Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại
2,465
890
91
70
vô thức tập thể. Chính ở đây, tôi phải nhờ đến phân tâm học của Jung” [37;
tr.230] nhân đó ông giới thiệu luôn công việc “mang Freud đi trồng trên một
mảnh đất khác: Thơ Hoàng Cầm với tập Về Kinh Bắc” [37; tr.232] của
mình. Đồng thời ông cũng khẳng định: “Như vậy, kể từ năm 1936, khi học
thuyết Frued đến Việt Nam và để lại dấu ấn ở phê bình văn học đến nay là
cả một hành trình đau khổ. (…) Nhưng một điều tuy hơi mèm cũ mà tôi,
kẻ viết những dòng tự nghiệm này có thể rút ra được cho phân tâm học và
không chỉ phân tâm học là, nhận thức là một quá trình, nhất là với các
học thuyết được bứng trồng vào những miền thổ nhưỡng lạ. Nhưng rồi sự
xen canh gối vụ giữa tìm hiểu, giới thiệu lí thuyết và thực hành áp dụng đã
đưa phê bình phân tâm học từ sống sít đến thuần thục, từ cứng nhắc đến
sáng tạo. (…) Mỗi phương pháp phê bình đều có sở trường và sở đoản.
Chính chỗ thiếu sót của nó là điều kiện, là tiền đề cho các phương pháp
khác ra đời và tồn tại. Vậy là không thể có một chiếc chìa khóa vạn năng”
[37; tr.235]. Những ai đã từng đọc các công trình nghiên cứu của Đỗ Lai
Thúy sẽ thấy ông nhắc đến ý tưởng tâm đắc này không dưới một lần. Ông
cũng chú ý và nhìn ra việc “câu hỏi đầu tiên mà khoa học văn học đặt ra là
tác giả là ai và mối quan hệ giữa tác giả và tác phẩm là như thế nào, và đặt
trọng tâm nghiên cứu vào tác giả” (Sự đỏng đảnh của phương pháp,
TLĐD, tr.14) và “những nhược điểm của phương pháp tiểu sử học khiến
nó tồn tại như một phương pháp chứ không thể thành một trường phái. Tuy
nhiên, từ những nhược điểm này sẽ xuất hiện, với tư cách là sự đối lập, điều
chỉnh và bổ sung cho nó, trường phái văn hóa lịch sử, cách tiếp cận tâm lí
học, đặc biệt là phân tâm học của Freud (…)” (Sự đỏng đảnh của
phương pháp, TLĐD, tr.27 - 28).
Cũng trong năm 2004, trong công trình Phương pháp luận nghiên
cứu văn học, Nguyễn Văn Dân đặt lại một loạt vấn đề với các phương pháp
nghiên cứu văn học trong đó có phương pháp tâm lí học mà một nhánh của
71
nó là phương pháp tâm phân học (theo cách gọi - dịch của ông). Theo
Nguyễn Văn Dân, “mặc dù có một số luận điểm độc đáo, nhưng lí thuyết
của Freud không thể tránh khỏi nhiều nghi vấn. Nghi vấn thứ nhất là nghi
vấn về cái quan niệm coi mơ mộng và sáng tác nghệ thuật là giống nhau, coi
sự tham gia của ý thức vào trong quá trình sáng tác là không cốt yếu bên
cạnh vai trò cốt yếu của cái vô thức. Điều này chỉ có thể được coi là không
chính xác. Nghi vấn thứ hai là phương pháp tâm phân học kiểu Freud có
phải là một phương pháp toàn diện hay không hay chỉ là mang tính cục bộ,
phụ trợ? (…) Nó có thể có đóng góp quan trọng cho việc tìm hiểu cái thông
điệp của một số tác phẩm nhưng phải xuất phát từ tiểu sử của người nghệ sĩ
chứ không phải là nhằm vào việc tìm hiểu tiểu sử tác phẩm, với điều kiện là
nó phải được tách ra khỏi tâm phân học chữa bệnh và phải được đưa vào
một phạm vi quan niệm mĩ học xác định. Đặc biệt nó phải từ bỏ quan
điểm tuyệt đối hóa bản năng tính dục, mà phải chú ý đến tính lịch sử - xã
