nghiệp đi thăm nước Nga và hẹn “Gặp nhau ở Nga nhé!”, ta mới
hiểu một phần cuộc đời của Ý Nhi đã để lại trong những bông tuyết Nga để rồi
khi có tuổi nhà thơ không khỏi nh ớ thương, ngưỡng vọng. Bà làm thơ về hai nữ
thi sĩ Nga: Marina Xvetaeva, Akhmatova; về nhà thơ, nhà tiểu thuyết lớn
Pasternak; về nàng Êlêna; về Matxcơva… Nỗi nhớ ấy có khi miên man đến
nghẹn ngào: “Vẫn là bông tuyết/…/Sao xa vời/ Xa như thể chưa bao giờ gặp/ Xa
đến nỗi muốn trào nước mắt” (Thấy tuyết trong phim).
Trong tập thơ ta cũng nhận th ấy khuôn mặt “tuyết” của Ý Nhi. Sự quyết
liệt với những ồn ào, giả trá đã thể hi
ện cái tâm trắng tinh như “tuyết” của nữ thi
nhân:
Tôi không thích người ta bắn lén
khi cần, tôi sẽ bắn chính diện
Tôi không ưa những kết cục được bày đặt sẵn
cũng chẳng thích chi những cái nửa vời.
Tôi chẳng ưa những thói trơ tráo, lạnh lùng
và căm ghét sự đặt điều, ngờ vực
Tôi không thích bạo lực
và không ưa sự bất lực, yếu hèn
Từ những đỉnh cao đã chinh phục một lần
tôi hạ xuống
trong khi trái tim mình ở lại.
(Matxcơva)
Mỗi lần đả kích những cái xấu xa, dối trá, mục ruỗng Ý Nhi thường viết
bằng lối thơ “rắn’ như thế. Đó là cách Ý Nhi thể hiện thái độ không khoan
nhượng, không lùi bước trước mặt trái của cuộc đời nhằm g ạn lọc để tìm đến
những “tinh trong”. Khảng khái, chính trực, kiêu hãnh là những từ có thể nói về
Ý Nhi.
Tập thơ cũng thể hiện “thiên tính nữ” (chữ dùng của Chu Văn Sơn) của Ý
Nhi. Rất dịu dàng, rất phụ nữ, làm mát lòng người nghe:
…
Tuyết vừa mới tan
cỏ vừa mới lên
ngày vừa mới nắng
người vừa thân quen.
…
Tuyết rồi sẽ chảy thành sông
cỏ rồi sẽ nảy hoa vàng
nắng rồi thành bóng râm qua tán lá.
Bạn thân yêu ơi
bạn rồi nên nỗi buồn dịu dàng.
(Thơ tặng Êlêna)
Ở tập thơ này, yếu tố triết luận trong thơ tuy có phần mềm mỏng, nhẹ
nhàng hơn hai tập thơ trước, nhưng ta vẫn cảm nhận sâu sắc tính thường trực của
“chất nghĩ” trong thơ bà. Nói như Chu Văn Sơn là: “ngẫm nghĩ, suy tư đã được
tâm trạng hóa, biểu tượng hóa để trở thành một biểu tượng nào của cảnh quan
nội tâm”[91]. Mưa tuyết đã là biểu tượng của nội tâm phụ nữ giàu yêu, thương,
mến, nhớ; nội tâm chiến sĩ nhân văn mạnh mẽ, quyết liệt, tiên phong.
Có thể gọi Gương mặt là tập thơ của sự tri ân. Đây có thể là lời cảm ơn
của Ý Nhi dành cho những người quen và không quen khi phác họa, kí họa thật
nhanh những nét đặc sắc trên khuôn mặt tinh thần của họ. Đó có thể là tinh thần
của người bay đêm, gã khờ Đônkisốt, bác sĩ Zivago là những nhân vật trong các
tác phẩm văn học; hay cuộc đời, sự nghiệp của Bùi Xuân Phái, Dương Bích
Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Minh Châu là những nghệ sĩ lớn; hay tính cách của
một cô Khánh, của cháu Lâm Ngọc Quỳnh Anh là những người quen biết của
nhà thơ; và thậm chí như một người điên, một em bé, một nhà thơ trẻ vô danh
nào đấy cũng được đưa vào thơ với sự trân trọng, yêu thương. Với Ý Nhi đó là
những người “tử vì đạo”, là bậc hiền nhân, nghệ sĩ đích thực, là người đã tìm ra
chân ngã, đã “đắc đạo”.
Quan niệm về cái đẹp thực sự của con người theo Ý Nhi là sự tận hiến
một cách vô tư không suy tính; là sự chân chất, nhân hậu, thuần khiết nhưng quả
cảm và kiên quyết khi bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chân lý.
Đó là những con người:
Đã vượt qua mối vướng bận đời thường
đã vượt qua mối vướng b
ận vinh quang
đã vượt qua nỗi lo sợ âm thầm
khi phải đứng riêng về một phía.
(Đắc đạo)
Là những người:
Lặng lẽ
thơ ngây
yêu thích cái đẹp
…sống thật nhọc nhằn
giữa giả trá, ồn ào, ác hiểm.
