Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại
2,423
890
91
80
hiện đại chung cả nước, cùng tiến đến hệ hình hậu hiện đại” [38; 23 - 24].
Những bài viết đầy suy tư và tinh thần phản biện của Đỗ Lai Thúy giúp
chúng ta hiểu thêm về lịch sử nghiên cứu phê bình ở Việt Nam và những ý
tưởng được đưa ra trong các công trình nghiên cứu của ông.
Trong xu thế chung nhìn lại và đánh giá những di sản của quá khứ vẫn
đang tác động mạnh mẽ đến đời sống nhân loại đương đại, các nhà nghiên
cứu khoa học xã hội cũng nhìn lại vị trí và vai trò của phân tâm học. Lí
Trạch Hậu (Trung Quốc) trong Bốn bài giảng mĩ học đã đề nghị xây dựng
một nền mĩ học lấy nhân loại bản thể luận làm căn bản. Ông viết: “Những
vấn đề mà Mác và Freud nêu ra đều cực kì quan trọng. Hai người đó
thực tế đã nêu ra hai vấn đề lớn của con người là cái ăn và tính dục. Sống,
con người làm sao để sống một cách hiện thực, thế là có các vấn đề như tồn
tại xã hội - phương thức sản xuất - đấu tranh giai cấp - lí tưởng cộng sản chủ
nghĩa. Tính dục gồm nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc hiện thực - bản
năng sống, bản năng chết” [12; tr.51]. Những ý tưởng này cũng tìm được
tiếng nói chia sẻ nhất định trong lịch sử. Năm 1986, Phạm Văn Sĩ cho rằng:
“Ở phương Tây, người ta nói nhiều đến sự liên quan giữa chủ nghĩa Mác
và phân tâm học. Một số học giả ở phương Tây nói rằng chủ nghĩa Mác và
phân tâm học đều là những lí thuyết có ích cho sự hiểu biết đời sống con
người, song cái sau thiếu cái xã hội còn cái trước thiếu cái cá nhân, vậy
cần kết hợp hai lí thuyết đó lại với nhau. Đó là vấn đề hết sức phức tạp” [26;
tr.174]. Trong công trình Freud đã thực sự nói gì?, D.S.Clark đã thừa nhận
rằng: “Đã qua rồi thời kì đấu tranh găy gắt giữa hai phe giáo điều, một bên
là giáo điều phân tâm học gồm những người cho rằng những phát kiến của
Freud là chân lí tuyệt đối, một bên cho là không những sai lầm mà còn phi lí
nữa phải gạt bỏ hoàn toàn” [4; tr.15] đồng thời cũng chỉ ra rằng việc Freud
“cho rằng tâm lí học là một lĩnh vực độc lập với những qui luật riêng” là
đúng song về sau, “gần như bản thân ông và nhiều đồ đệ trong lúc xây dựng
81
học thuyết không hề đặt quan hệ với sinh học. (…) Nhiều nhà phân tâm
học cho đây là điểm chủ yếu nhất của phân tâm học làm cho học thuyết
này giống một triết lí siêu hình hay thuộc về văn học hơn là khoa học. Đặc
biệt phân tâm học được số đông hưởng ứng, say mê tiếp nhận một cách mù
quáng chính là do tính không khoa học đó” [4; tr.17]. “Rõ ràng là nhiều
hành vi, mục tiêu, những nét tính tình thường do những yếu tố vô thức chi
phối, kể cả những cấm đoán mà mỗi người đặt ra cho mình. Nhưng không
thể xem đấy là toàn bộ tâm lí con người, và học thuyết Freud nếu đi quá
xa sẽ dẫn đến sùng bái tính phi lí. Lí trí luôn luôn vẫn giữ vai trò giúp cho
nhận thức thực tế và tác động đến hành vi” [4; tr.24]. Trên thực tế, “cả
Freud lẫn Jung đều công khai thừa nhận việc áp dụng lí thuyết của mình vào
nghiên cứu nghệ thuật còn có nhiều hạn chế” (Sự đỏng đảnh của phương
pháp, TLĐD, tr.215). C.G.Jung cho rằng: “Khuynh hướng của tâm lí học y
khoa do Freud khai mở đã đem lại cho các nhà lịch sử văn học nhiều căn cứ
mới để nêu ra những đặc trưng của sáng tác nghệ thuật mang tính cá nhân
gắn với cảm xúc riêng tư, thầm kín của nghệ sĩ. (…) Trong phạm vi này cái
