Luận văn Thạc sĩ Văn học: Phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi
10,099
974
139
Mùa thu luôn mang đến cho nhà thơ những điều bình yên và dịu nhẹ nhất.
Nhưng kèm theo đó luôn là những lo âu, những ngập ngừng khó hiểu. Có lẽ đó
là tâm trạng sợ những gì trong trẻo như mùa thu sẽ mau chóng phai tàn. Đây
chính là tâm trạng điển hình của một con người đa cảm, giàu trắc ẩn, thích suy
tư. (Tôi thường đợi mùa thu với nỗi lòng không xác thực; em đi qua những
khoảng trời mùa thu trong vắt; Trời xanh lắm/ sau những cơn mưa rừng/ ai cũng
biết là mùa thu đã về tới cung đường; Ch iếu lá vàng lắc lay trong gió/ là đốm
lửa dịu dàng mùa thu; Bất chợt mùi hương lạ/ ngẩng đầu lên vòm cao/ trắng
ngần màu hoa sữa/ thu đến tự khi nào…)
• Chùa: Biểu tượng của “lòng yên tĩnh lại”. Đây là nơi Ý Nhi
tìm về để thấy lòng thanh tịnh, nhẹ nhàng. Đây là mái nhà trú ngụ sau những
nhọc nhằn, đổi thay. “Chùa trong phố” để đối lập sự yên tĩnh vĩnh hằng với
những xô bồ, bất trắc. Chùa là chốn linh thiêng là nơi Ý Nhi tìm về để được che
chở, được tĩnh tâm, bồi dưỡng tinh thần. (Chùa tĩnh lặng chùm hoa ngâu đã nở;
ong say đến cánh hoa ngâu sân chùa; Chùa như thể bóng cây/ giữa tháng ngày
vất vả/ Người mệt mỏi dừng chân/ dưới màu xanh che chở…)
• Em bé/ đứa trẻ: là biểu tượng cho niềm ao ước được bé dại
để làm n hững điều mà người lớn phải đắn đo, cân nhắc. Hình tượng em bé, đứa
trẻ hay được Ý Nhi dùng để so sánh với những gì (thường là những hành động
mang tính bản năng) trong sáng, hồn nhiên. Đứa trẻ sống bản năng và làm những
điều nó muốn một cách hồn nhiên không hề tô vẽ, sửa so ạn hay cân nhắc. Ý Nhi
viết: Tôi là đứa trẻ muốn kêu to lên để nghe thấy lời mình trong biển; Đột nhiên
anh muốn có thể khóc được/ như một đứa trẻ; ước chi/được như đứa trẻ kia/ đến
biển mà không sợ bị vùi lấp/ lên núi mà không sợ bị gãy đổ; họ yêu anh với tình
yêu vô tư của đứa trẻ; Là biển/ biển xanh ngút ngàn/ xanh khiến lòng se thắt/ ta
ngồi lại bên bờ như đứa trẻ/ nghẹn ngào mơ/ một miền xa…
• Người đàn bà ngồi đan: là biểu tượng lớn trong thơ Ý Nhi.
Cái bình tĩnh dường như bất biến trước những biến động và quay cuồng của cuộc
đời đã nâng tầm người đàn bà ngồi đan lên tầm bi ểu tượng không chỉ ở trong thơ
Ý Nhi mà còn là biểu tượng của một giai đoạn phát triển của xã hội, b iểu tượng
cho cả một th ế hệ người Việt Nam. Đó là người đàn bà bí ẩn, vừa làm chủ, vừa
uốn theo dòng chảy cuộc đời. Đó là người bình yên, khéo léo đan dệt muôn mặt
của cuộc đời để làm nên hạnh phúc. Đó là người đàn bà của những khát khao.
(Giữa chiều lạnh/ một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ….)
