Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi

10,121
974
139
hình thành và phát trin phong cách ngh thut ca bà là vô cùng ln lao. Có ln
tôi đã đưc nghe nhà thơ nói v s may mn ca mình khi cm hng sáng to
ca ngưi ngh sĩ đng điu vi nhng vn đng, đi thay ca thi đi. Theo Ý
Nhi, nh s đồng điu đó mà thơ bà đưc c h ú ý.
Qu vy, Ý Nhi trưng thành và bt đu s nghip thơ trong giai đon
kháng chiến chng M - khi c dân tc cùng dc lòng thc hin nhim v cu
c v vang ca lch s. Thi đi y là s để hình thành mt chng đưng
mi ca văn hc dân tc mà ch nghĩa anh hùng cách mng là xu thế ch đạo.
Cũng t cuc sng hào hùng y đã to dng mt lp ngưi cóng và hành
động ln, xng tm dân tc. H c v ào cuc ch iến mt cách tình nguyn, đy
trách nhim và tràn say mê. Không khí xã hi khi y đã là đim ta cho cô gái
tr Ý Nhi tin ng mt cách mãnh lit và tôn trng tuyt đi nhng giá tr ln
lao v cái gi là tâm hn dân tc mà ch nghĩa anh hùng cách mng Vit Nam
đem li.
Năm 1964, gic M ném bom min Bc, Trưng Đi hc Tng hp đã sơ
tán v Đi T, Thái Nguyên. Năm đó Ý Nhi va hc hết hc kì I năm th nht
khoa Ng văn ca trưng cũng cùng bao bn bè tham gia khám phá nhng tháng
ngày cc kh nhưng vô cùng sôi ni và đp đ ca đi mình vùng sơ tán. Nhà
thơ k rng: “nhng ngưi thy ca chúng tôi, giáo sư Hoàng Xuân Nh, giáo sư
Hoàng Như Mai, giáo Đình K, giáo Kim Đính… đng gia lp hc
bng tre na, say sưa nói v V.Hugô, Banzac, Molie, Gôgôn, L Tn, Quách
M
c Nhưc, Nguyn Du, H Xuân ơng, Huy Cn, Nguyn Bính, Quang
Dũng…” [43]. Qu tht đây là nhng năm tháng ngưi sinh viên hc trong say
mê vì c thy và trò đưc dn dt bi lí tưng thay đi vn mnh dân tc. Đng
thi h cũng khao khát tham gia vào đi sng văn hc, chính tr ca mt thế gii
mi đang có nhng vn đng ln lao và sâu sc.
Thi nào cũng vy, gii tr luôn có nhng đam mê cung nhit. Ngày nay
ngưi tr nói chung và sinh viên nói riêng phn nhiu yêu thích âm nhc, đin
hình thành và phát triển phong cách nghệ thuật của bà là vô cùng lớn lao. Có lần tôi đã được nghe nhà thơ nói về sự may mắn của mình khi cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ đồng điệu với những vận động, đổi thay của thời đại. Theo Ý Nhi, nhờ sự đồng điệu đó mà thơ bà được c h ú ý. Quả vậy, Ý Nhi trưởng thành và bắt đầu sự nghiệp thơ trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ - khi cả dân tộc cùng dốc lòng thực hiện nhiệm vụ cứu nước vẻ vang của lịch sử. Thời đại ấy là cơ sở để hình thành một chặng đường mới của văn học dân tộc mà chủ nghĩa anh hùng cách mạng là xu thế chủ đạo. Cũng từ cuộc sống hào hùng ấy đã tạo dựng một lớp người có tư tưởng và hành động lớn, xứng tầm dân tộc. Họ bước v ào cuộc ch iến một cách tình nguyện, đầy trách nhiệm và tràn say mê. Không khí xã hội khi ấy đã là điểm tựa cho cô gái trẻ Ý Nhi tin tưởng một cách mãnh liệt và tôn trọng tuyệt đối những giá trị lớn lao về cái gọi là tâm hồn dân tộc mà chủ nghĩa anh hùng cách mạng ở Việt Nam đem lại. Năm 1964, giặc Mỹ ném bom miền Bắc, Trường Đại học Tổng hợp đã sơ tán về Đại Từ, Thái Nguyên. Năm đó Ý Nhi vừa học hết học kì I năm thứ nhất khoa Ngữ văn của trường cũng cùng bao bạn bè tham gia khám phá những tháng ngày cực khổ nhưng vô cùng sôi nổi và đẹp đẽ của đời mình ở vùng sơ tán. Nhà thơ kể rằng: “những người thầy của chúng tôi, giáo sư Hoàng Xuân Nhị, giáo sư Hoàng Như Mai, giáo sư Lê Đình Kỵ, giáo sư Kim Đính… đứng giữa lớp học bằng tre nứa, say sưa nói về V.Hugô, Banzac, Molie, Gôgôn, Lỗ Tấn, Quách Mạ c Nhược, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Huy Cận, Nguyễn Bính, Quang Dũng…” [43]. Quả thật đây là những năm tháng người sinh viên học trong say mê vì cả thầy và trò được dẫn dắt bởi lí tưởng thay đổi vận mệnh dân tộc. Đồng thời họ cũng khao khát tham gia vào đời sống văn học, chính trị của một thế giới mới đang có những vận động lớn lao và sâu sắc. Thời nào cũng vậy, giới trẻ luôn có những đam mê cuồng nhiệt. Ngày nay người trẻ nói chung và sinh viên nói riêng phần nhiều yêu thích âm nhạc, điện
nh và thn ng nhng ngưi làm nên nó. Có l vì tính ph quát và sc hút
phù phiếm ca nó khiến h tìm thy nim vui. Cùng tính cht tâm lý nhưng khác
hoàn cnh xã hi, thanh niên ngày y li đam cùng thơ nhng ngưi
làm nên thơ. Lý gii điu này không khó. Mt mt t ca đã là sn phm tinh
thn phát nguyên t ci ngun dân tc vi ca dao, dân ca d thuc, d nh. Mt
khác thơ đã có sn trong trái tim đang cun trào xúc cm thi đi, ch cn “xut
khu” là “thành thơ”; đã vy không cn dng công mà thơ đã có sn nơi đu lưi
vì tâm hn h tràn tr t mà c mt lp ngưi, thm ch í toàn dân tc khi y
đang có chung mt hn thơ. Thành ra h mê mn, thn tưng Xuân Qunh, Bng
Vit, Vũ Qun Phương, Phan Th Thanh Nhàn, Đ Chu… H thuc V Ngh An
thăm con, Tr li trái tim mình ca Bng Vit; n trong ph, Thôn Chu
Hưng ca Lưu Quang Vũ; Tiếng trưa, Hoa dc chiến hào ca Xuân
Qunh…Ý Nhi tng công nhn ngày y “qu là thi ca thơ” mà! Đây chính
không gian văn hóa giúp hình thành cm thc sáng to thi ca Ý Nhi, nht là
nhng sáng tác trưc ngày gii phóng như Tr ái tim ni nh (in năm 1974 cùng
vi t m Th M D). Đó nhng trang thơ giàu cm xúc, ghi hình thế
xung trn ca tng lp thanh niên lúc by gi. Đó còn tinh thn ca dân tc
mà nhng thanh niên như Ý Nhi cùng ngưng m theo đui. Nhng
ngưi bn đồng chí Ý Nhi tng gp hoc nghe k, nhng vùng đt thi chiến Ý
Nhi đã tng sng, chiến đu, lao đng và hc tp là nh ng kí c tui tr đã tr đi
tr li trong hành trình sáng to ca thơ Ý Nhi làm nên nhng hình tưng thơ vô
cùng đc đáo.