gọi là phân tâm học tác phẩm nghệ thuật thực chất chưa khác gì lối phân
tích chẻ hoe mang tính văn học - tâm lí được thực hiện một cách sâu sắc
và khéo léo” [14; tr.221 - 222]. C.G.Jung cũng phê phán việc “phân tâm học
tác phẩm nghệ thuật bị lệch xa mục đích của mình và sự phân tích bị
chuyển sang lĩnh vực cái chung toàn nhân loại chẳng có gì riêng đối với
nghệ sĩ” và cho rằng “kiểu phân tích như thế không vươn tới được tác phẩm
nghệ thuật, nó vẫn nằm lại trong phạm vi tâm lí học nhân học, nơi từ đó
không riêng gì tác phẩm nghệ thuật mà nói chung bất luận cái gì cũng có thể
sinh ra được” [14; tr.222 - 223] và “các giấc mơ hoàn toàn không mang
trong mình chỉ những ham muốn bị dồn nén, tản mác được bao phủ bởi quá
trình thôi miên trong mơ. Kĩ thuật diễn dịch của Freud chịu ảnh hưởng
các giả thiết phiến diện, do đó là giả dối của ông, nên nó là võ đoán” [14;
82
tr.227]. Từ quan điểm duy vật biện chứng, chúng ta thừa nhận một chân lí là
“một dân tộc muốn phát triển một cách tự do hơn về mặt tinh thần, thì
không được dừng lại ở một trạng thái nô lệ cho những nhu cầu nhục thể của
mình, nô lệ cho thể xác của mình” [44; tr.132] và cá nhân từng nghệ sĩ cũng
như công việc của họ cũng không ở ngoài quy luật đó.
83
PHẦN KẾT LUẬN
Trong suốt một thế kỉ qua, việc du nhập và ứng dụng lí thuyết phân
tâm học trong nghiên cứu văn học nghệ thuật nói chung và nghiên cứu văn
học Việt Nam trung đại nói riêng đã trải qua một “con đường đau khổ”
nhưng không phải là không có những mùa quả ngọt trên hành trình bứng
trồng và vun xới cho việc di thực lí thuyết mới mẻ này vào mảnh đất Việt
Nam. Nhìn lại toàn bộ lịch sử của việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học
trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại, chúng ta thấy được sự khác
biệt của từng thời kì, phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - chính trị - văn hóa -
xã hội tác động vào cũng như sự chủ động trong tiếp nhận và ứng dụng lí
thuyết của mỗi nhà nghiên cứu.
Trong giai đoạn 1900 - 1945, cùng với quá trình hiện đại hóa của văn
học Việt Nam, nghiên cứu phê bình theo lối hiện đại xuất hiện và cùng với
nó là sự ra đời của các công trình ứng dụng lí thuyết phương Tây vào
nghiên cứu văn học Việt Nam, trong đó có việc ứng dụng lí thuyết phân tâm
học vào nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại. Các nhà nghiên cứu
Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu… với các công trình của mình đã bước đầu
đặt nền móng cho hướng nghiên cứu này trên một mảnh đất có khá nhiều
hứa hẹn. Do là những người thuộc lớp tiên phong và có những giới hạn
trong nhận thức và diện tiếp cận tư liệu nên những nghiên cứu này chưa
thoát khỏi lực hấp dẫn của đường mòn nguyên lí “dồn nén - ẩn ức - thăng
hoa” vốn không phải là tất cả những gì thuộc phân tâm học. Trong các công
trình Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương - 1936, Hồ Xuân Hương - Tác
phẩm, thân thế và văn tài - 1936, Kinh thi Việt Nam - 1940, Nguyễn Du
và Truyện Kiều - 1942, Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ - 1943, Văn
chương Truyện Kiều - 1945… các tác giả đã đưa ra những luận điểm có thể
còn đơn giản, xơ cứng, máy móc… hay chưa đủ sức thuyết phục và còn có
84
những ngộ nhận nhưng cũng giúp chúng ta có một hình dung khái quát về
việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam
giai đoạn này.