3.3.1.3. Những biểu tượng của tình yêu
Tình yêu trong thơ Ý Nhi có cái nét dịu dàng nữ tính, có s ự cam chịu, hy
sinh và lòng mang ơn. Đó là những cảm n hận tình yêu rất khác so với lớp nữ thi
sĩ trước và sau bà. Nói tình yêu của Ý Nhi cũ kĩ cũng không phải. Tình yêu của
Ý Nhi là thứ tình yêu được chưng cất và chín muộn ; đó là nước rượu cuối cùng :
ít, « hơi đục », ngòn ngọt, nhàn nhạt, cay cay, càng nhắm càng say. Nó không thể
có cái nóng bỏng, bổi hổi của tuổi hoa niên, nhưng nó đằm th ắm, sâu sắc và ở
mức độ nào đó (đối với người trong cuộc) nó rất thiêng liêng. Tình yêu đó được
thể hiện qua một số biểu tượng sau :
• Ban mai : là biểu tượng của tình yêu hồi sinh sau những
giận hờn, vụng dại. Ban mai của trời đất trong trẻo, thanh thoát. Ngày đã ban
mai là đã bắt đầu ngày mới với những niềm vui mới. Gạt bỏ lại những ưu phiền
để hòa nhập vào ban mai. Buổi ban mai tinh khôi làm lòng người nhẹ hẫng, mọi
buồn vương đã ngủ yên, lòng tràn tình yêu tươi mới (Đã nhiều lần/ thường là
vào các buổi sáng/ em tìm đến nơi anh; Thôi dừng buồn nữa anh/ ngày đã ban
mai ; Buổi ban mai mát trong ; buổi ban mai rực rỡ ; Trời se lạnh hoa mọc đầy
triền dốc/ những ô màu trôi đi trong ban mai…)
• Vườn : là nơi trú ngụ của tình yêu, là nơi tình yêu nghỉ ngơi
và được che chở, bảo vệ. Vườn là nơi hạnh phúc, yêu thương tìm về trú ngụ. Có
nhiều điều đã mất được tìm thấy ở khu vườn tình yêu này. Nhặt lại những gì đã
mất, chủ nhân nâng niu, gìn giữ và hồ hởi yêu thương. Vườn trong thơ Ý Nhi có
nét sang trọng, lại kiều diễm. Dường như đối với bà đây là chỗ trú ngụ yên lành
và thanh khiết nhất của tình yêu. Có khi đây chính là vườn địa đàng nơi tình yêu
vĩnh cửu được thăng hoa. (Ôi khu vườn- khoảnh khắc đời ta/ khi ta được bên
người yêu dấu ; Vườn I ; Vườn II…)
• Sự yên lặng : là b iểu tượng cho tình yêu không lời, tình yêu
bằng mắt, bằng tim. Ý Nhi yêu nhưng thường không nói ra lời. Tuyệt nhiên ta
thấy trong thơ bà không h ề có từ “yêu” . Đối với bà, tình yêu không cần nói.
Tình yêu chỉ cần những rung động từ mỗi con tim. Tình yêu là sự cảm nhận qua
ánh mắt, nụ cười, sự yêu thương, trân trọng, sự sẻ chia, chăm sóc nhau mỗi ngày.
Đây là cách biểu hiện âm thầm nhưng sâu sắc của tình yêu mang tên Ý Nhi (Giờ
tôi ở bên người, những điều ấy cần chi, người nghe cả trong lời tôi yên lặng ;
mà
tình yêu vẫn nói/ bao lời trong lắng yên ; Ta chẳng nói lời chi/ nghe trong im
vắng/tiếng âm thầm gạch lát dưới bàn chân; Ngày sững lặng/ hằng tiếng nói… )
• Giấc mơ : Là biểu tượng thầm kín của sự hòa nh ập hai tâm
hồn. Tình yêu không nói được thành lời trong lúc thức sẽ nói được trong giấc.
Giấc mơ còn là nơi Ý Nhi gửi gắm những ước mơ, những khát vọng, những
niềm tin, những hy vọng về một tình yêu tròn đầy, đúng nghĩa. Giấc mơ là nơi Ý
Nhi thổ lộ được nhiều nhất về tình yêu (Em chẳng kể cùng ai giấc mơ của mình/
bởi có ai mà hiểu thấu, ngoài anh/ người cùng hòa nhập với cuộc đời này bằng
một giấc mơ ; Ôi tự thuở nào, tự thuở nào/ em đã mơ thấy buổi chiều nay/ mơ
thấy anh về ; Giữa tuần trăng/ giữa giấc chiêm bao/ mắt hạnh phúc/ giữa chừng
ngấn lệ…)
3.3.2. Triết luận về đời sống qua các phạm trù đối lập
Một nét phong cách nữa của Ý Nhi là dùng những phạm trù đối lập để
triết luận về đời sống xã hội và đời sống con người. Nhờ những phạm trù đối lập
này mà đời sống được Ý Nhi thâu tóm khá trọn vẹn, nhiều bề, nhiều mặt và tính
triết lý được thể hiện sâu sắc hơn. Những phạm trù này cũng giúp thơ Ý Nhi
mang dấu ấn « dự cảm » rất lớn, tạo nên sự thỏa mãn cao trong lòng người đọc.