K t chiến thng mùa xuân năm 1975, lch s dân tc đã m sang mt
trang mi, đng thi nn văn hc c nhà cũng c vào mt chng đưng
mi. Ngay sau nim vui chiến thng đt c ta rơi vào khó khăn khng
hong kinh tế trm trng. Nn văn hc như dòng c đang cun chy bng b
ngăn đp nên chng li và dn đy phn ln văn ngh o tình cnh bi ri,
mt phương ng sáng tác. Nhưng càng b dn đy dòng c càng nhanh t
ảnh và thần tượng những người làm nên nó. Có lẽ vì tính phổ quát và sức hút phù phiếm của nó khiến họ tìm thấy niềm vui. Cùng tính chất tâm lý nhưng khác hoàn cảnh xã hội, thanh niên ngày ấy lại đam mê vô cùng thơ và những người làm nên thơ. Lý giải điều này không khó. Một mặt thơ ca đã là sản phẩm tinh thần phát nguyên từ cội nguồn dân tộc với ca dao, dân ca dễ thuộc, dễ nhớ. Mặt khác thơ đã có sẵn trong trái tim đang cuộn trào xúc cảm thời đại, chỉ cần “xuất khẩu” là “thành thơ”; đã vậy không cần dụng công mà thơ đã có sẵn nơi đầu lưỡi vì tâm hồn họ tràn trề thơ mà cả một lớp người, thậm ch í toàn dân tộc khi ấy đang có chung một hồn thơ. Thành ra họ mê mẩn, thần tượng Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Phan Thị Thanh Nhàn, Đỗ Chu… Họ thuộc Về Nghệ An thăm con, Trở lại trái tim mình của Bằng Việt; Vườn trong phố, Thôn Chu Hưng của Lưu Quang Vũ; Tiếng gà trưa, Hoa dọc chiến hào của Xuân Quỳnh…Ý Nhi từng công nhận ngày ấy “quả là thời của thơ” mà! Đây chính là không gian văn hóa giúp hình thành cảm thức sáng tạo thi ca ở Ý Nhi, nhất là những sáng tác trước ngày giải phóng như Tr ái tim nỗi nhớ (in năm 1974 cùng với thơ Lâm Thị Mỹ Dạ). Đó là những trang thơ giàu cảm xúc, ghi hình tư thế xung trận của tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ. Đó còn là tinh thần của dân tộc mà những cô thanh niên như Ý Nhi vô cùng ngưỡng mộ và theo đuổi. Những người bạn – đồng chí Ý Nhi từng gặp hoặc nghe kể, những vùng đất thời chiến Ý Nhi đã từng sống, chiến đấu, lao động và học tập là nh ững kí ức tuổi trẻ đã trở đi trở lại trong hành trình sáng tạo của thơ Ý Nhi làm nên những hình tượng thơ vô cùng độc đáo. Kể từ chiến thắng mùa xuân năm 1975, lịch sử dân tộc đã mở sang một trang mới, đồng thời nền văn học nước nhà cũng bước vào một chặng đường mới. Ngay sau niềm vui chiến thắng đất nước ta rơi vào khó khăn và khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Nền văn học như dòng nước đang cuộn chảy bỗng bị ngăn đập nên chững lại và dồn đẩy phần lớn văn nghệ sĩ vào tình cảnh bối rối, mất phương hướng sáng tác. Nhưng càng bị dồn đẩy dòng nước càng nhanh tự
tìm hoc t to li thoát. Đó quy lut t nhiên. Và quy lut y cũng ng vi
đời sng văn hc giai đon sau chiến tranh. Ngay khi y xut h in mt đi ngũ
văn ngh đi tiên phong trong công cuc đi mi văn hc. Vì vy ta d dàng
nhn thy, mc dù vn tiếp ni nn văn hc Cách mng trưc đó vi kh uynh
ng s thi và cm hng ngi ca, văn hc thi này cũng đã nhng c
chuyn mình đáng khích l vi “ngưi m đưng tinh anh và tài năng” Nguy n
Minh Châu. K t s m đưng này, ngưi làm văn ngh đã bt đu tiếp cn
“hin thc” vi mt c li rt gn khi hưng s quan tâm ca mình vào các vn
đề thế s đi tư. Bc tranh đi sng lúc này không ch đơn điu mt màu
hng ca s ngi ca, con ni cũng không phi “cây đàn đc điu” thun
nht mt âm vc cao hay thp, sáng hay ti, trong hay đc, mà hin thc đưc
nhìn nhiu mt, nhiu chiu.
Cn phi nhc đến nhng s kin tác đng ln lao đến đi sng văn hc.
Trước hết đó là năm 1986, ct mc quan trng đánh du giai đon đi mi toàn
din trên đt nưc V it Nam ta vi Đi hi Đng ln th VI do thư Nguyn
Văn Linh khi ng. T đây, đt c dn t qu a thi kì khng hong đ
c vào giai đon phát trin mnh m và ngày càng vng chc. Kế tiếp phi
nhc đến mt s kin tác đng tr c tiếp đến đi s
ng văn hc. Đó cuc gp
ca Tng thư Nguyn Văn Linh vi đi din gii văn ngh sĩ vào cui năm
1987 đ trin khai ngh quyết 05 ca B chính tr. Tt c cho ta thy mt cuc lt
xác ln lao trong đi sng dân tc ta. Mi phương din xã hi t chính tr, kinh
tế, văn hóa… đu phi tuân theo nhp vn đng mi ca thi cuc. Người n gh
sĩ vì vy cũng cn thay đi cách thc sáng to cũng như m rng biên đ tư duy
ngh thut nhm chuyn ti thành công nhng biến chuyn mi m ca đi sng
xã hi.