hội của đối tượng nghiên cứu” [5; tr.151 - 152]. Nguyễn Văn Dân cũng cho
rằng sử dụng tâm phân học theo lối của Jung “vì tuyệt đối hóa vai trò của
các “cổ mẫu” văn hóa vĩnh hằng mà không chú ý đến tính lịch sử - xã hội
của đối tượng nghiên cứu, phê bình huyền thoại học đã không thể tiếp cận
được toàn vẹn chân lí nghệ thuật, thậm chí đôi khi nó còn đi đến chỗ thần
bí hóa văn học một cách hoang đường” [5; tr.155]. Nhìn lại lịch sử tiếp
nhận và ứng dụng phương pháp tâm phân học - trực tiếp hay gián tiếp -
trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Hanh, Trương Tửu, Văn Tân, Nguyễn
Lộc…, tác giả Phương pháp luận nghiên cứu văn học cho rằng: “Nếu
tuyệt đối hóa cái quan niệm “thiếu cái gì thì thể hiện cái đó” thì cũng chưa
hẳn đã là một cách làm có cơ sở khoa học chắc chắn. (…) Tóm lại, xét
trên cả hai giai đoạn, nếu loại bỏ quan điểm tuyệt đối hóa sự chi phối của
cái vô thức và của tính dục, thì phương pháp tâm phân học cũng có những
đóng góp nhất định cho việc tìm hiểu sự phát triển của văn học trong mối
72
quan hệ với xã hội và tâm lí thời đại” [5; tr.155 - 156 - 157]. Ở đây, giống
với Trần Đình Sử đem “kết nối” phương pháp phân tâm học với thi pháp
học, Nguyễn Văn Dân đem “liên kết” phương pháp phân tâm học với
phương pháp văn hóa học. Ông viết: “Ở Việt Nam, phương pháp văn hóa
học trong lĩnh vực nghiên cứu văn học hiện đại cũng có mầm mống của nó
gần như từ thời điểm cùng thời với Bakhtin. Cụ thể, trong công trình nghiên
cứu Kinh thi Việt Nam (Hàn Thuyên, Hà Nội, 1945), ông Trương Tửu
(Nguyễn Bách Khoa) đã viết như sau: “Cái óc Việt Nam lúc nào cũng có cái
hình “tục tĩu” kia ám ảnh. Đến nỗi hình ấy đã thành cái khuôn, bao nhiêu
ngoại vật phải chiếu qua nó, rồi mới vào được trong đầu. Có thể nói người
Việt Nam trông sự vật, tả sự vật bằng cái “giống”. (…) Nhiều người cho
đây là quan điểm tâm phân học Freud, bởi vì họ căn cứ vào một câu hỏi
nghi vấn do chính Trương Tửu đặt ra ở đoạn văn trước: “Không biết cái tính
hiếu dâm của dân chúng Việt Nam có cùng xu hướng với chủ nghĩa Freud
không”. Thế nhưng ông đã nói ngay: “ Có lẽ đó là di tích của một tôn giáo
tự nhiên đã mất, lấy việc thờ phụng sự sinh đẻ làm nghi lễ”. Như vậy có
nghĩa là Trương Tửu đã ngả theo xu hướng lấy văn hóa để cắt nghĩa văn
học, mặc dù trước đó (1936) ông đã dùng Freud để lí giải thơ Hồ Xuân
Hương. Tất nhiên ở Trương Tửu không thể có sự ảnh hưởng của Bakhtin, vì
cuốn sách của Bakhtin phải đến năm 1956 mới được xuất bản. Đây có thể là
sự tiếp tu thành tựu của các lí thuyết nhân học - xã hội học phương Tây mà
Trương Tửu rất quan tâm. Ở đây, quan niệm về “tôn giáo thờ sự sinh đẻ”
của Trương Tửu cũng có thể được coi là tương đương với quan niệm về
“tín ngưỡng phồn thực” của Đỗ Lai Thúy sau này” [5; tr.235 - 236]. Khi
“nhân tiện” bàn đến một chuyện tưởng như “ngoài lề” (hẳn nhiên là ám chỉ
những nhà phê bình kiểu Nguyễn Đức Bính), Nguyễn Văn Dân đủ bình tĩnh
để không nói tên người mà mình hướng tới để đối thoại nhưng vẫn khá “bức