(Hà Nội, tháng 5.1987)
Và dù không biết điều gì đang chờ đợi ở phía trước, những con người đó
vẫn luôn quyết tâm vượt qua mọi trở ngại để đi đến cái đích cuối cùng của sự lựa
chọn “đứng về một phía” kia:
Làm sao biết được
phía trước kia là biển, là rừng, là lũng sâu hay đầm lầy
nhưng dù sao
phải đi đến cùng con đường ta đã chọn
dù phải đi
như người nghệ sĩ trên chiếc dây căng qua khoảng trống.
(Gửi con nhân sinh nhật lần thứ 20)
Ý Nhi ngưỡng mộ họ, cố sống như họ đã sống. Phải chăng đó là cái đích
suốt đời nhà thơ theo đuổi.
Gương mặt giữ trong nó những cung bậc đẹp của cảm xúc. Đồng thời vẫn
tiếp tục phát huy và làm mới những nét phong cách rất riêng của Ý Nhi từ giọng
điệu, ngôn ngữ, thể thức, kết cấu đến hình tượng, tư tưởng, quan niệm nghệ
thuật.
Thơ tình yêu là tên gọi khái quát nhất cho tập Vườn của Ý Nhi. Tập thơ là
khu vườn tình yêu vẫn còn xanh mướt nhưng thâm trầm và tĩnh lặng. Chủ nhân
của khu vườn là người đã trải qua nhiều cung đường bất trắc và vinh quang từ
quê hương vào đến Nha Trang, Đà Lạt, rồi trở về tuổi trẻ ở Hải Phòng, Thái
Nguyên, Hà Nội. Cuối khu vườn là những dự cảm và nguyện ước. Lối nhỏ đi vào
vườn rắc đầy những gam màu của yêu thương, hối lỗi, tiếc nhớ, trân trọng.
Tập thơ vương vít nỗi buồn của con người đã đi qua và quay đầu nhìn lại
quãng đường đời khá dài của mình. Nhiều lời cũng không nói được nhiều hơn
những gì muốn nói. Nhà thơ tiết kiệm tối đa ngôn ngữ. Chỉ để sự khắc khoải dặt
dìu, day dứt trên mỗi trang thơ được viết bằng “ngôn n gữ thơ văn xuôi chắt lọc,
giàu suy tưởng”[108]. Những câu thơ đứt quãng, ng ắt dòng liên tục vừa là sự
cách tân vừa giúp diễn tả nhịp điệu tâm hồn đầy trắc ẩn của người đã đi đến kết
cục của tình yêu nhưng vẫn còn nhiều khát khao trong lặng lẽ.
Vườn có vẻ là nơi bình yên và tĩnh lặng nhất trong số những tập thơ của Ý
Nhi. Nơi đó chỉ có nhà thơ với những nỗi niềm của mình, giảm hẳn những khắc
nghiệt và giả trá thường nhật mà bà đã thể hiện ở những tập thơ trước. Vườn là
chốn nương náu cuối cùng, là mơ tưởng, là ước vọng của nhà thơ khi muốn trốn
thật sâu trong tình yêu của người yêu dấu:
Em tìm đến góc xa nhất của khu vườn
em muốn trốn vào sự bình yên
em muốn trốn sâu mãi, sâu mãi v ào tình yêu của anh.
(Vườn 1)
Vườn là đêm trung thu anh cầm tay em đi trên “phố dài heo may”, cầm
tay em “ước chim về/ dưới bóng cây”, cùng em “thắp nén hương trong trời đất/
mong tìm ra phút sum vầy”. (Trung thu)
Vườn là ngà y mồng một “gặp gỡ”, “sum vầy”, “ngậm ngùi”, “hân hoan”,
“sững lặng”, “ngày đưa tay mở cửa/ về một miền biếc trong/ lòng run/ nguyện
khấn âm thầm”. (Ngày mồng một)
Vườn còn là lúc nhà thơ sống lại sau nh
ững buồn đau:
Và ta
cùng kiệt đã tràn đầy
và ta
bền vững đã chơi vơi
và ta
câm nín đã thốt lời.
Và ta
âm thầm soi lối vui tìm đến.
(Dự cảm)
Tập thơ cho người đọc cảm nhận về sự yên lành muộn màng nhưng quý
giá. Tập thơ như là lời tạm biệt đầy lưu luyến một đời “day dưa”, khắc khoải với
thế giới sáng tạo mà tâ m hồn luôn “xao xác” bất an, luôn mang “nỗi lòng không
xác thực” như căn bệnh cố hữu của một “tạng” thơ. Đến đây, những nỗi niềm đó
phần nào đã giãn ra nhưng cũng vẫn còn phảng phất đâu đó kiểu như “dẫu lìa
ngó ý còn vương tơ lòng”. Vì vậy cho nên nhà thơ vẫn luôn đứng trong trời đất
để khấn nguyền “lời nguyện cho nỗi yên hàn”.
Cuộc sống sau chiến tranh hết cấm vận rồi mở cửa kh iến những người
nhạy cảm như Ý Nhi cảm thấy bất an, nhưng không thể thu mình co rút lại nên
những đối cực trong tâm hồn càng thêm chất chứa, Ý Nhi để “bùng nổ” trong
thơ. Chần ch ừ, do dự sẽ lỗi thời, lạc hậu. Vì vậy nhà thơ xác định con đường tự
đổi mới. Ý Nhi lặng lẽ làm nên những giá trị tinh thần đóng góp cho thi đàn
những tập thơ giá trị, những bài thơ sâu sắc, giàu triết lí, g iàu trí tuệ và
yêu
thương. Đó là sự lao động nghệ thuật nghiêm túc, đường hoàng nên đã gặt hái
nhiều thành công và sự trân trọng.
Điểm qua các tập thơ, chúng ta có cái nhìn ban đầu và sơ lược nhất về con
đường hình thành, phát triển phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi. Ở chương II và
chương III, chúng tôi sẽ cố gắng đi thật cụ thể vào những nét phong cách đó. Hy
vọng sẽ góp thêm tiếng nói để nhận định hoàn chỉnh và sâu sắc hơn về đời thơ
của nữ thi sĩ Ý Nhi nói riêng và sự chuyển biến nghệ thuật của thơ ca Việt Nam
đương đại nói chung.
Tiểu kết: Sơ lược qua thời đại, quê hương, gia đình, con người và đường
thơ của Ý Nhi ta bước đầu nhận ra những yếu tố góp phần hình thành pho ng
cách của nhà thơ. Cùng với những quan điểm để tìm hiểu phong cách nghệ thuật
của một nghệ sĩ chúng ta đã có những nền tảng khoa học và thực tế tiêu biểu để
đi đến việc đào sâu, tìm hiểu, nhận định về phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi.
Đến đây chúng ta đã phần nào nhận thấy những nét cá tính nghệ thuật tiêu biểu
của nhà thơ. Ý Nhi là một người phụ nữ đặc biệt, một nhà thơ tâm huyết v ới
nghề, một người luôn tìm tòi để thay đổi và khẳng định bản thân . Nhà thơ đã đi
trọn vẹn hai chân trên con đường đổi mới nghệ thuật giai đoạn sau chiến tranh để
cho ta thấy nét đẹp của “sự vạm vỡ của tiết tấu hiện đại, sự đa thanh ngồn ngộn
sức sống, độ rậm rạp, phức hợp của hình tượng, những thúc bách, đòi hỏi bản
lĩnh của người nghệ sĩ trước sự đổi thay lớn lao của thời đại”[66].
Chương 2:
PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ Ý NHI NHÌN TỪ
GÓC ĐỘ NGÔN NGỮ, THỂ LOẠI, KẾT CẤU
2.1. Phong cách sử dụng ngôn từ nghệ thuật
Mọi ngành nghệ thuật đều sở hữu một ngôn ngữ riêng để tỏa sáng. Chẳng
hạn giai điệu, tiết tấu là ngôn ngữ của âm nhạc; đường n ét, màu sắc là ngôn ngữ
của hội họa; mảng, khối là ngôn ngữ của kiến trúc,… Với cách hiểu này ngôn
ngữ mang nghĩa rộng, nó là phương tiện có tính chất tín hiệu giúp nhận diện đối
tượng. Nhưng trước hết cần phải hiểu ngôn n gữ là kênh tín hiệu bằng lời nói
nhằm truyền đạt và tiếp nhận thông tin. Đây là kênh trao đổi thông tin quan
trọng
nhất giữa người với người trong cùng một cộng đồng. Nhờ kênh lời nói này mà
chúng ta có ngôn từ làm chất liệu đặc trưng để sáng tạo văn chương. Vậy ngôn
ngữ trong tất cả tính chất thẩm mĩ của nó là chất liệu, là phương tiện biểu hiện
mang tính đặc trưng của văn học.
Đối với thơ ngôn ngữ có một vị trí đặc b i ệt quan trọng. Nói như Jakobson:
“Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó” hay “Thơ là ngôn ngữ tự lấy
mình làm cứu cánh”. Vậy có thể thấy thơ là một tổ hợp ngôn ngữ hết sức tinh vi.
Ở đó, ngôn ngữ không chỉ là “vỏ bọc” mà đích thực là kết tinh của trí tuệ và tâm
hồn người nghệ sĩ.
Trong sáng tạo văn chương nói chung, nhà thơ có tài là những người biết
sử dụng và sử dụng thành thục ngôn ngữ của dân tộc để tạo nên một cách nói
riêng, một giọng điệu riêng không thể nhầm lẫn với ai. Chất g iọng riêng ấy
chính
là sự sáng tạo của thi nhân làm phong phú thêm kho tàng ngôn ngữ của dân tộc.
Vậy nên khi khảo sát phong cách ngôn ngữ của một nhà thơ chính là khảo sát
chất giọng riêng của họ, tìm ra qui luật riêng trong việc sử
dụng ngôn ngữ và sự
đóng góp của họ trên phương diện ngôn ngữ.