Trong hoàn cnh đó có th thy Ý Nhi là mt trong s rt ít n thi sĩ c
đưc c hai chân qua bên kia ming vc đ nhanh chóng thoát khi“khong
chân không trong văn hc” (Nguy ên Ngc), nm bt đưc nhng vn đng còn
tìm hoặc tự tạo lối thoát. Đó là quy luật tự nhiên. Và quy luật ấy cũng ứng với đời sống văn học giai đoạn sau chiến tranh. Ngay khi ấy xuất h iện một đội ngũ văn nghệ sĩ đi tiên phong trong công cuộc đổi mới văn học. Vì vậy ta dễ dàng nhận thấy, mặc dù vẫn tiếp nối nền văn học Cách mạng trước đó với kh uynh hướng sử thi và cảm hứng ngợi ca, văn học thời này cũng đã có những bước chuyển mình đáng khích lệ với “người mở đường tinh anh và tài năng” Nguy ễn Minh Châu. Kể từ sự mở đường này, người làm văn nghệ đã bắt đầu tiếp cận “hiện thực” với một cự li rất gần khi hướng sự quan tâm của mình vào các vấn đề thế sự và đời tư. Bức tranh đời sống lúc này không chỉ đơn điệu một màu hồng của sự ngợi ca, con người cũng không phải là “cây đàn độc điệu” thuần nhất một âm vực cao hay thấp, sáng hay tối, trong hay đục, mà hiện thực được nhìn ở nhiều mặt, nhiều chiều. Cần phải nhắc đến những sự kiện tác động lớn lao đến đời sống văn học. Trước hết đó là năm 1986, cột mốc quan trọng đánh dấu giai đoạn đổi mới toàn diện trên đất nước V iệt Nam ta với Đại hội Đảng lần thứ VI do Bí thư Nguyễn Văn Linh khởi xướng. Từ đây, đất nước dần vượt qu a thời kì khủng hoảng để bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ và ngày càng vững chắc. Kế tiếp phải nhắc đến một sự kiện tác động tr ực tiếp đến đời s ống văn học. Đó là cuộc gặp của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987 để triển khai nghị quyết 05 của Bộ chính trị. Tất cả cho ta thấy một cuộc lột xác lớn lao trong đời sống dân tộc ta. Mọi phương diện xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa… đều phải tuân theo nhịp vận động mới của thời cuộc. Người n ghệ sĩ vì vậy cũng cần thay đổi cách thức sáng tạo cũng như mở rộng biên độ tư duy nghệ thuật nhằm chuyển tải thành công những biến chuyển mới mẻ của đời sống xã hội. Trong hoàn cảnh đó có thể thấy Ý Nhi là một trong số rất ít nữ thi sĩ bước được cả hai chân qua bên kia miệng vực để nhanh chóng thoát khỏi“khoảng chân không trong văn học” (Nguy ên Ngọc), nắm bắt được những vận động còn
rt nh nh mà tinh vi ca đi sng văn hc, hòa mình vào dòng chy sôi ni, táo
bo, l lùng ca mt thi thơ mi. Đc bit vi tp thơ Ngưi đàn bà ngi đan,
Ý Nhi đã khng đnh đưc phong cách, ging thơ riêng ca mình, góp ph n cùng
nhng nhà thơ khác to nên mt din mo mi cho thơ ca Vit Nam giai đon
sau 1975.
1.1.2. Nn tng quê hương, gia đình và đc đim con ni nhà thơ
Nn tng quê hương, gia đình ci ngun hình thành cá tính và là mm
mng ca s phát trin tài năng. Đó lp văn hóa nn xác lp nơi nhà văn
nhng cm thc đu tiên và lâu bn v thế gii ngh thut, góp phn khơi dy
thiên hưng ngh thut cho nhà văn đng thi cũng giúp nhà văn rèn giũa, tôi
luyn, b sung xúc cm và trí tu. Nh vy phong cách ngh thut ca h đưc
định hình và phát trin.
T Hi An ra Hà Ni, qua H i Phòng là quãng đi lưu du nhiu k nim
tui thơ ca Ý Nhi. Vùng đt Hi An ban cho bà v đẹp ca s thâm trm, huyn
bí trong nét văn hóa Chămpa. C thi hc sinh tri dài trên nhng con đưng đi
v phía bin vùng đt Hi Phòng làm nên mt Ý Nhi ci m và tràn tr sc
sng. Gn ba mươi năm sng trên đt th đô ngàn năm văn hiến làm nên nét
quyến rũ, kiêu kì, lch thip nơi con ngưi bà. Tng hòa tt c là mt Ý Nhi đi
và thơ rt riêng. Trong thơ Ý Nhi ta thưng bt gp nhng cnh vt, con ngưi,
s vic din ra nhng vùng đt thân quen đó. Nó va là kí c, va là tim thc
làm nên nhng hình tưng ngh thut mang đm du n cá nhân ca nhà thơ.