xúc” và gần như “lạc đề” mất mấy trang sách mà ở đây không tiện dẫn ra
73
toàn bộ: “(…) Chúng ta vẫn thường được nghe một câu nói đã trở thành
khuôn sáo: “Ngắm một bức tranh phụ nữ khỏa thân, những tâm hồn lành
mạnh không hề thấy có ý nghĩ và cảm xúc nhục dục!” Ví dụ khi biện hộ cho
thơ Hồ Xuân Hương, có người đã liên hệ thơ của nữ sĩ với bức tranh Nữ
thần Vệ Nữ ngủ của nhà danh họa người Italita Giorgione mà nói rằng:
“Ngắm thân hình người đàn bà, người ta chỉ có cảm giác mát lạnh của cái
đẹp thấm vào người như cốc nước đá uống trong lúc nóng nực, mà không
chút cảm thấy một ý nghĩ nhỏ về sắc dục”. Liệu những câu nói như thế có
gượng ép không? Liệu có phải là một sự che giấu và lảng tránh sự thật?
(…) Phải chăng đây là một thái độ cố kìm nén cảm xúc để tỏ ra là mình am
hiểu ý nghĩa ẩn giấu đằng sau hình ảnh người phụ nữ khỏa thân trong một
bức tranh nghệ thuật? (…) Tôi cho rằng nghĩ đến nhục dục là điều hoàn
toàn tự nhiên và lành mạnh. (…) Và tạo hóa cũng đã ban cho con người
khoái cảm tình dục từ trước khi ban cho nó một ý thức về việc duy trì nòi
giống (tức ý thức “phồn thực”). (…) Chính tác giả của lời biện hộ trên kia
cũng đã tự mâu thuẫn với chính mình khi nói rằng: Thơ của Hồ Xuân
Hương làm ta liên tưởng đến cuộc làm tình của đôi trai gái thời nguyên thủy
“trong cái say sưa của hai xác thịt” mà lại bảo là “không chút cảm thấy một
ý nghĩ nhỏ về sắc dục” thì thật là “giấu đầu hở đuôi”!) (…). Song, sự việc sẽ
trở nên đơn giản nếu chúng ta có được một cơ sở thực tiễn nghệ thuật và
một cơ sở lí luận mĩ học vững vàng cho vấn đề này. Chúng ta hãy đặt một
câu hỏi: Cái gì thôi thúc con người thể hiện cái đẹp tình dục thành các hình
tượng văn hóa - nghệ thuật? Câu trả lời có thể là: Đó chính là nhu cầu tôn
thờ cái đẹp, coi mọi cái đẹp, trong đó có cái đẹp nhục dục, đều là những sản
phẩm tuyệt diệu và đáng trân trọng của tạo hóa” [5; tr.242 - 245]. Để khép
lại những bàn luận về phương pháp văn hóa học, Nguyễn Văn Dân cũng
khuyến cáo rằng: “Có thể nói, do “sắc mầu lộng lẫy” của nó, phương pháp
văn hóa học đang có sức hấp dẫn rất lớn đối với các nhà nghiên cứu. Những
74
công trình nghiên cứu văn học theo góc độ văn hóa học như thế nhiều khi
chính là những công trình khảo cứu văn hóa, là một dịp để chúng ta tìm hiểu
diện mạo đa dạng và phong phú của văn hóa. Trong tinh thần đó, có một số
công trình có nguy cơ mang tính chất của văn hóa học nhiều hơn là của
nghiên cứu văn học. Cho nên chúng tôi muốn khuyến cáo một điều là, khi
nghiên cứu văn học bằng phương pháp văn hóa học, nếu chúng ta biết sử
dụng hợp lí liều lượng văn hóa và kết hợp nó với các phương pháp khác
nữa để đôi khi phải tìm ra cả những yếu tố đứng đằng sau văn hóa, thì
phương pháp văn hóa học cũng sẽ có đóng góp đáng kể cho nghiên cứu văn
học” [5; tr.252 - 253] và khuyến cáo này có lẽ muốn nhằm tới những người
như Đỗ Lai Thúy khi Nguyễn Văn Dân cho rằng công trình Hồ Xuân
Hương - Hoài niệm phồn thực “là một công trình khảo cứu khá công phu,
nhưng tác giả thiên về kiểu nghiên cứu văn hóa học nhiều hơn là nghiên
cứu văn học” [5; tr.235 - 236].