Trong giai đoạn 1945 - 1975, cùng với sự kiện cả dân tộc đứng lên
chống Pháp và chống Mĩ, việc chia cách hai miền Nam Bắc khiến đời sống
văn học nghệ thuật ở mỗi miền có những diện mạo riêng. Ở miền Bắc, sau
1945 dù về đại thể những “phương pháp duy tâm” bị lên án nhưng đó đây
vẫn có người sử dụng phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam
trung đại như Trương Tửu với Văn nghệ bình dân Việt Nam - 1951, Văn
Tân với Văn học trào phúng Việt Nam - 1958, Nguyễn Đức Bính với
Người Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Hương - 1962… Các công trình này trước
sau đều nhận được sự “quan tâm” xứng tầm của giới nghiên cứu và bị phê
phán gay gắt, trong đó có những phê phán khá đúng đắn. Điểm hạn chế là
dù phê phán như vậy nhưng các công trình khác vẫn khó vượt qua được
chính những điểm từng bị phê phán bởi hạn chế của tư liệu và cung cách
tiếp cận. Cùng thời gian này, các nghiên cứu về văn học Việt Nam trung đại
dưới góc nhìn phân tâm học ở miền Nam thu được nhiều thành tựu hơn với
Đinh Hùng trong Người thơ thuần túy Nguyễn Du trong Văn tế thập loại
chúng sinh - 1960, Đàm Quang Thiện trong Ý niệm bạc mệnh trong đời
Thúy Kiều - 1965, Thanh Lãng trong Đoạn trường tân thanh hay là cuộc
đời kì quái của Nguyễn Du như được chiếu hắt bóng lên tác phẩm của
ông - 1971… Việc mở rộng tầm tiếp cận lí thuyết phương Tây thông qua hệ
thống sách dịch tại miền Nam khi đó có vai trò rất lớn trong việc hướng các
nhà nghiên cứu tới các phương pháp tiên tiến và “cập nhật” đương thời và
chính điều này góp phần tạo ra sự khác biệt Nam - Bắc trong giai đoạn này,
tất nhiên không thể tránh khỏi một số khiếm khuyết hoặc hạn chế không thể
khắc phục được ngay trong một thời gian ngắn.
85
Sang giai đoạn từ 1975 đến nay, nước nhà được thống nhất, và nhất là từ
sau 1986, làn gió Đổi mới mang đến một hơi thở mới cho văn học nói chung
và việc nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại từ góc nhìn phân tâm học nói
riêng. Hướng nghiên cứu này chuyển mình từ những bài viết của Nguyễn Tuân
với Băm sáu cái nõn nường Xuân Hương - 1986, Lại Nguyên Ân với Tinh
thần Phục Hưng trong thơ Hồ Xuân Hương - 1991… để rồi đi tới một dấu
mốc quan trọng là Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực của Đỗ Lai Thúy
năm 1999. Các công trình này thực sự tạo được ấn tượng trong đời sống văn
học đương thời đặc biệt là công trình của Đỗ Lai Thúy. Riêng trường hợp Đỗ
Lai Thúy, là một nhà nghiên cứu xác định mình “vượt qua được sức cám dỗ
của đường mòn dồn nén - ẩn ức - thăng hoa”, ông đã “ít nhiều” ứng dụng lí
thuyết phân tâm học của C.G.Jung về vô thức tập thể và cổ mẫu để lí giải Hồ
Xuân Hương… đồng thời ông cũng thường xuyên “nghiên cứu việc nghiên
cứu” giúp người đọc thêm hiểu bối cảnh nghiên cứu phê bình và cũng hiểu hơn
những ý tưởng trong các công trình nghiên cứu của ông.
Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học
Việt Nam trung đại chúng ta dễ dàng nhìn ra những ưu nhược của một quá
trình nhận thức trong đó có những vấn đề là điểm chung của cả mấy chặng
đường. Việc các nhà nghiên cứu - không nhiều, tập trung trong một số gương
mặt quen thuộc như Trương Tửu, Đỗ Lai Thúy… - cũng như việc các nhà
nghiên cứu thường chỉ tập trung vào văn học Việt Nam thế kỉ XVIII - nửa
trước thế kỉ XIX với các tác gia quen thuộc như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du,
Nguyễn Công Trứ… hay việc mãi đến cuối thế kỉ XX hướng nghiên cứu theo
phân tâm học của C.G.Jung mới được tiến hành một cách có hệ thống… khiến
chúng ta không khỏi băn khoăn về diện áp dụng, người có khả năng - hứng thú
áp dụng và hướng tiếp cận theo nhánh nào của phân tâm học… trong tương lai.
Vấn đề này đáng để chúng ta suy ngẫm và tìm tòi trong một thời gian dài, ở
một khuôn khổ rộng lớn hơn. Con đường nhận thức không có điểm dừng tuyệt
đối và sự kết thúc đôi khi chỉ là để bắt đầu.