Sinh ra trong mt gia đình ngh thut, Ý Nhi hin nhiên hoc may mn
mang trong mình tâm hn ca mt ngh sĩ. chưa phát tiết nhưng vn có
phong v ca k lãng du. Ông ni nhà thơ là mt nhà Nho hay ch va làm thơ
va bc thuc cu ngưi. Cha là nhà nghiên cu ngh thut dân gian tài năng
Nhà nghiên cu tung Hoàng Châu Ký. Đưc biết ông ngưi hc ch Nho,
đọc nhiu thơ ch Hán làm thơ t rt sm. Nhng u thơ ca ông đưc Ý
Nhi đánh giá là “tinh tế và trau chut”. V sau ông đc nhiu thơ hin đi bng
rất nhỏ nhẽ mà tinh vi của đời sống văn học, hòa mình vào dòng chảy sôi nổi, táo bạo, lạ lùng của một thời thơ mới. Đặc biệt với tập thơ Người đàn bà ngồi đan, Ý Nhi đã khẳng định được phong cách, giọng thơ riêng của mình, góp ph ần cùng những nhà thơ khác tạo nên một diện mạo mới cho thơ ca Việt Nam giai đoạn sau 1975. 1.1.2. Nền tảng quê hương, gia đình và đặc điểm con người nhà thơ Nền tảng quê hương, gia đình là cội nguồn hình thành cá tính và là mầm mống của sự phát triển tài năng. Đó là lớp văn hóa nền xác lập nơi nhà văn những cảm thức đầu tiên và lâu bền về thế giới nghệ thuật, góp phần khơi dậy thiên hướng nghệ thuật cho nhà văn đồng thời cũng giúp nhà văn rèn giũa, tôi luyện, bổ sung xúc cảm và trí tuệ. Nhờ vậy phong cách nghệ thuật của họ được định hình và phát triển. Từ Hội An ra Hà Nội, qua H ải Phòng là quãng đời lưu dấu nhiều kỉ niệm tuổi thơ của Ý Nhi. Vùng đất Hội An ban cho bà vẻ đẹp của sự thâm trầm, huyền bí trong nét văn hóa Chămpa. Cả thời học sinh trải dài trên những con đường đi về phía biển ở vùng đất Hải Phòng làm nên một Ý Nhi cởi mở và tràn trề sức sống. Gần ba mươi năm sống trên đất thủ đô ngàn năm văn hiến làm nên nét quyến rũ, kiêu kì, lịch thiệp nơi con người bà. Tổng hòa tất cả là một Ý Nhi đời và thơ rất riêng. Trong thơ Ý Nhi ta thường bắt gặp những cảnh vật, con người, sự việc diễn ra ở những vùng đất thân quen đó. Nó vừa là kí ức, vừa là tiềm thức làm nên những hình tượng nghệ thuật mang đậm dấu ấn cá nhân của nhà thơ. Sinh ra trong một gia đình nghệ thuật, Ý Nhi hiển nhiên hoặc may mắn mang trong mình tâm hồn của một nghệ sĩ. Dù chưa phát tiết nhưng vẫn có phong vị của kẻ lãng du. Ông nội nhà thơ là một nhà Nho hay chữ vừa làm thơ vừa bốc thuốc cứu người. Cha là nhà nghiên cứu nghệ thuật dân gian tài năng – Nhà nghiên cứu tuồng Hoàng Châu Ký. Được biết ông là người học ch ữ Nho, đọc nhiều thơ chữ Hán và làm thơ từ rất sớm. Những câu thơ của ông được Ý Nhi đánh giá là “tinh tế và trau chuốt”. Về sau ông đọc nhiều thơ hiện đại bằng
tiếng Pháp cũng thay đi cách viết văn, viết nghiên cu, phê bình và c làm
thơ. Ý Nhi may mn tha hưng t cha và ông li tư duy khúc chiết, mch lc.
Phi chăng điu này làm nên tính triết lun trong tư duy thơ ca bà. M ngưi
yêu thơ Mi (thơ 30-45), bà thuc nhiu bài thơ ca các nthơ Mi tên tui
như Huy Cn, Xuân Diu, Tế Hanh… Nn tng xut thân như thế khiến Ý Nhi
t nhn thy mình yêu thơ thích làm thơ cũng l t nhiên, d hiu. Thêm
mt ln na, hoc hin nhiên hoc may mn na, khi đến tui “theo chng” Ý
Nhi đưc yêu và sng cùng ngưi chng là mt nhà nghiên c u và ging dy văn
hc đáng nh - giáo Nguyn Lc. Tt c to cho Ý Nhi nhng điu kin
thun li đ đến vi thơ, suy nghĩ v thơ to dng phong cách thơ cho riêng
mình.
Đim li bưc đưng làm thơ ca Ý Nh i, ta thy đưc con-ngưi-thơ ca
bà. T rt nh Ý Nhi đã làm thơ nhưng ch là nh ng câu thơ “non” ca tui hc
trò. Phi đến khi đt g ii khuyến khích trong mt cuc thi thơ tri viết dành
cho các nhà văn tr vào năm 1969, Ý Nhi mi ý thc đưc kh ng thơ ca ca
mình. Có nim tin, bà mnh dn tuyn chn, tp hp nhng bài thơ l để in
chung vi nhà thơ đã có tên tui lúc by gi - Lâm Th M D trong tp Trái tim
– Ni nh. Tiếp cn đưc vi công chúng, thơ Ý Nhi nhn đưc phn hi và nhà
thơ nhanh chóng thy đưc “ngh thơ còn lm gian nan” khi ngòi bút ca mình
còn thiếu thiếu mt cái gì vô cùng quan trng. Bà hiu rng, thơ không phi là
sn phm ca s hi ht, làm thơ mt ngh đỏi hi s suy tư nghiêm túc, thơ
là tm gương phn chiếu trí tu
và tâm hn … Và đng đùa gin vi thơ.
T đây suy nghĩ tht s nghiêm túc v thơ dn la chn cho mình
mt li đi. Con đường thơ bt đu in du nhng c chân còn nhiu lúng túng
ca k đưng. Đi sao cho tha đam mê, đi sao đ đam đến đưc cái nơi
mà nó ng tr, đi sao đ đam mê đến đưc vinh quang. S trăn tr này bc l khá
rõ trong tp Đến vi dòng sông (1978).
tiếng Pháp và cũng thay đổi cách viết văn, viết nghiên cứu, phê bình và cả làm thơ. Ý Nhi may mắn thừa hưởng từ cha và ông lối tư duy khúc chiết, mạch lạc. Phải chăng điều này làm nên tính triết luận trong tư duy thơ của bà. Mẹ là người yêu thơ Mới (thơ 30-45), bà thuộc nhiều bài thơ của các nhà thơ Mới tên tuổi như Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh… Nền tảng xuất thân như thế khiến Ý Nhi tự nhận thấy mình yêu thơ và thích làm thơ cũng là lẽ tự nhiên, dễ hiểu. Thêm một lần nữa, hoặc hiển nhiên hoặc may mắn nữa, khi đến tuổi “theo chồng” Ý Nhi được yêu và sống cùng người chồng là một nhà nghiên c ứu và giảng dạy văn học đáng kính - giáo sư Nguyễn Lộc. Tất cả tạo cho Ý Nhi những điều kiện thuận lợi để đến với thơ, suy nghĩ về thơ và tạo dựng phong cách thơ cho riêng mình. Điểm lại bước đường làm thơ của Ý Nh i, ta thấy được con-người-thơ của bà. Từ rất nhỏ Ý Nhi đã làm thơ nhưng chỉ là nh ững câu thơ “non” của tuổi học trò. Phải đến khi đạt g iải khuyến khích trong một cuộc thi thơ ở trại viết dành cho các nhà văn trẻ vào năm 1969, Ý Nhi mới ý thức được khả năng thơ ca của mình. Có niềm tin, bà mạnh dạn tuyển chọn, tập hợp những bài thơ lẻ để in chung với nhà thơ đã có tên tuổi lúc bấy giờ - Lâm Thị Mỹ Dạ trong tập Trái tim – Nỗi nhớ. Tiếp cận được với công chúng, thơ Ý Nhi nhận được phản hồi và nhà thơ nhanh chóng thấy được “ngh ề thơ còn lắm gian nan” khi ngòi bút của mình còn thiếu thiếu một cái gì vô cùng quan trọng. Bà hiểu rằng, thơ không phải là sản phẩm của sự hời hợt, làm thơ là một nghề đỏi hỏi sự suy tư nghiêm túc, thơ là tấm gương phản chiếu trí tuệ và tâm hồn … Và đừng đùa giỡn với thơ. Từ đây bà suy nghĩ thật sự nghiêm túc về thơ và dần lựa chọn cho mình một lối đi. Con đường thơ bắt đầu in dấu những bước chân còn nhiều lúng túng của kẻ dò đường. Đi sao cho thỏa đam mê, đi sao để đam mê đến được cái nơi mà nó ngự trị, đi sao để đam mê đến được vinh quang. Sự trăn trở này bộc lộ khá rõ trong tập Đến với dòng sông (1978).