Có thể nói việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn
học nói chung và văn học Việt Nam trung đại nói riêng có một vị trí khá
quan trọng trong lịch sử nghiên cứu phê bình ở Việt Nam nên năm 2006,
trong Kỉ yếu hội thảo 100 năm nghiên cứu và đào tạo các ngành khoa học
xã hội và nhân văn ở Việt Nam diễn ra tại Trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội), sau khi dẫn ra các ý tưởng
chính của Trương Tửu, Đào Duy Hiệp đã cho rằng: “Dấu vết của phê bình
văn học phương Tây có chứng lí và được viện dẫn cụ thể, tuy không nhiều,
nhưng vẫn cho thấy một cách làm khoa học của nhà nghiên cứu này” [13;
tr.294] còn Trần Nho Thìn thì khẳng định: “Những nhu cầu đổi mới
nghiên cứu văn học ở nước ta từng bước được một số nhà nghiên cứu quan
tâm rải rác trong các thời kì khác nhau, có trường hợp chưa xuất phát từ ý
thức lí thuyết một cách rõ rệt mà chỉ như là sự phản ứng lại cách thức
nghiên cứu xã hội học dung tục. Những ý tưởng đổi mới quá sớm đã bị
75
chính nhiều nhà nghiên cứu theo quan điểm xã hội học phản ứng gay gắt.
Chẳng hạn năm 1962, khi mà Nguyễn Đức Bính viết về Hồ Xuân Hương,
tuyên bố sáng tác tức là giải thoát, ông vô tình hay hữu ý đã lặp lại tư
tưởng của Freud và bị không ít người cùng thời công kích. Song, những ý
tưởng của ông, và trước nữa của Trương Tửu đã dần định hình để đến năm
1999, Đỗ Lai Thúy có thể xuất bản công trình Hồ Xuân Hương - Hoài
niệm phồn thực trong đó tác giả đứng trên quan điểm nhân học văn hóa
để đọc Hồ Xuân Hương rất có hiệu quả. Nếu theo dõi, chẳng hạn, thái độ
đối với học thuyết phân tâm học của Freud ở nước ta trước 1975 và sau
1975, sẽ thấy có những thay đổi quan trọng. Từ chỗ công kích đến chỗ đặt
vấn đề để tìm hiểu nghiêm túc phân tâm học, giới nghiên cứu nước ta quả là
đã nhận thức được sự cần thiết phải xem xét lại hành trang nghiên cứu của
mình” [31; tr.147]. Không lâu sau, trong Truyện Kiều - Khảo - Chú - Bình
(NXB Giáo dục, Hà Nội, 2007), trong khi nhìn lại hành trình của Truyện
Kiều từ thế kỉ XIX đến thế kỉ XXI, Trần Nho Thìn đã cho rằng: “Trong
những năm 40 của thế kỉ XX, nhiều lí thuyết phê bình văn học thịnh hành ở
phương Tây cũng dội đến Việt Nam. Có lẽ người tích cực nhất trong việc
vận dụng các lí thuyết mới đó vào nghiên cứu Truyện Kiều là Nguyễn Bách
Khoa. Tiếp theo Nguyễn Văn Hanh dùng phân tâm học để đọc thơ Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Bách Khoa đã áp dụng phân tâm học để đọc tâm lí nhân vật
Truyện Kiều. (…) Theo Nguyễn Bách Khoa, ý thức đạo đức Nho giáo đã
lái Nguyễn Du đến chỗ hành xử không hợp quy luật tâm lí khi miêu tả đời
sống nội tâm của Kiều. (…) Vận dụng phân tâm học để nghiên cứu văn học
có thể bổ sung cho các hướng tiếp cận khác đối với văn bản. Nguyễn
Bách Khoa lại là một trong số ít người đi tiên phong ở nước ta dùng thao tác