Thêm vào đó, hiện tượng cuộc sống hai chiều với những khúc quanh bất ngờ khó
đỡ được Ý Nhi nói bằng sự đối lập nên hạn chế rất nhiều sự dài dòng không c ần
thiết. Đó là sự « kiệm lời» tinh tế và hiệu quả của Ý Nhi. Ý Nhi đã làm được
điều mà Hồ Thế Hà từng nói : Nhà thơ "tiết kiệm ngôn từ tối đa đến chừng nào
đủ chấp nhận được, khi ấy, nghĩa hàm ngôn, nghĩa khái niệm sẽ hiện lên một
cách thâm thuý và đa dạng, tu ỳ vốn văn hoá nghệ thuật, tu ỳ trạng thái, thị
hiếu
của người tiếp nhận" [34;tr 24].
3.3.2.1. Cuộc đời với nh ững phức tạp, những nghịch lí và không dễ
dàng nắm bắt
Sống trong lòng cuộc sống mới với những lo âu bởi biến động khôn
lường, Ý Nhi cũng như hầu hết người dân nước ta sau chiến tranh đều vô cùng
bỡ ngỡ. Vị tướng của Nguyễn Huy Thiệp (Tướng về hưu) vững vàng trong
chiến đấu là thế mà sống trong đời thường lúc nào cũng bị chao đảo, rối ren. Ông
thấy mình xa lạ với cuộc sống thường ngày. Ông không h iểu được tại sao nó lại
như vậy mà không như ông đã sống. Ý Nhi trẻ hơn, chấp nhận cuộc sống dễ
dàng hơn. Bà còn háo hức bước vào cuộc sống mới với niềm tin và nghị lực nữa.
Vậy mà cũng thấy nhiều bất an, đôi lúc cũng sợ mình bị guồng quay cuộc đời xô
đẩy nên phải nhắc nhở con cũng là nhắc nh ở mình : “Cân bằng/ cân bằng/ h ãy
lưu tâm đến sự cân bằng” (Gửi con nhân ngày sinh nhật thứ 20)
Ý Nhi suy nghĩ về cuộc đời với nhiều nghịch lý tréo ngoe. Mình cứ ngỡ
nó sẽ như vậy nhưng nó thường chuyển biến theo hướng khác. Có khi chúng ta
tưởng mình đã đi qua buồn thương, nhưng thật sự buồn thương đang ở phía
trước, đôi khi ta bỏ rơi niềm hạnh phúc mà ta lại nghĩ đã thoát khỏi bất hạnh :
Lòng tưởng vừa đi qua
nỗi đau ghê gớm nhất
nào biết đâu buồn thương
còn chờ ta trước mặt
biết đâu niềm hạnh p h úc
từng có thật trong đời
chợt ngoảnh đầu nhìn lại
đã nên điều xa xôi.
(Thơ tặng cháu)
Ý Nhi phát hiện ra những nghích lý thường thấy giữa hai thế hệ (mẹ và
con). Bà trò chuyện để con cùng nhận ra và hiểu thấu :
Có thể giữa mẹ và con chẳng gì trùng l ặp
một nẻo đường khác biệt dưới chân con
những gì mẹ sướng vui, lo lắng, khổ buồn
khi con lớn đã thành lạ lẫm
(Trò chuyện)
Đó là nghịch lý nhưng là chuyện hiển nhiên. Nếu biết trước được chúng ta
có thể làm chủ nó, tránh nảy sinh những bất đồng không đáng có để mỗi ngày là
một niềm vui.
Ý Nhi luận về cuộc sống với những trò đùa khắc nghiệt thật hay :
Tôi biết có những trò đùa cay nghiệt
và những việc nghiêm trang lại là một trò đùa.
(Tiểu dẫn)
Điều đó ta thường xuyên thấy. Đôi khi chướng ta gai mắt nhưng cũng xuề
xòa cho qua vì nghĩ đó là chuyện người ta, chuyện xã hội chứ có phải chuyện
của riêng mình. Ý Nhi lên tiếng trong thơ và nó trở thành châm ngôn, triết lý v
ề
đời sống. Càng ngẫm càng thấy ghê người, khiến cười ra nước mắt.
Cuộc đời với những đảo điên, xoay trở. Ch ỉ những người có bản lĩnh mới
có thể vượt qua nh ững cám dỗ vật chất tầm thường, đi đến được vùng trời bình
yên và hạnh phúc.