Đến vi thơ không ch là mt cuc gp g mà còn là duyên phn. Mà đã
là duyên phn thì thưng gn vi hên-xui, may-ri. Điu này đòi hi thi nhân
phi là ngưi sn sàng dn thân và chp nhn tht bi nếu nó xy ra. Sau nhiu
ri ro, may thay Ý Nhi đã mt cuc gp g vi nhà thơ Vit Phương đ sau
đó bà nhn ra rng: thơ ngày nay phi khác, không nht thiết thơ phi là nhng
li ca du dương, êm ái, không nht thiết thơ phi s dng nhng m t dt dào
xúc cm mà trên hết thơ phi là con ngưi, là kí thác, là bc bch ca thi nhân.
Ch cn đến đưc cái đích ca tâm hn thì ngôn ng s thành thơ. Và con đưng
đến đó mi thi mi khác. Ý Nhi xác đnh mình phi đi con đưng khác đ đến
vi thơ.
Nng n vi thơ, xp nga vi ch nghĩa. May mn đã mm i vi Ý
Nhi khi Ngưi đàn bà ngi đan xut hin đúng cái lúc cuc đi cn có nó. Làng
văn xôn xao. Ý Nhi mm i vi thành qu ca s dày công mài giũa, trau
chut “cái ngh lm công phu”. Vi tp thơ này Ý Nhi đã khng đnh đưc bn
thân và hình thành cho mình mt phong cách. Nét n tính cùng vi cht trí tu
đã làm nên mt cái gì rt riêng ca Ý Nhi. Ta thy có điu gì nh nhàng, gin d
sao cũng quá đi ưu tư, khc khoi tp thơ. Cái nét băn khoăn, ng l
trong s dn đy, hi h; cái s phân vân, hoài nghi trong nim nhit huyết đã
làm nên cht thơ ca bà. Qu là mt làn gió mi thi vào thi đàn. Đáng yêu,
đáng trng biết bao! Sau tp Ngưi đàn bà ngi đan, các tp Ngày thưng,
Mưa tuyết, Gương mt, n tiếp tc khng đnh tên tui và phong cách ca n
thi sĩ. Ý Nhi đã tr thành mt trong nh
ng gương mt tiêu biu ca thơ Vit
Nam đương đi.
Tính cách làm nên s phn! Tính cách cũng góp phn hình thành ph ong
cách. Con ngưi Ý Nhi có nhng nét tính cách đc bit giúp làn nên phong cách
thơ ca bà. Là người thích phiêu lưu và có cá tính, bà đam mê sáng to. Là ngưi
đim tĩnh thông minh, Ý Nhi nhn ra mình đang đng đâu trong cuc đi
cũng như trên thi đàn. ngưi chnh chu và tinh tế, Ý Nhi khéo léo thay đi
Đến với thơ không chỉ là một cuộc gặp gỡ mà còn là duyên phận. Mà đã là duyên phận thì thường gắn với hên-xui, may-rủi. Điều này đòi hỏi thi nhân phải là người sẵn sàng dấn thân và chấp nhận thất bại nếu nó xảy ra. Sau nhiều rủi ro, may thay Ý Nhi đã có một cuộc gặp gỡ với nhà thơ Việt Phương để sau đó bà nhận ra rằng: thơ ngày nay phải khác, không nhất thiết thơ phải là những lời ca du dương, êm ái, không nhất thiết thơ phải sử dụng những mỹ từ dạt dào xúc cảm mà trên hết thơ phải là con người, là kí thác, là bộc bạch của thi nhân. Chỉ cần đến được cái đích của tâm hồn thì ngôn ngữ sẽ thành thơ. Và con đường đến đó mỗi thời mỗi khác. Ý Nhi xác định mình phải đi con đường khác để đến với thơ. Nặng nợ với thơ, xấp ngửa với chữ nghĩa. May mắn đã mỉm cười với Ý Nhi khi Người đàn bà ngồi đan xuất hiện đúng cái lúc cuộc đời cần có nó. Làng văn xôn xao. Ý Nhi mỉm cười với thành quả của sự dày công mài giũa, trau chuốt “cái nghề lắm công phu”. Với tập thơ này Ý Nhi đã khẳng định được bản thân và hình thành cho mình một phong cách. Nét nữ tính cùng với chất trí tuệ đã làm nên một cái gì rất riêng của Ý Nhi. Ta thấy có điều gì nhẹ nhàng, giản dị mà sao cũng quá đỗi ưu tư, khắc khoải ở tập thơ. Cái nét băn khoăn, lưỡng lự trong sự dồn đẩy, hối hả; cái sự phân vân, hoài nghi trong niềm nhiệt huyết đã làm nên chất thơ của bà. Quả là một làn gió mới thổi vào thi đàn. Đáng yêu, đáng trọng biết bao! Sau tập Người đàn bà ngồi đan, các tập Ngày thường, Mưa tuyết, Gương mặt, Vườn tiếp tục khẳng định tên tuổi và phong cách của nữ thi sĩ. Ý Nhi đã trở thành một trong nhữ ng gương mặt tiêu biểu của thơ Việt Nam đương đại. Tính cách làm nên số phận! Tính cách cũng góp phần hình thành ph ong cách. Con người Ý Nhi có những nét tính cách đặc biệt giúp làn nên phong cách thơ của bà. Là người thích phiêu lưu và có cá tính, bà đam mê sáng tạo. Là người điềm tĩnh và thông minh, Ý Nhi nhận ra mình đang đứng ở đâu trong cuộc đời cũng như trên thi đàn. Là người chỉnh chu và tinh tế, Ý Nhi khéo léo thay đổi
cách nghĩ cách làm thơ. ngưi gin d và nhân hu, Ý Nhi biết to ra v
đẹp thun khiết nhưng sâu sc cho thơ. ngưi nng sâu tình cm, Ý Nhi tr
thành nhà thơ chân chính. Con ngưi Ý Nhi đã làm nên khuôn mt thơ Ý Nhi, và
ta nhn ra khuôn mt ta sáng đó.