86
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Hoài Anh (2008), Lí luận phê bình văn học ở đô thị Miền
Nam 1954 - 1975 (Luận án Tiến sĩ), Viện Văn học - Viện Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (1991), Tinh thần Phục Hưng trong thơ Hồ Xuân
Hương, TC Nghiên cứu văn học, Số 3, Hà Nội. In lại trong: Hồ Xuân
Hương - Về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn
và giới thiệu (2003), NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.354 - 362.
3. Nguyễn Đức Bính (1962), Người Cổ Nguyệt, Chuyện Xuân Hương,
TC Văn nghệ, Số 10, Hà Nội. In lại trong: Hồ Xuân Hương - Về tác gia và
tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu (2003),
NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.301 - 315.
4. D.S.Clark (1998), Freud đã thực sự nói gì?, Lê Văn Luyện - Huyền
Giang dịch, NXB Thế giới, Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu văn học,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
6. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Tập II, NXB
Văn học, Hà Nội.
7. Trần Trọng Đăng Đàn (1990), Văn hóa văn nghệ phục vụ chủ
nghĩa thực dân mới Mĩ tại Nam Việt Nam 1954 - 1975, NXB Văn hóa
Thông tin - NXB Long An, Hà Nội.
8. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
9. S.Freud (1999), Về văn học nghệ thuật, TC Văn học nước ngoài, Số
2, Hà Nội, tr.168 - 180.
10. Nguyễn Văn Hanh (1936), Hồ Xuân Hương - tác phẩm, thân thế
và văn tài, NXB J.Aspar, Sài Gòn. In lại trong: Hồ Xuân Hương - Về tác
87
gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu
(2003), NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.61 - 68.
11. Nguyễn Hào Hải (2001), Người đàn ông có nhiều ảnh hưởng đến
văn chương: Sigmund Freud, TC Văn học nước ngoài, Số 5, Hà Nội,
tr.190 - 218.
12. Lí Trạch Hậu (2002), Bốn bài giảng mĩ học, Trần Đình Sử - Lê
Tẩm dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
13. Đào Duy Hiệp (2006), Phê bình văn học phương Tây ở Việt Nam:
Tiếp nhận và ứng dụng, In trong: Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 100 năm nghiên cứu và đào tạo các
ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội, tr.288 - 302.
14. C.G.Jung (2004), Về quan hệ của tâm lí học phân tích đối với
sáng tác văn học nghệ thuật, Ngân Xuyên dịch, In trong: Đỗ Lại Thúy
(biên soạn và giới thiệu), Sự đỏng đảnh của phương pháp, NXB Văn hóa
thông tin - TC Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr.217 - 246.
15. Nguyên Sa Trần Bích Lan (1960), Hồ Xuân Hương - Người lạ
mặt, Nam Sơn, Sài Gòn. In lại trong: Hồ Xuân Hương - Về tác gia và tác
phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu (2003), NXB
Giáo dục, Hà Nội, tr.297 - 300.
16. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Quyển
thượng, Trình bày, Sài Gòn. In lại trong: Hồ Xuân Hương - Về tác gia và
tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu (2003),
NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.136 - 140.
17. Thanh Lãng (1971), Đoạn trường tân thanh hay là cuộc đời kì
quái của Nguyễn Du như được chiếu hắt bóng lên tác phẩm của ông,
Nghiên cứu Văn học, Số 8, Sài Gòn, tr.59.
88
18. Đặng Thanh Lê - Nguyễn Đức Dũng (1963), Góp thêm một tiếng
nói mới trong việc nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương, TC Nghiên cứu văn
học, Số 3, Hà Nội.
19. Trần Thanh Mại (1961), Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ
Hồ Xuân Hương, TC Nghiên cứu văn học, Số 4. In trong: Hồ Xuân
Hương - Về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn
và giới thiệu (2003), NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.316 - 329.
20. Hoàng Bích Ngọc (2004), Hồ Xuân Hương - Một cách nhìn, TC
Văn hóa Nghệ thuật, Số 3, Hà Nội, tr.78 - 80.
21. Phạm Thế Ngũ (1963), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên,
Quốc học tùng thư, Sài Gòn. In trong: Hồ Xuân Hương - Về tác gia và tác
phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu (2003), NXB
Giáo dục, Hà Nội, tr.111 - 123.