3.3.2.2. Con người giữa cuộc đời là thực thể tồn tại với hai mặt đối lập
Con người trong cuộc đời là thực thể tồn tại với hai mặt đối lâp. Con
người luôn có tốt xấu, đúng sai, thiện ác… Đặt biệt trong suốt cuộc đời con
người có lúc thăng lúc trầm, lúc sương vui hạnh phục nhưng cũng có khi gặp
những thật bai, vấp ngã. Không ai tự tin nó i rằng tôi hoàn toàn hài lòng với
cuộc
sống của tôi, hay đời tôi ch ẳng khi nào buồn khổ. Ý Nhi hiểu rất rõ về điều này
luận giải về nó khá sắc sảo qua việc phát hiện những mặt đối lập trong đời sống
con người.
Ý Nhi phát hiện ra tính hai mặt của con người :
Có lẽ
người ấy mạnh mẽ và dịu dàng
sâu sắc và hồn nhiên
người ấy sống hết mình
mong muốn được yêu thương.
(218.97.13)
Cũng nhận ra đời sống con người là những cung bậc tình cảm hòa lẫn với
nhau :
Dưới bóng cây này
tôi đã hát
vì yêu thương, chờ đợi
Dưới bóng cây này
tôi đã khóc
vì lo âu, cay đắng.
(Alma Ata)
Hay :
Trên đôi mi khô bỏng
lại lăn chảy giọt nước mắt mặn ấm
Và cỏ mùa xuân lại mềm mại dường bao
dưới lòng chân chai sạn
Và niềm vui của tôi
nỗi phiền muộn của tôi
sự tràn đầy, sự thiếu vắng của đời tôi
chỉ còn lại trong cái tên duy nhất.
(Không đề)
Những bài thơ hay nhất của Ý Nhi là những bài thơ phát hiện ra những
điều trái ngược như vậy trong đời sống và thân phận con người. Ý Nhi hiểu rõ
mình và hiểu rõ đời nên rất thường soi chiếu một cách sâu sắc như thế. Dường
như bà rất ít khi khoan nhượng với lý trí. Khi đã khơi mở được nó rồi, bà thường
tận dụng bản năng khám phá trí tuệ tuyệt vời của mình để đào sâu cùng kiệt vào
nó nhằm thỏa mãn bản thân đồng thời kích thích suy tưởng người đọc . Chính
điều này làm nên sự sắc sảo trong thơ Ý Nhi mà không cần đến lời lẽ thơ ca cầu
kì, hoa mỹ.
Trong những cung bậc cảm xúc cũng như những khúc ngoặc đời của
mình, nếu phải lựa chọn, Ý Nhi sẵn sàng đem cho hoặc tr ao tặng những niềm
hạnh phúc, những nỗi vui mừng và giữ lại những lo âu, những bất trắc. Đó là sự
lựa chọn, là phong cách sống của Ý Nhi. Đối với bà, khi hạnh phúc đến ta vui
sướng đón nhận nhưng không bao giờ ngủ quên trong nó. Và khi bất hạnh đột
ngột ập đổ xuống thì bình tĩnh chấp nhận và vượt qua nó. Ý Nhi còn dùng cả
những buồn thương, vấp vấp để làm hành trang đi tiếp con đường đời cò n lại.
Đọc một bài thơ vui của Ý Nhi để thấy cách bà thanh thản chấp nhận và yêu
thương cuộc sống:
Thơ vui dưới hàng cây cơm nguội
Còn lại niềm mong mỏi cuối cùng
đem tặng hàng cây cơm nguội
phố dài, mây trắng, trời xa
đem gửi cho mùa lá mới.
Niềm vui cuối cùng đem tặng
vòm lá giữa ngày non tươi
ai về, ai qua lối ấy
thoáng gặp sau cây nụ cười.
Tôi xin giữ lại nỗi buồn
giữ lại ưu phiền cay đắng
một mai đường thưa bóng cây
đem buồn thương che mưa nắng.
Tiểu kết : Văn hào Nga Chekhov đã khẳng định “Nếu tác giả nào không
có lối nói riêng của mình thì người đó không bao giờ là nhà văn cả”. Ý Nhi đã là
nhà văn đúng nghĩa như thế. Bà không chỉ tạo cho mình những phong cách riêng
trong sáng tạo nghệ thuật mà còn có lối sống lối hành xử rất riêng và rất đáng
yêu. Trở lên chúng tôi đã cố gắng đọc những khoảng trống Ý Nhi còn bỏ ngỏ
trong mỗi văn bản, trong các văn bản khác nhau để h ình dung ra cách bà suy
nghĩ, chiêm nghiệm, triết lý về cuộc đời.