1.3. Khái lưc v các chng đường sáng tác thơ Ý Nhi
phn này chúng tôi s kho lưc quá trình sáng tác thơ ca Ý Nhi thông
qua các tp thơ. Đây là cái nhìn bưc đu đ nhn din s phát trin phong cách
thơ Ý Nhi.
Trái tim ni nh, Đến vi dòng sông, Cây trong ph ch trăng là nhng
tp thơ đu tiên ca Ý Nhi. Nét chung ca nhng tp thơ này là s tr ong sáng,
ngây thơ ca ngưi n thanh niên va bưc vào đi vi bao nhiêu nhit huyết và
say mê; là tinh thn khng khái, qu cm; là tình yêu và s ngi ca đi vi T
quc, nhân dân.
Trái tim ni nh in chung vi Lâm Th M D năm 1974 là tp thơ đánh
du s góp mt ca mt nhà thơ mang tên Ý Nhi trên thi đàn. Đưc in thơ chung
vi ngưi đàn ch trong ngh là mt vinh d cũng đng lc đi vi Ý Nhi.
Vn rt rè nên dù viết đưc nhiu thơ nhưng Ý Nhi không dám gi in. Đây
chính là cơ hi, là bưc đm đ thơ bà đến đưc v i công chúng. T tp thơ này
tr đi, Ý Nhi mi nhn đưc nhng phn hi t phía đc gi và dn nhn ra chân
dung mt cô thiếu n mng mơ, “còn ln ln trong mt kiu tr ang đim và y
phc chung ca lp thiếu n đem trái tim đưc nuôi b ng văn Pautopxki và thơ
Bergon đi vào cái thc tế l lùng gian lao và đy lãng mn ca đt Bc thi
chiến tranh” (Hoàng Hưng Thơ Ý Nhi). Ý Nhi t hào v điu đó.
Đến vi dòng sông (in năm 1978) thơ Ý Nhi bt đu có s trăn tr. Hình
ng ngưi đàn vi nhng “day dưa”, vi nhng “xao xác” manh nha xut
hin trong thơ. Đó là s tr mình ca mt con ngưi không chp nhn nhng gì
khuôn mu, ca ngưi khao khát tìm đưng “ra ti bin”. Ý Nhi b li sau lưng
cánh rng tr trung ca mình, bà biết “du cho đêm yên lng’ thì “phía trưc”
cách nghĩ và cách làm thơ. Là người giản dị và nhân hậu, Ý Nhi biết tạo ra vẻ đẹp thuần khiết nhưng sâu sắc cho thơ. Là người nặng sâu tình cảm, Ý Nhi trở thành nhà thơ chân chính. Con người Ý Nhi đã làm nên khuôn mặt thơ Ý Nhi, và ta nhận ra khuôn mặt tỏa sáng đó. 1.3. Khái lược về các chặng đường sáng tác thơ Ý Nhi Ở phần này chúng tôi sẽ khảo lược quá trình sáng tác thơ của Ý Nhi thông qua các tập thơ. Đây là cái nhìn bước đầu để nhận diện sự phát triển phong cách thơ Ý Nhi. Trái tim nỗi nhớ, Đến với dòng sông, Cây trong phố chờ trăng là những tập thơ đầu tiên của Ý Nhi. Nét chung của những tập thơ này là sự tr ong sáng, ngây thơ của người nữ thanh niên vừa bước vào đời với bao nhiêu nhiệt huyết và say mê; là tinh thần khảng khái, quả cảm; là tình yêu và sự ngợi ca đối với Tổ quốc, nhân dân. Trái tim nỗi nhớ in chung với Lâm Thị Mỹ Dạ năm 1974 là tập thơ đánh dấu sự góp mặt của một nhà thơ mang tên Ý Nhi trên thi đàn. Được in thơ chung với người đàn chị trong nghề là một vinh dự cũng là động lực đối với Ý Nhi. Vốn rụt rè nên dù viết được nhiều thơ nhưng Ý Nhi không dám gửi in. Đây chính là cơ hội, là bước đệm để thơ bà đến được v ới công chúng. Từ tập thơ này trở đi, Ý Nhi mới nhận được những phản hồi từ phía độc giả và dần nhận ra chân dung một cô thiếu nữ mộng mơ, “còn lẫn lộn trong một kiểu tr ang điểm và y phục chung của lớp thiếu nữ đem trái tim được nuôi b ằng văn Pautopxki và thơ Bergon đi vào cái thực tế lạ lùng – gian lao và đầy lãng mạn – của đất Bắc thời chiến tranh” (Hoàng Hưng – Thơ Ý Nhi). Ý Nhi tự hào về điều đó. Đến với dòng sông (in năm 1978) – thơ Ý Nhi bắt đầu có sự trăn trở. Hình tượng người đàn bà với những “day dưa”, với những “xao xác” manh nha xuất hiện trong thơ. Đó là sự trở mình của một con người không chấp nhận những gì khuôn mẫu, của người khao khát tìm đường “ra tới biển”. Ý Nhi bỏ lại sau lưng cánh rừng trẻ trung của mình, bà biết “dẫu cho đêm yên lặng’ thì “phía trước”
vn “là dòng sông”. Tp thơ có nhng câu hi day dt va như s chia tay,
va như là s nui tiếc. Du nhiu yêu thương cũng đành phi ri xa “cánh rng
muôn năm cũ” đ đến vi nhng dòng sông ào t tìm v phía bin. Đây là nhng
câu thơ rt mi ca Ý Nhi:
Đốm la rng gi cháy nơi đâu
con chim rng gi hót nơi đâu
đóa hoa rng gi thơm nơi đâu.