22. Nhiều tác giả (1960), Chân dung Nguyễn Du, NXB Nam Sơn, Sài
Gòn.
23. Vũ Đình Phòng - Lê Huy Hòa (1999), Những luận thuyết nổi
tiếng thế giới, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
24. Vũ Đức Phúc (1963), Ông Nguyễn Đức Bính và thơ Hồ Xuân
Hương, TC Nghiên cứu văn học, Số 6, Hà Nội.
25. Nguyễn Hưng Quốc (2007), Mấy vấn đề phê bình và lí thuyết văn
học, Văn Mới, USA.
26. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học hiện đại phương
Tây, NXB Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội.
27. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
28. Văn Tân (1958), Văn học trào phúng Việt Nam, Quyển thượng,
NXB Văn - Sử - Địa, Hà Nội.
89
29. Nguyễn Sĩ Tế (1956), Hồ Xuân Hương, NXB Người Việt tự do,
Sài Gòn. In trong: Hồ Xuân Hương - Về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu
Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.85 -
110.
30. Trịnh Vân Thanh (1966), Thành ngữ - điển tích - danh nhân từ
điển, Quyển 1, Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn.
31. Trần Nho Thìn (2006), Các phương pháp nghiên cứu văn học
Việt nam trong thế kỉ XX: Nhìn lại và suy nghĩ, In trong: Đại học Quốc gia
Hà Nội - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 100 năm nghiên
cứu và đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, tr.142 - 152.
32. Trần Nho Thìn (chủ biên) (2007), Truyện Kiều - Khảo, Chú, Bình,
NXB Giáo dục, Hà Nội.
33. Đàm Quang Thiện (1965), Ý niệm bạc mệnh trong đời Thúy Kiều,
Nam Chi tùng thư, Sài Gòn.
34. Đỗ Lai Thúy (1999), Phân tâm học và phê bình văn học, TC Văn
học nước ngoài, Số 2, Hà Nội, tr.160 -167.
35. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực,
NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội. In lại trong: Hồ Xuân Hương - Về tác
gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu,
NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.268 - 292.
36. Đỗ Lai Thúy (2004), Đi tìm thực chất thơ Hồ Xuân Hương, TC
Văn hóa Nghệ thuật, Số 3, Hà Nội, tr.81 - 86.
37. Đỗ Lai Thúy (2004), Phân tâm học và phê bình văn học ở Việt
Nam, TC Văn học nước ngoài, Số 3, Hà Nội, tr.226 - 235.
38. Đỗ Lai Thúy (2011), Phê bình văn học Việt Nam và vấn đề tiếp
nhận lí thuyết nước ngoài, TC Văn hóa Nghệ An, Số 198, Nghệ An, tr.18 -
24.
90
39. Nguyễn Hữu Tiến (1917), Giai nhân di mặc: Sự tích và thơ từ Hồ
Xuân Hương, Imprimerie Tonkinoise (Đông Kinh ấn quán), Hà Nội.
40. Hoàng Trinh (1969), Phương Tây: Văn học và con người, Tập I,
NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Trung, Bùi Hữu Sủng (1973), Phê bình cũ - Phê bình
mới, TC Bách Khoa, Số 381 - 382, In trong: Trường Chính trị - Bộ Văn hóa,
Tư liệu chuyên đề: Chủ nghĩa cấu trúc (Gồm một số bài sưu tầm từ các tư
liệu dịch và những bài đăng trên báo chí miền Nam), Lưu hành nội bộ, Hà
Nội, tr.153 - 163.
42. Nguyễn Tuân (1986), Băm sáu cái nõn nường Xuân Hương,
Tuyển tập Nguyễn Tuân - Tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1994. In lại trong:
Hồ Xuân Hương - Về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Hữu Sơn - Vũ Thanh
tuyển chọn và giới thiệu, NXB Giáo dục, Hà Nội, tr.352 - 353.
43. Hoàng Ngọc Tuấn (2002), Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua
thực tiễn sáng tác và góc nhìn lí thuyết, Văn Nghệ, USA.
44. Trương Tửu (2007), Tuyển tập Nghiên cứu Phê bình, Nguyễn
Hữu Sơn - Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm và biên soạn, NXB Lao động, Hà Nội.
45. Ủy ban Khoa học Xã hội - Viện Triết học (1977), Chủ nghĩa Mác -
Lênin: Cơ sở phương pháp luận của Tâm lí học, Lưu hành nội bộ, Hà Nội.