KẾT LUẬN
1. Ý Nhi là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ v à tiếp tục
khẳng định sự nghiệp của mình trong thời kì đổi mới và phát triển của dân tộc. Ý
Nhi vừa mang trong mình những cảm hứng nghệ thuật có tính truyền thống của
thơ kháng chiến, vừa mang những cảm hứng mới của đời sống hiện thực sau
chiến tranh với nhiều thay da đổi th ịt nhưng cũng nhiều đòi hỏi và thách thức
mới. Điều này khiến người nghệ sĩ (nói chung) phải tìm tòi, suy nghĩ để mở một
hướng đi mới cho việc sáng tạo nghệ thuật của bản thân cũng là của nền văn học
mới.
Ngay khi nghệ thuật lên tiếng đòi “cởi trói” thì Ý Nhi đã kịp hối thúc
mình đáp ứng được những đòi hỏi, thúc bách đó. Người đàn bà ngồi đan v ì thế
trở thành tiêu điểm của sự bủa vây (theo nhiều nghĩa) và nhanh chóng có một vị
trí đặc biệt trên thi đàn. Đó là thành quả có được nhờ việc không ngừng trăn trở
và suy nghĩ về đời sống xã hội cũng như đời sống văn học. Những suy tư, chiêm
nghiệm không lúc nào thiếu vắng trong ngày thường đó đã tạo ra những nét
phong cách đặc biệt, vô cùng sâu sắc của Ý Nhi.
Tuy nhiên con đường để hình thành, phát triển và khẳng định phong cách
của Ý Nhi không đơn giản, dễ dàng. Bà đã phải lao động nghệ thuật thật sự
nghiêm túc bên cạnh tài năng và bản lĩnh cá nhân.
2. Cho đến nay, giới nghiên cứu lý luận văn học vẫn chưa có một định
nghĩa thống nhất về phong cách ngh ệ thuật của nhà văn. Chỉ biết rằng phong
cách chỉ dùng cho những nhà văn từng trải cách viết đã định hình, đã khẳng định
trên văn đàn chứ không nói phong cách cho những nhà văn ít ai biết đến. Nhưng
chúng ta có thể hiểu phong cách là tính độc đáo thống nhất đa dạng của sự sáng
tạo nghệ thuật đã đến độ chín muồi của người nghệ sĩ. Phong cách gắn liền sáng
tạo của nhà văn. Với cách hiểu này, Ý Nhi thực sự là nhà thơ có phong cách.
3. Phong cách Ý Nhi được thể hiện trên hai phương diện : Thứ nhất là
phong cách ngôn ngữ, thể loại, kết cấu với những dấu ấn rất riêng trong việc sử
dụng các biểu hiện nghệ thuật để chuyển tải nội dung ; Th ứ hai là trên phương
diện suy nghĩ, cách nhìn về cái đẹp và đời s ống thông qua việc triết luận về
chúng. Ở phương diện này Ý Nhi cũng cho ta thấy tính độc đáo, sâu sắc trong
suy nghiệm của nhà thơ. Yếu tố triết luận vì vậy là một phần không thể thiếu
trong phong cách nghệ thuật thơ Ý Nhi.
4. Ý Nhi là một nữ thi sĩ trong nền thơ ca Việt nam hiện đại có phong
cách, lối sống và nhân cách đáng quý. Ý Nhi được bạn đọc nhiều thế hệ yêu
mến, được đồng nghiệp và đàn em tin tưởng, nể trọng. Ý Nhi dịu dàng và lịch
thiệp với mọi người nhưng với bản thân lại có phần khe khắt. Ý Nhi sống giản
di, lặng lẽ nhưng khi tiếp xúc với mọi người lại rất linh hoạt tự tin. Con người
Ý
Nhi có nét quyến rũ rất riêng, không nằm ở nhan sắc mà ở dung mạo, phong thái
con người. Thơ Ý Nhi cũng giống y như vậy. Nhìn bề ngoài thì có vẻ cứng, thô
tháp nhưng bên trong ngữ nghĩa lại mềm mại, nữ tính vô cùng ; bề ngoài thì có
vẻ chỉ là những bài thơ luận lý, tỉnh táo nhưng thật sự triết luận chỉ là một
phần
phát sinh từ gốc cảm xúc sâu sắc, dạt dào yêu thương, thấu hiểu và tôn trong
cuộc sống và con người. Con người Ý Nhi và thơ Ý Nhi là một. Chúng ta yêu
quý một nhà thơ và trân trọng một tài thơ.