Mà bu tri trưc tôi xanh nôn nao
mà cánh đng trưc tôi vàng chói mt
phút hân hoan lòng cht nim se tht
nhng cánh rng đã li phía sau.
(Ca rng)
Nhng bài thơ trong tp thơ này th hin quyết tâm chia tay vi li thơ
“d dãi, ngòn ngt” ca mt thi yêu du đ tìm đến mt bu tri “xanh”, mt
cánh đng “vàng” mi, du biết rng đó là nơi ca màu “xanh nôn nao”, nơi ca
màu “vàng chói mt”. Đó là nơi đp đ nhưng “khc nghit”. Đó là nơi hp dn
nhưng chng th bình yên. Cho nên thơ Ý Nhi có nhng hân hoan và bi ri, có
“tiếng hát chao lòng như tiếng gió”, có “điu gì thao thc trong em”. Có l t
đây, Ý Nhi bt đu mt ng vi nhng câu thơ thơ vy bt đu thc
trong lòng đc gi.
Cây trong ph ch trăng là tp thơ dành cho thiếu nhi in chung vi Xuân
Qunh năm 1984. đây là khuôn mt khác ca Ý Nhi. Tâm thế nhà thơ ng
như nhưng ch ch cho tâm thế mt ngưi m, ngưi ch, ngưi bn ca tr
thơ. vy li thơ vô cùng d hiu, ging thơ du dàng, tha thiết. Đây cái
“cht” vn có ca ph n nên Ý Nhi không khó th hin. V bút pháp, nhng bài
thơ ca Ý Nhi trong tp thơ này không có đc bit. Nh ng bài thơ năm ch
chun mc, nhng bài thơ t do đơn gin là món quà cho tui thơ d đọc, d
vẫn “là dòng sông”. Tập thơ có những câu hỏi day dứt vừa như là sự chia tay, vừa như là sự nuối tiếc. Dẫu nhiều yêu thương cũng đành phải rời xa “cánh rừng muôn năm cũ” để đến với những dòng sông ào ạt tìm về phía biển. Đây là những câu thơ rất mới của Ý Nhi: Đốm lửa rừng giờ cháy nơi đâu con chim rừng giờ hót nơi đâu đóa hoa rừng giờ thơm nơi đâu. Mà bầu trời trước tôi xanh nôn nao mà cánh đồng trước tôi vàng chói mắt phút hân hoan lòng chợt niềm se thắt những cánh rừng đã ở lại phía sau. (Cửa rừng) Những bài thơ trong tập thơ này thể hiện quyết tâm chia tay với lối thơ “dễ dãi, ngòn ngọt” của một thời yêu dấu để tìm đến một bầu trời “xanh”, một cánh đồng “vàng” mới, dẫu biết rằng đó là nơi của màu “xanh nôn nao”, nơi của màu “vàng chói mắt”. Đó là nơi đẹp đẽ nhưng “khắc nghiệt”. Đó là nơi hấp dẫn nhưng chẳng thể bình yên. Cho nên thơ Ý Nhi có những hân hoan và bối rối, có “tiếng hát chao lòng như tiếng gió”, có “điều gì thao thức ở trong em”. Có lẽ từ đây, Ý Nhi bắt đầu mất ng ủ với những câu thơ và thơ bà vì vậy bắt đầu thức trong lòng độc giả. Cây trong phố chờ trăng là tập thơ dành cho thiếu nhi in chung với Xuân Quỳnh năm 1984. Ở đây là khuôn mặt khác của Ý Nhi. Tâm thế nhà thơ dường như nhường ch ỗ chỗ cho tâm thế một người mẹ, người chị, người bạn của trẻ thơ. Vì vậy lời thơ vô cùng dễ hiểu, giọng thơ dịu dàng, tha thiết. Đây là cái “chất” vốn có của phụ nữ nên Ý Nhi không khó thể hiện. Về bút pháp, những bài thơ của Ý Nhi trong tập thơ này không có gì đặc biệt. Nh ững bài thơ năm chữ chuẩn mực, những bài thơ tự do đơn giản là món quà cho tuổi thơ dễ đọc, dễ
nh. Đó là s yêu thương, là s quan tâm, là k nim và kinh nghim thi bé thơ
Ý Nhi gi đến các em khi đã là m hin ca các con thơ.
Xut hin khá mun trưc công chúng, nhưng thơ Ý Nhi đã nhng
đim sáng nht đnh. Ba tp t đu tiên có th còn m nht v phong cách,
nhưng đi vi Ý Nhi nó là mt phn đi đáng yêu ca bà. Ngưi ta khó lòng đi
đến tương lai khi không có quá kh. Qu á kh ca Ý Nhi tròn tra đp đ. Nó
ghi nhn s n lc hết mình đ đến vi thơ. V mt tình cm, đó có l là nhng
k nim đp và trong tro nht trong cuc đi làm thơ ca bà. V mt s nghip,
đây là nhng b đỡ để thơ Ý Nhi tiếp cn vi công chúng, đng thi cũng chính
là nhng viên gch đu tiên đt nn móng cho s hình thành phong cách ngh
thut thơ Ý Nhi.
Ngưi đàn bà ngi đan (1985) là mt viên ngc quý trong nn thơ ca Vit
Nam thi hin đi. C th thơ ca Vit Nam thi đi mi. Tuy nhiên, sc
nh hưng ca nó sâu, rng cho đến tn hôm nay. S tht là cho đến ngày nay s
lan ta, nh ng ca Ngưi đàn ngi đan vn còn sâu sc. Có thêm thi
gian đ nhn đnh, có thêm thi gian đ so sá nh và đi chiếu, ta càng nhn thy
tính vn đ, tính hin thc và thi đi trong tp thơ. Chng nhng tp thơ chưa
cũ mà còn dưng như là mi bt đu.