của phân tâm học đọc văn học nên cần ghi nhận công lao của ông về mặt
này. Nhưng cách đọc của Nguyễn Bách Khoa rõ ràng là sự hiện đại hóa
văn học trung đại, cách đọc này giả định rằng một thiếu nữ ở thế kỉ XVIII
76
giống hệt như người thiếu nữ ở thế kỉ XX về phương diện văn hóa, tâm lí
mà quên mất rằng môi trường văn hóa của xã hội Nho giáo nam quyền đã
tạo áp lực mạnh mẽ đến cách nghĩ và cách hành xử của người xưa đến nỗi
cách nghĩ, cách hành xử ấy đã từng là một sự thật” [32; tr.27 - 28]. Nhìn lại
việc nghiên cứu Truyện Kiều ở miền Nam giai đoạn 1954 - 1975, Trần Nho
Thìn nhận thấy “những triết thuyết đương thời ở phương Tây, chẳng hạn
phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, đã được vận dụng để phân tích Truyện
Kiều” theo hướng “tập trung khảo sát văn bản tác phẩm và ít quan tâm đến
việc đối chiếu với hiện thực được phản ánh” [32; tr.32]. Từ góc nhìn khác,
để lí giải sức hấp dẫn của Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương, Nguyễn Hưng
Quốc cho rằng: “Ở Tây phương, bắt đầu từ văn minh Hi Lạp thời cổ đại, cái
đẹp đã gắn liền với thân xác, ở Đông phương, đặc biệt ở Trung Hoa và
những dân tộc chịu ảnh hưởng của Trung Hoa, cái đẹp nằm ở đâu đó, trong
thiên nhiên, rất xa thân thể con người. (…) Tuy nhiên, đừng quên: ngày nay
cả Nguyễn Du lẫn Hồ Xuân Hương đều được thán phục và khen ngợi nhiều
nhất ở những điểm họ từng bị những người đương thời lên án một cách dữ
dội nhất” [25; tr.219].
Trong năm 2007, giữa cảm hứng thời đại muốn tổng kết lại những
thành tựu của thế kỉ XX, nhiều tổng tập, tuyển tập được hoàn thành trong
đó có Tuyển tập Nghiên cứu Phê bình của Trương Tửu do Trịnh Bá Đĩnh
và Nguyễn Hữu Sơn thực hiện. Trong phần đầu của tập sách, hai soạn giả
đã cho rằng “Trương Tửu đọc rất nhiều các nhà khoa học phương Tây và
thử nghiệm nhiều lí thuyết khoa học trong việc phê bình. Đôi lúc số lượng
các trích dẫn “kinh điển” có vẻ như quá mức. Trong số lí thuyết đó thì ba
lí thuyết sau đây để lại dấu ấn đậm nét hơn cả trong các công trình tiêu
biểu của ông: Thuyết chủng tộc - địa lí của Taine, thuyết tâm phân học
Freud và học thuyết của Marx về phân chia giai cấp và văn học phản ánh xã
hội. (…) Tất nhiên cái khởi đầu bao giờ cũng dễ rơi vào sự đơn giản, máy
77
móc, cực đoan, những thiếu sót, sai lầm, bất cập lắm khi lớn hơn sự đầy đủ,
đúng đắn và sự khả thủ gấp nhiều lần. Đôi lúc ý nghĩa duy nhất của nó
chỉ là ở sự mở đường. Phê bình của Trương Tửu cũng không ra ngoài
thông lệ ấy” [44; tr.10]. Trịnh Bá Đĩnh và Nguyễn Hữu Sơn cho rằng hạn
chế của Trương Tửu là “các nhà thần kinh bệnh học đưa ra kết luận về một
con “con bệnh” nào đó, bao giờ cũng dựa trên kết quả của một chu trình
thực nghiệm lâm sàng, còn ở đây Trương Tửu lại căn cứ vào văn thơ để
chuẩn đoán “bệnh” cho Nguyễn Du thì đúng là ông đã võ đoán và không
khoa học” [44; tr.11]. Có một điều khá oái oăm là có công trình của
Trương Tửu “bị phê phán rất nhiều (trong đó có những phê phán đúng
đắn), nhất là những năm 60 và 70 của thế kỉ XX, song (…) những công
trình phê bình nghiên cứu Truyện Kiều vào những năm này lại có vẻ “kế
thừa” nó nhiều hơn cả, từ cách nhìn đến các luận điểm. Nếu ai làm một sự
so sánh sẽ thấy được ngay. Tại sao lại như vậy? Lí do cũng không khó giải
thích: Vào những năm này người ta cũng chẳng có nhiều hơn bao nhiêu
những quan niệm văn học mà Trương Tửu đã đề cao trong Nguyễn Du và
Truyện Kiều như văn học cần có ích, con người là sản phẩm của hoàn cảnh,
văn học phản ánh xã hội, thời đại. Tuy nhiên đến thời gian này đặc thù của
sự phản ánh nghệ thuật của các thể loại đã được chú ý nhiều hơn” [44; tr.11
- 12] và trong các công trình của Trương Tửu đã xuất hiện “các “mảnh vỡ”
của lí thuyết cấu trúc, kí hiệu học và tiếp nhận nghệ thuật (…). Trương Tửu
đã có công trong việc chuyển từng đốm lửa phê bình phương Tây khoa học
và hiện đại, góp phần làm mới nền phê bình văn chương giai đoạn trước
Cách mạng Tháng Tám” [44; tr.13 - 15]. Sau này, có học trò đã hỏi Trương
Tửu rằng: “Trong các sách thầy viết ra, thầy thích nhất cuốn gì?”, ông trả
lời luôn là: Kinh Thi Việt Nam, Văn nghệ bình dân Việt Nam, Tâm lí và
tư tưởng Nguyễn Công Trứ mà không kể về ba ông trình nghiên cứu
Truyện Kiều (mà học trò của ông phỏng đoán là bởi ba công trình này vẫn
78
còn gây tranh cãi) và do những thăng trầm của cuộc sống nên Trương Tửu
“vẫn mãi là nhà phê bình tiêu biểu trước Cách mạng” [44; tr.7].
Trong những nhà nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế
kỉ XX đến nay, ngoài Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa), có lẽ Đỗ Lai Thúy
là người hăng hái và chủ động nhất trong việc ứng dụng lí thuyết phân tâm
học trong nghiên cứu văn học đặc biệt là văn học Việt Nam trung đại trường
hợp thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương và là người thực sự tâm huyết
với việc dịch và giới thiệu lí thuyết văn học nước ngoài ở Việt Nam cũng
như thường xuyên nhìn lại những ưu nhược của việc ứng dụng các dòng lí
thuyết đó trong thực tiễn nghiên cứu văn học. Năm 2011, sau Đi tìm thực
chất thơ Hồ Xuân Hương (TC Văn hóa Nghệ thuật, Số 3 - 2004), Phân
tâm học và phê bình văn học ở Việt Nam (TC Văn học nước ngoài, Số 3 -
2004)… ông lại viết thêm Phê bình văn học Việt Nam và vấn đề tiếp nhận
lí thuyết nước ngoài trên tạp chí Văn hóa Nghệ An, Số 198. Trong bài viết
này, ông cho rằng: “Đầu thế kỉ XX, khi Việt Nam (…) trực tiếp tiếp xúc
với Pháp, và qua Pháp là phương Tây, thì văn học Việt Nam mới rời khu
vực để ra với thế giới, bắt đầu một quá trình hiện đại hóa, toàn cầu hóa đầy
gian khổ, quanh co, tuy cũng có những thăng hoa. Cùng với sự ra đời của
Thơ mới, tiểu thuyết hiện đại và kịch nói như là con đẻ của sự giao thoa,
tiếp biến Đông - Tây, phê bình văn học xuất hiện, giã từ lối phê điểm
trung đại mang tính cổ điển, giáo điều, để bước vào phê bình (theo tinh thần)
khoa học với những lí thuyết và phương pháp của thế giới, tuy có lệch pha
thời gian. (…) Sau tháng Tám mùa thu, các phương pháp phê bình khác
giải thể để trở thành một công đoạn nào đó của phương pháp duy nhất
còn lại: phê bình xã hội học mácxit. (…) Hiện nay văn học Việt Nam như
đang bước sang một giai đoạn khác. (…) Phê bình văn học Việt Nam, như
vậy, lại đứng trước cơ hội và thách thức mới là sự chuyển đổi hệ hình lần
thứ hai: Từ tiếp cận nội quan, từ văn bản đến tiếp cận tổng hợp nội -
79
ngoại quan, từ người đọc. Các phương pháp mới như phê bình hiện tượng
học, phê bình giải cấu trúc, phê bình thông diễn học, phê bình phân tâm
học của Lacan, phê bình nữ quyền, phê bình hậu thực dân đang và sẽ ra đời.
Để có được những ứng xử thích hợp trong giai đoạn mới, việc nhìn lại các
giai đoạn đã qua trong ứng dụng các lí thuyết nước ngoài vào xử lí các hiện
tượng văn học Việt Nam là một việc làm khoa học, nghiêm túc” [38; tr.19]
Nhìn lại công việc của Trương Tửu, Đỗ Lai Thúy thấy: “Với phương pháp
văn hóa - lịch sử và phân tâm học phần nào, Trương Tửu đã đưa ra một
khái niệm chìa khóa khác là “cá tính Nguyễn Du” để lí giải sâu hơn đặc
trưng nghệ thuật của tác phẩm này” [38; tr.21]. Đánh giá mảng phê bình văn
học đô thị miền Nam từ 1955 đến 1975, ông cho rằng do “những điều kiện
văn hóa - lịch sử ít nhiều khác biệt”, “phê bình văn học miền Nam đã tìm
cho mình một con đường riêng để chuyển đổi hệ hình từ phê bình ngoại
quan sang phê bình nội quan” [38; 23] trong đó bên cạnh phê bình hiện
tượng học là một phương pháp cũng tương đối phát triển là phê bình phân
tâm học văn bản và “cũng dễ hiểu khi phê bình phân tâm học miền Nam
không đi theo hướng ngôn ngữ học cấu trúc của Lacan, mà đi theo hướng
phân tâm học hiện sinh của Sartre. Triết gia - văn sĩ - nhà phê bình này
cho rằng ngay ở văn bản đã có đầy đủ ý hướng hiện sinh của kẻ tạo ra nó, vì
thế muốn đi tìm bản chất hiện sinh của tác phẩm, tác giả, thì chỉ việc tách
bóc văn bản là đủ. (…) Tư tưởng dẫn đạo này của Sartre có ảnh hưởng lớn
đến phê bình của Nguyễn Văn Trung (Ngôn ngữ và thân xác, 1968, Lược
khảo văn học, 3 tập: 1963 - 1968), Đàm Quang Thiện (Ý niệm bạc mệnh
trong đời Thúy Kiều, Nam Chi tùng thư, 1965) (…). Sự tiếp nhận lí thuyết
của học, khác với các đồng nghiệp miền Bắc và cả nước sau 1975, là theo
chiều thuận: Từ triết học đến phê bình văn học. (…) Tuy ít có những tác
phẩm lớn, nhưng phê bình văn học miền Nam để lại nhiều kinh nghiệm
quý báu và là một tài sản không thể bỏ qua, để sau 1986 hòa vào hệ hình