T Kính gi m cho đến Cát là mt s cách tân hoàn toàn v nhn thc,
ng và thi pháp. Không còn s nhn đưng hay dò đưng mà là s khng
định. Khng đnh mt con đưng mi, mt li đi riêng đ vào thế
gii thơ giàu
màu sc và lm chông gai. Đt trong h thng thơ ca gii n, Ngưi đàn bà
ngi đan t lên bi s chng chc, đim đm mà tinh tế. Không đa ng ôn mà
“kim li”, không ào t mà “tiết chế”, không “duy cm” mà “duy lý”…, Ý Nhi
to ra mt khuôn thưc mi đ nhìn nhn cái đp ca thơ n. Lý thuyết v cách
đọc thơ dn thay đi. Biên đ nhn thc v thơ đưc ni rng hơn. to ra
nhng dư chn mnh m và mi l trên thi đàn đang đòi “Đi mi”. Nó giành
gii A ca Hi nhà văn. Tm vóc ca nhà thơ bây gi tht s thay đi.
nhớ. Đó là sự yêu thương, là sự quan tâm, là kỉ niệm và kinh nghiệm thời bé thơ Ý Nhi gửi đến các em khi đã là mẹ hiền của các con thơ. Xuất hiện khá muộn trước công chúng, nhưng thơ Ý Nhi đã có những điểm sáng nhất định. Ba tập thơ đầu tiên có thể còn mờ nhạt về phong cách, nhưng đối với Ý Nhi nó là một phần đời đáng yêu của bà. Người ta khó lòng đi đến tương lai khi không có quá khứ. Qu á khứ của Ý Nhi tròn trịa và đẹp đẽ. Nó ghi nhận sự nỗ lực hết mình để đến với thơ. Về mặt tình cảm, đó có lẽ là những kỉ niệm đẹp và trong trẻo nhất trong cuộc đời làm thơ của bà. Về mặt sự nghiệp, đây là những bệ đỡ để thơ Ý Nhi tiếp cận với công chúng, đồng thời cũng chính là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự hình thành phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi. Người đàn bà ngồi đan (1985) là một viên ngọc quý trong nền thơ ca Việt Nam thời hiện đại. Cụ thể là thơ ca Việt Nam thời kì đổi mới. Tuy nhiên, sức ảnh hưởng của nó sâu, rộng cho đến tận hôm nay. Sự thật là cho đến ngày nay sự lan tỏa, ảnh hưởng của Người đàn bà ngồi đan vẫn còn sâu sắc. Có thêm thời gian để nhận định, có thêm thời gian để so sá nh và đối chiếu, ta càng nhận thấy tính vấn đề, tính hiện thực và thời đại trong tập thơ. Chẳng những tập thơ chưa cũ mà còn dường như là mới bắt đầu. Từ Kính gửi mẹ cho đến Cát là một sự cách tân hoàn toàn về nhận thức, tư tưởng và thi pháp. Không còn sự nhận đường hay dò đường mà là sự khẳng định. Khẳng định một con đường mới, một lối đi riêng để vào thế giới thơ giàu màu sắc và lắm chông gai. Đặt trong h ệ thống thơ của giới nữ, Người đàn bà ngồi đan vượt lên bởi sự chững chạc, điềm đạm mà tinh tế. Không đa ng ôn mà “kiệm lời”, không ào ạt mà “tiết chế”, không “duy cảm” mà “duy lý”…, Ý Nhi tạo ra một khuôn thước mới để nhìn nhận cái đẹp của thơ nữ. Lý thuyết về cách đọc thơ dần thay đổi. Biên độ nhận thức về thơ được nới rộng hơn. Nó tạo ra những dư chấn mạnh mẽ và mới lạ trên thi đàn đang đòi “Đổi mới”. Nó giành giải A của Hội nhà văn. Tầm vóc của nhà thơ bây giờ thật sự thay đổi.
“Tm đón đi” ca đc gi ngày y ng như chưa theo kp tư duy thơ
ca n thi sĩ, nên có ngưi hét lên rng: thơ thiếu thc tế. Nthơ giàu cm xúc
và n tính nht lúc by gi là Xuân Qu nh đã phi “cãi” li rng: Thơ Đưng có
thc tế đâu tn ti my ngàn năm. Cuc tranh lun bt đu. Ngưi đàn
ngi đan th êm ni tiếng. Phong cách thơ Ý Nhi càng lan ta và sc nh ng
càng sâu rng, nht là trong đa ht thơ n. Hãy đc và nghim sau hai my năm:
1. Nhng cây si bên h Thuyn Quang
Không có gì ca đi tôi đã xy ra nơi y
ch có nhng ý nghĩ như la dưi vòm xanh trm mc
và nim mong mi khôn nguôi bên tán cây xào xc gió
Năm tháng qua đi
tôi đã cùng nơi kia gn bó
nhng cây si mc bên li nh
chng kiến nhng gì đưc che gi trong tôi
(ý nghĩ v hnh phúc bn vng hơn hnh phúc gia đi
ý nghĩ v nim vui ln hơn nim vui có thc
và ni đau trong ta ghê gm hơn nhng gì ta có th gii bày).
Gi đây mi khi tôi qua dưi bóng cây si
tôi tưng như ph phưng xa vng hết
và tt c mi điu cách bit
ch màu xanh trm tĩnh cùng tôi.
2. Ngưi đàn bà ngi đan
Gia chiu lnh
mt ngưi đàn bà ngi đan bên ca s
v va nhn ni va vi vã
nhn ni như th đó là vic phi làm sut đi
“Tầm đón đợi” của độc giả ngày ấy dường như chưa theo kịp tư duy thơ của nữ thi sĩ, nên có người hét lên rằng: thơ thiếu thực tế. Nhà thơ giàu cảm xúc và nữ tính nhất lúc bấy giờ là Xuân Qu ỳnh đã phải “cãi” lại rằng: Thơ Đường có thực tế đâu mà tồn tại mấy ngàn năm. Cuộc tranh luận bắt đầu. Người đàn bà ngồi đan th êm nổi tiếng. Phong cách thơ Ý Nhi càng lan tỏa và sức ảnh hưởng càng sâu rộng, nhất là trong địa hạt thơ nữ. Hãy đọc và nghiệm sau hai mấy năm: 1. Những cây sồi bên hồ Thuyền Quang Không có gì của đời tôi đã xảy ra nơi ấy chỉ có những ý nghĩ như lửa dưới vòm xanh trầm mặc và niềm mong mỏi khôn nguôi bên tán cây xào xạc gió Năm tháng qua đi tôi đã cùng nơi kia gắn bó những cây sồi mọc bên lối nhỏ chứng kiến những gì được che giữ trong tôi (ý nghĩ về hạnh phúc bền vững hơn hạnh phúc giữa đời ý nghĩ về niềm vui lớn hơn niềm vui có thực và nỗi đau trong ta ghê gớm hơn những gì ta có thể giải bày). Giờ đây mỗi khi tôi qua dưới bóng cây sồi tôi tưởng như phố phường xa vắng hết và tất cả mọi điều cách biệt chỉ màu xanh trầm tĩnh cùng tôi. 2. Người đàn bà ngồi đan Giữa chiều lạnh một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời