Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại

2,380
890
91
40
Truyn Kiều hay phê bình phê bình văn học. c nhà nghiên cu min
Nam, như trường hp Nguyên Sa Trn Bích Lan khi nhìn lại cũng đồng ý
rằng: “Ý thức được s tht bi ca chúng ta, ca những con người Hoàng
Ngc Phách, Trn Trng Kim, Nguyễn Bách Khoa trước Nguyn Du,
những Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Hanh, Hoa Bằng, Nguyễn Tế
trước H Xuân Hương chúng ta cũng ý thức được cùng một lúc như một s
đột khi sáng lòe: S t bc ca thiên tài trên mi hoàn cnh, s thành
công ca t do. (…) S tht bại đã bắt gp trong khi tìm hiu H Xuân
Hương. Tìm hiểu nhưng không bao giờ đạt ti. (…) Ta phải đến với người
không thăm hỏi, gp không tìm bi tìm s không gi gặp được[15;
tr.300]. Cũng vào khong thời gian đó, trong Việt Nam văn học s gin
ước tân biên, Phm Thế Ngũ cho rằng: “Ở đây nhà đạo đức (hay gi đạo
đức) có th cho rng tt c bi trí tưởng tượng hư đn” của người đọc
c t to ra mt ám nh ma quái, ch như về phía tác gi ch ngay tình t
vt, ha cnh. S tht thì cái ngh thuật nghĩa đôi đây đã biểu hin khó
mà ph nhận được và đối với người đọc đến tui hiu biết, nhất là người v
nam gii vi bản năng tính dục t nhiên, tất không tránh được s liên tưởng.
(…) Gần đây phái tân học đem triết thuyết phân tâm hc của Freud để
cắt nghĩa sựn y. H Xuân Hương ở trong mt tình trng b “dn nén v
tình dục” không thỏa mãn nên giải thoát ra văn chương. Ông Nguyn
Văn Hanh l n cứ vào cun Giai nhân di mc ca Nguyn Hu Tiến
t Xuân Hương người “mặt r hoa, da ngăm ngăm đen”, tức xu ít
được đàn ông để ý, tuy nhiên li rất đa tình. (…) Tính dc không được tha
mãn hin ra nhng ám ảnh dâm đãng rồi trút vào những bài thơ ma quái”
[21; tr.113 - 114] nhưng không thy Phm Thế Ngũ bình lun hay gii thích
gì thêm.
40 Truyện Kiều hay phê bình phê bình văn học. Các nhà nghiên cứu miền Nam, như trường hợp Nguyên Sa Trần Bích Lan khi nhìn lại cũng đồng ý rằng: “Ý thức được sự thất bại của chúng ta, của những con người Hoàng Ngọc Phách, Trần Trọng Kim, Nguyễn Bách Khoa trước Nguyễn Du, những Dương Quảng Hàm, Nguyễn Văn Hanh, Hoa Bằng, Nguyễn Sĩ Tế trước Hồ Xuân Hương chúng ta cũng ý thức được cùng một lúc như một sự đột khởi sáng lòe: Sự vượt bậc của thiên tài trên mọi hoàn cảnh, sự thành công của tự do. (…) Sự thất bại đã bắt gặp trong khi tìm hiểu Hồ Xuân Hương. Tìm hiểu nhưng không bao giờ đạt tới. (…) Ta phải đến với người không thăm hỏi, gặp không tìm bởi vì tìm sẽ không giờ gặp được” [15; tr.300]. Cũng vào khoảng thời gian đó, trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ cho rằng: “Ở đây nhà đạo đức (hay giả đạo đức) có thể cho rằng tất cả là bởi trí tưởng tượng “hư đốn” của người đọc cứ tự tạo ra một ám ảnh ma quái, chớ như về phía tác giả chỉ ngay tình tả vật, họa cảnh. Sự thật thì cái nghệ thuật nghĩa đôi ở đây đã biểu hiện khó mà phủ nhận được và đối với người đọc đến tuổi hiểu biết, nhất là người về nam giới với bản năng tính dục tự nhiên, tất không tránh được sự liên tưởng. (…) Gần đây có phái tân học đem triết thuyết phân tâm học của Freud để cắt nghĩa sự bí ẩn ấy. Hồ Xuân Hương ở trong một tình trạng bị “dồn nén về tình dục” vì không thỏa mãn nên giải thoát ra văn chương. Ông Nguyễn Văn Hanh có lẽ căn cứ vào cuốn Giai nhân di mặc của Nguyễn Hữu Tiến tả Xuân Hương là người “mặt rỗ hoa, da ngăm ngăm đen”, tức là xấu xí ít được đàn ông để ý, tuy nhiên lại rất đa tình. (…) Tính dục không được thỏa mãn hiện ra những ám ảnh dâm đãng rồi trút vào những bài thơ ma quái” [21; tr.113 - 114] nhưng không thấy Phạm Thế Ngũ bình luận hay giải thích gì thêm.
41
Trong những năm 1954 - 1975, ng dng thuyết phân tâm hc vào
nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại miền Nam đáng kể nht phi nhc
ti công trình Ý nim bc mnh trong đời Thúy Kiu của Đàm Quang
Thiện được Nam Chi tùng thư xuất bản năm 1965. Trong công trình mang
tính cht mt chuyên luận nhưng hầu như không chia chương mục này, tác
gi đã vận dng khá nhun nhuyn thuyết phân tâm hc vào nghiên cu
Truyn Kiu. Theo Đàm Quang Thiện, “Thúy Kiều có một tiên thiên” rất
nng v tình cm. (…) Nó s luôn bi cnh cho tt c các biến c liên
tiếp, hp li thành cuộc đời của người y [33; tr.6 - 7]. Ông cho rng
người tướng gieo mm “bc mệnh” vào mnh đất tình cm phì nhiêu
ca Thúy Kiu [33; tr.8] mt biến c quan trọng vì “từ cui thế k XIX
vào đầu thế k XX, vi s nghiên cu ca nhiu nhà tâm lí học Tây Phương,
như Piere Janet ở Pháp quc, Sigmund Freud Áo quc,… người ta đã biết
ảnh hưởng cùng quan trng ca nhng biến c xy ra trong u thì đến
tương lai của cuộc đời [33; tr.9]. Tuy nhiên, “cái ý nim bc mnh
nàng t trong nhc phm ca nàng rt khái quát, gần như trừu tượng, có v
“sách vở”, và th nói trong sch” [33; tr.15]. Ch sau khi viếng m
Đạm Tiên thì Kiu mới đi vào mt qu đạo bc mnhchính xác hơn,
c th hơn, thực tế hơn cũng tàn nhẫn, b ổi hơn” [33; tr.25]. Sau khi
to m Đạm Tiên, Thúy Kiu sng vi ám nh là suốt đời này s phải “làm
v khắp người ta” mà không đưc làm v ai c (…), đã sống vi ám nh
suốt đời nàng s một con đĩ[33; tr.26 - 27] nàng đã Đạm Tiên
hóa chính nàng [33; tr.30]. Cái ám nh bc mnh ca Truyn Kiu đã
thành s tht trong mt giấc chiêm bao, nghĩ là đã ăn sâu vào vô thức ca
Thúy Kiều, đã đồng hóa vi thc của nàng, đó điều kin ắt đủ để
“mộng” thành thực, đó là một hiện tượng tâm lí - ảnh hưởng ca nhng mc
cm trong vô thức đến nhng hành vi hu thc trong đời sng - mà các nhà
tâm lí học phương Tây đã khám phá ra từ hu bán thế k XIX [33; tr.35].
41 Trong những năm 1954 - 1975, ứng dụng lí thuyết phân tâm học vào nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại ở miền Nam đáng kể nhất phải nhắc tới công trình Ý niệm bạc mệnh trong đời Thúy Kiều của Đàm Quang Thiện được Nam Chi tùng thư xuất bản năm 1965. Trong công trình mang tính chất một chuyên luận nhưng hầu như không chia chương mục này, tác giả đã vận dụng khá nhuần nhuyễn lí thuyết phân tâm học vào nghiên cứu Truyện Kiều. Theo Đàm Quang Thiện, “Thúy Kiều có một “tiên thiên” rất nặng về tình cảm. (…) Nó sẽ luôn là bối cảnh cho tất cả các biến cố liên tiếp, hợp lại thành cuộc đời của người ấy” [33; tr.6 - 7]. Ông cho rằng người tướng sĩ “gieo mầm “bạc mệnh” vào mảnh đất tình cảm phì nhiêu của Thúy Kiều” [33; tr.8] là một biến cố quan trọng vì “từ cuối thế kỉ XIX vào đầu thế kỉ XX, với sự nghiên cứu của nhiều nhà tâm lí học Tây Phương, như Piere Janet ở Pháp quốc, Sigmund Freud ở Áo quốc,… người ta đã biết ảnh hưởng vô cùng quan trọng của những biến cố xảy ra trong ấu thì đến tương lai của cuộc đời” [33; tr.9]. Tuy nhiên, “cái ý niệm bạc mệnh mà nàng tả trong nhạc phẩm của nàng rất khái quát, gần như trừu tượng, có vẻ “sách vở”, và có thể nói là “trong sạch” [33; tr.15]. Chỉ sau khi viếng mả Đạm Tiên thì Kiều mới đi vào “một quỹ đạo “bạc mệnh” chính xác hơn, cụ thể hơn, thực tế hơn và cũng tàn nhẫn, bỉ ổi hơn” [33; tr.25]. “Sau khi tảo mộ Đạm Tiên, Thúy Kiều sống với ám ảnh là suốt đời này sẽ phải “làm vợ khắp người ta” mà không được làm vợ ai cả (…), đã sống với ám ảnh “suốt đời nàng sẽ là một con đĩ” [33; tr.26 - 27] và “nàng đã Đạm Tiên hóa chính nàng” [33; tr.30]. “Cái ám ảnh bạc mệnh của Truyện Kiều đã thành sự thật trong một giấc chiêm bao, nghĩ là đã ăn sâu vào vô thức của Thúy Kiều, đã đồng hóa với vô thức của nàng, đó là điều kiện ắt và đủ để “mộng” thành thực, đó là một hiện tượng tâm lí - ảnh hưởng của những mặc cảm trong vô thức đến những hành vi hữu thức trong đời sống - mà các nhà tâm lí học phương Tây đã khám phá ra từ hậu bán thế kỉ XIX” [33; tr.35].
42
Đàm Quang Thiện đã giải “giấc mộng đoạn trường” của Thúy Kiu rt
phân tâm hc bng cách da vào Khoa hc nhng gic chiêm bao ca
Signund Freud. Ông lí gii rằng: “Theo Sigmund Freud (...) linh hồn người
ta gm 3 phn: Mt là Bn ngã (Es) chứa đng tt c nhng bản năng do di
truyn cu tạo nên, tương đương với thc (Inconsaent) ca các nhà tâm
hc khác (...). Hai là ngã (Ich), tương đương với Hu thc
(Conscient), và không khác ý thc tâm ca mỗi người (...) làm cho
thc ti ngoi giới thích nghi được vi những đòi hỏi ca bn ngã. Ba
Thượng ngã (Uber Ich) không gì khác là phn linh hồn mà ta thường gi là
Lương tâm. Đó là hình nh một “Cá ngã ởng” chứa đựng đầy nhng
“cấm đoán” (...), những “bổn phận” (...) Mỗi ln, Bản ngã đưa ra một ước
vng trái với luân thường đạo hay trái với công ước hội thì ước vng
y lin b Thượng ngã đẩy lui (...) n trong khu vc ca vô thức, nghĩa là
cá nhân có ước vng b đẩy lui y không hay biết gì hết [33; tr.41 - 42] và
“bn ngã ca Thúy Kiu với tinh đoàn bạc mnh trong trng thái mt
dung dịch quá bão hòa (...) cho đến khi gp m Đạm Tiên (...) lp tc, tt c
dung dch bc mnh quá bão hòa y kết tinh chung quanh tinh th bc mnh
Đạm Tiên, thành mt khi duy nhất “mặc cm bc mệnh Đạm Tiên”,
chiếm tt c bn ngã tc thc ca Thúy Kiu [33; tr.43 - 44]. Con
đưng phát trin ca thc Thúy Kiều đi qua ba chặng: Mc cm bc
mnh, mc cm Đạm Tiên đến mc cảm đoạn trườngmc cảm đoạn
trường gi nhim v một định mệnh đối vi Thúy Kiu[33; tr.44 - 45].
“Cái Định mnh mà Kiu chống đối không phải cái Định mnh ca Siêu
hình học, mà là cái Định mnh ca Tâm lí hc, cái Định mnh ca mt mc
cm ng tr tâm thc ca một người, cũng có một sc mạnh toàn năng
Tam Hợp đạo cô đã nói ví với sc mnh ma qu: Ma đưa lối qu dẫn đường
- Li tìm nhng chốn đoạn trường mà đi” [33; tr.48].
42 Đàm Quang Thiện đã lí giải “giấc mộng đoạn trường” của Thúy Kiều “rất phân tâm học” bằng cách dựa vào Khoa học những giấc chiêm bao của Signund Freud. Ông lí giải rằng: “Theo Sigmund Freud (...) linh hồn người ta gồm 3 phần: Một là Bản ngã (Es) chứa đựng tất cả những bản năng do di truyền cấu tạo nên, tương đương với Vô thức (Inconsaent) của các nhà tâm lí học khác (...). Hai là Cá ngã (Ich), tương đương với Hữu thức (Conscient), và không gì khác là ý thức tâm lí của mỗi người (...) làm cho thực tại ngoại giới thích nghi được với những đòi hỏi của bản ngã. Ba là Thượng ngã (Uber Ich) không gì khác là phần linh hồn mà ta thường gọi là Lương tâm. Đó là hình ảnh một “Cá ngã lí tưởng” chứa đựng đầy những “cấm đoán” (...), những “bổn phận” (...) Mỗi lần, Bản ngã đưa ra một ước vọng trái với luân thường đạo lí hay trái với công ước xã hội thì ước vọng ấy liền bị Thượng ngã đẩy lui (...) ẩn ở trong khu vực của vô thức, nghĩa là cá nhân có ước vọng bị đẩy lui ấy không hay biết gì hết” [33; tr.41 - 42] và “bản ngã của Thúy Kiều với tinh đoàn bạc mệnh ở trong trạng thái một dung dịch quá bão hòa (...) cho đến khi gặp mả Đạm Tiên (...) lập tức, tất cả dung dịch bạc mệnh quá bão hòa ấy kết tinh chung quanh tinh thể bạc mệnh Đạm Tiên, thành một khối duy nhất là “mặc cảm bạc mệnh Đạm Tiên”, chiếm tất cả bản ngã tức Vô thức của Thúy Kiều” [33; tr.43 - 44]. Con đường phát triển của vô thức Thúy Kiều đi qua ba chặng: Mặc cảm bạc mệnh, mặc cảm Đạm Tiên đến mặc cảm đoạn trường và mặc cảm đoạn trường “giữ nhiệm vụ một định mệnh đối với Thúy Kiều” [33; tr.44 - 45]. “Cái Định mệnh mà Kiều chống đối không phải là cái Định mệnh của Siêu hình học, mà là cái Định mệnh của Tâm lí học, cái Định mệnh của một mặc cảm ngự trị tâm thức của một người, cũng có một sức mạnh toàn năng mà Tam Hợp đạo cô đã nói ví với sức mạnh ma quỉ: Ma đưa lối quỉ dẫn đường - Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi” [33; tr.48].
43
Đi vào ng dng thuyết phân tâm hc, Đàm Quang Thiện phi ngó
quanh xem mọi người đã làm ông không th không nhc tới Trương
Tu (Nguyn Bách Khoa) dù là nhắc đến vi một thái độ thiếu tôn trng và
ít bình tĩnh. Theo cách Đàm Quang Thiện ví von, nếu trong hi
Pháp thế k XVII, những trưởng gi hc làm sang thì trong hi Vit
Nam thế k XX, nhng th tin học làm văn sĩ, trong địa ht p
bình văn học, nhng th văn y học làm lương y, để bt mch cho
nhng nhân vt tiu thuyết. Đó là trường hp ca Nguyn Bách Khoa khi
phê bình Nguyn Du Truyn Kiu” [33; tr.51]. Sau khi trích dn chng
hai trang sách ca Nguyn Bách Khoa, ông hạ” mt câu “đy sc nặng”:
“Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ tiếc công, tiếc thì gi, tiếc giy, tiếc mc
bng công, thì gi, giy, mực, dùng để chép mấy dòng trên đây. Trong địa
ht khoa hc, nếu mt k ngu xun nói vi mt nhà bác hc rng mt tri rõ
ràng quay chung quanh Trái Đất, sáng mc đằng Đông, chiều ln đằng
Tây, không th trái lại được, thì l nhiên nhà bác học, không thèm đếm
xỉa đến. Tại sao, trong địa hạt văn học, ta li c phải đếm xỉa đến nhng li
ngu xun tương tự như trên?[33; tr.52 - 53] để đi đến khẳng định: “Tht
ra, Nguyn Du ch mô t triệt để s tiến trin tâm lí ca Mc cm Bc mnh
trong cuộc đời Thúy Kiu mà thôi [33; tr.53]. Đàm Quang Thiện quy “giấc
đoạn trường” thành một th “khuynh hướng b đẩy lui không bao gi
chu nm im trong bn ngã. Trái li, luôn luôn chúng tìm cách hin ra
ngã. Chúng b li dng mọi trường hp ngh ngơi hoặc lơ đãng của Thượng
ngã, trong vic kim duyệt để ra khi Bn ngã và hin ra cá ngã (...) trước
hết (...) dưới hình thc nhng gic chiêm bao [33; tr.54]. Kiều người
tuyt tài tuyt sc hội cũ li không cho phép ph n thi th với đời
nên nhng m c v đưng công danh ca nàng hiện ra dưới hình thc các
giấc mơ. “Vương Thúy Kiều chiêm bao thy thế giới bên kia (…) mt
Hàn Lâm Vin dành riêng cho nhng thiếu n như nàng (…) ch dành
43 Đi vào ứng dụng lí thuyết phân tâm học, Đàm Quang Thiện phải ngó quanh xem mọi người đã làm gì và ông không thể không nhắc tới Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa) dù là nhắc đến với một thái độ thiếu tôn trọng và ít bình tĩnh. Theo cách mà Đàm Quang Thiện ví von, “nếu trong xã hội Pháp thế kỉ XVII, có những trưởng giả học làm sang thì trong xã hội Việt Nam thế kỉ XX, có những thợ tiện học làm văn sĩ, và trong địa hạt phê bình văn học, có những thứ văn sĩ ấy học làm lương y, để bắt mạch cho những nhân vật tiểu thuyết. Đó là trường hợp của Nguyễn Bách Khoa khi phê bình Nguyễn Du và Truyện Kiều” [33; tr.51]. Sau khi trích dẫn chừng hai trang sách của Nguyễn Bách Khoa, ông “hạ” một câu “đầy sức nặng”: “Trong đời tôi, tôi chưa bao giờ tiếc công, tiếc thì giờ, tiếc giấy, tiếc mực bằng công, thì giờ, giấy, mực, dùng để chép mấy dòng trên đây. Trong địa hạt khoa học, nếu một kẻ ngu xuẩn nói với một nhà bác học rằng mặt trời rõ ràng quay chung quanh Trái Đất, sáng mọc ở đằng Đông, chiều lặn ở đằng Tây, không thể trái lại được, thì lẽ dĩ nhiên nhà bác học, không thèm đếm xỉa đến. Tại sao, trong địa hạt văn học, ta lại cứ phải đếm xỉa đến những lời ngu xuẩn tương tự như trên?” [33; tr.52 - 53] để đi đến khẳng định: “Thật ra, Nguyễn Du chỉ mô tả triệt để sự tiến triển tâm lí của Mặc cảm Bạc mệnh trong cuộc đời Thúy Kiều mà thôi” [33; tr.53]. Đàm Quang Thiện quy “giấc mơ đoạn trường” thành một thứ “khuynh hướng bị đẩy lui không bao giờ chịu nằm im trong bản ngã. Trái lại, luôn luôn chúng tìm cách hiện ra ở cá ngã. Chúng bị lợi dụng mọi trường hợp nghỉ ngơi hoặc lơ đãng của Thượng ngã, trong việc kiểm duyệt để ra khỏi Bản ngã và hiện ra ở cá ngã (...) trước hết (...) dưới hình thức những giấc chiêm bao” [33; tr.54]. Kiều là người tuyệt tài tuyệt sắc mà xã hội cũ lại không cho phép phụ nữ thi thố với đời nên những ấm ức về đường công danh của nàng hiện ra dưới hình thức các giấc mơ. “Vương Thúy Kiều chiêm bao thấy ở thế giới bên kia (…) có một Hàn Lâm Viện dành riêng cho những thiếu nữ như nàng (…) chỉ dành
44
riêng cho n gii (…) để tr thù cái bt công không cho n gii d vào Hàn
Lâm Vin ca Triều Đình, trong đời sng thc s ca hi Trung Hoa
ngày trước. Cái Hàn Lâm Viện đặc bit này ch dành riêng cho nhng bn
gái sc tài quán thế. Mà, theo định luật “Hồng nhan bc mệnh” và định lut
“Tài mệnh tương đố”, thì giai nhân mà sc tài quán thế thì s phn tt long
đong đến triệt để. S phận long đong đến triệt để thì phi chu nỗi đau đớn
đến đứt rut ra tng khúc. Vì thế mà cái Hàn Lâm Viện đặc bit ca nhng
giai nhân bc mnh mới có cái tên Hội Đoạn Trường[33; tr.58 - 59]
bên cạnh đó Hàn Lâm Viện như “Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú” của vua
Thánh Tông, một “Tao Đàn Nguyên Súy”, thì “Hội Đoạn Trường” của
Thúy Kiều cũng có một “Đoạn Trường Hi Chủ”, và lẽ dĩ nhiên, là một “
Hi Ch”. Hàn Lâm Viện nào cũng có một quyn s để ghi danh hi viên,
thì “Hội Đoạn Trường” của Thúy Kiều cũng có một cun s để ghi danh hi
viên, hi viên quá kh cũng như hội viên tương lai, vì Vương Thúy Kiều có
tên trong s trước khi được chính thc nhn hi. Quyn s ấy được gi
S Đoạn Trường (…). Hàn Lâm Viện nào cũng có một “tập k yếu” để
ghi li những văn tác và công tác của hội viên, thì “Hội Đoạn Trường” cũng
có mt tp k yếu như thế, gọi là “Tập Đoạn Trường [33;tr.60 - 61] giúp
Thúy Kiều được hoàn toàn tha mãn nhng cuc sng thc không th
mang li cho nàng mc cm ám nh Thúy Kiều “mặc cảm đon
tờng” [33; tr.65]. Chính vì có mc cm này mà Kiu có nhng hành vi
ch th giải được khi ng dng thuyết phân tâm hc. Vic Kiu
Kim Trng cầm tay nhau đến khi b m đi dự sinh nht ngoi gia v đưc
hiểu Thúy Kiu không x s hp tình hp lí, nàng b Mc Cm
Đoạn Trường hướng dẫn. Nàng không như thiếu n khác, không mc
cảm, nên nàng không hành động như họ. Nàng phi x s khác h, thì mi
hp vi trạng thái tâm lí đặc bit ca nàng. Trong thâm tâm nàng, Bn Ngã
của nàng đã tin tưởng tuyệt đối là nàng s phi chu mt cuộc đời bc mnh,
44 riêng cho nữ giới (…) để trả thù cái bất công không cho nữ giới dự vào Hàn Lâm Viện của Triều Đình, trong đời sống thực sự của xã hội Trung Hoa ngày trước. Cái Hàn Lâm Viện đặc biệt này chỉ dành riêng cho những bạn gái sắc tài quán thế. Mà, theo định luật “Hồng nhan bạc mệnh” và định luật “Tài mệnh tương đố”, thì giai nhân mà sắc tài quán thế thì số phận tất long đong đến triệt để. Số phận long đong đến triệt để thì phải chịu nỗi đau đớn đến đứt ruột ra từng khúc. Vì thế mà cái Hàn Lâm Viện đặc biệt của những giai nhân bạc mệnh mới có cái tên là “Hội Đoạn Trường” [33; tr.58 - 59] bên cạnh đó “Hàn Lâm Viện như “Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú” của vua Lê Thánh Tông, có một “Tao Đàn Nguyên Súy”, thì “Hội Đoạn Trường” của Thúy Kiều cũng có một “Đoạn Trường Hội Chủ”, và lẽ dĩ nhiên, là một “Bà Hội Chủ”. Hàn Lâm Viện nào cũng có một quyển sổ để ghi danh hội viên, thì “Hội Đoạn Trường” của Thúy Kiều cũng có một cuốn sổ để ghi danh hội viên, hội viên quá khứ cũng như hội viên tương lai, vì Vương Thúy Kiều có tên trong sổ trước khi được chính thức nhận hội. Quyển sổ ấy được gọi là “Sổ Đoạn Trường” (…). Hàn Lâm Viện nào cũng có một “tập kỉ yếu” để ghi lại những văn tác và công tác của hội viên, thì “Hội Đoạn Trường” cũng có một tập kỉ yếu như thế, gọi là “Tập Đoạn Trường” [33;tr.60 - 61] giúp Thúy Kiều được hoàn toàn thỏa mãn những gì cuộc sống thực không thể mang lại cho nàng và mặc cảm ám ảnh Thúy Kiều là “mặc cảm đoạn trường” [33; tr.65]. Chính vì có mặc cảm này mà Kiều có những hành vi mà chỉ có thể lí giải được khi ứng dụng lí thuyết phân tâm học. Việc Kiều và Kim Trọng cầm tay nhau đến khi bố mẹ đi dự sinh nhật ngoại gia về được hiểu là “Thúy Kiều không xử sự hợp tình hợp lí, là vì nàng bị Mặc Cảm Đoạn Trường hướng dẫn. Nàng không như thiếu nữ khác, không có mặc cảm, nên nàng không hành động như họ. Nàng phải xử sự khác họ, thì mới hợp với trạng thái tâm lí đặc biệt của nàng. Trong thâm tâm nàng, Bản Ngã của nàng đã tin tưởng tuyệt đối là nàng sẽ phải chịu một cuộc đời bạc mệnh,
45
thì Bn Ngã có Mc Cảm Đoạn Trường ca nàng phi ngm ngầm thúc đẩy
nàng vào quĩ đạo Đoạn Trường, mà chính nàng cũng không hay biết gì hết.
Đó một định lut Tâm hiu lực như Định Mnh vy [33; tr.69].
Theo lp lun của Đàm Quang Thiện, cơn gia biến khiến Kiu li thề,
mt dịp để Thúy Kiu thc hin mt hành vi ý chí. Mt hành vi ý chí bao
gi cũng đòi hi mt ngh lực phi thường mi thc hiện được. (…) Thế
vn có nhng phê bình gia ngoan c, luôn luôn có óc chống đối mi ý kiến,
mọi người, cho rng Thúy Kiều che đậy, sau s hi sinh ca nàng, tính dâm
dc và lòng ham mê mt cuộc đời ly s tha mãn nhc dc làm tông ch!
Nhng phê bình gia, loi Nguyễn Bách Khoa này, đã suy bng ta ra
bụng người”, gán cho Thúy Kiều nhng thú tính mnh m h đã
nhn thy trong chính người h. H không đáng để chúng ta chú ý đến
nhng li phê bình lp d ca họ” [33; tr.70 - 71] ông mong rng, t
nay tr đi, không phải nghe nhng kdâm đầy lòng, gán cho Thúy Kiu
“điều tà dâm” mà họ nhn thy ni bt lên trong tính tình ca h na [33;
tr.74 - 75]. Đàm Quang Thiện cho rng, s hi sinh cao c ca Thúy Kiu
lại cũng là điều kin duy nhất để nàng có th ng dòng sông cuộc đời ca
nàng cho nó chy vào b khổ, như thế mi hp vi s chi phi vô thc ca
Mc Cm Đoạn Trường. S kin này cho ta thy mt mc cm chi phi
đưng lối hành động ca mt cá nhân th áp dng mt chiến lược rt tế
nhị, hướng lèo lái ca Mc cm, hoạt động ngm ngm trong sâu thm Vô
thc, li hp với tưởng hi của đời sng Hu thc ca nhân y.
Đin hình là hành vi hi sinh “tình” cho “hiếu” của Thúy Kiu. Hành vi này
hp với lí tưởng xã hi mà Kiều đang sống, nhưng nó cũng là điều kin cn
thiết để đưa nàng vào cảnh đoạn trường mà Đạm Tiên đã trải qua [33; tr.77
- 78]. Theo ông, “nếu Thúy Kiu t t đưc, thì tt c công phu thc
nghimnghiên cu của các tâm gia Tây phương, từ Pierre Janet, qua
Sigmund Freund, đến Carl Gustav Jung đều vứt đi hết! Đâu có thể thế đưc!
45 thì Bản Ngã có Mặc Cảm Đoạn Trường của nàng phải ngấm ngầm thúc đẩy nàng vào quĩ đạo Đoạn Trường, mà chính nàng cũng không hay biết gì hết. Đó là một định luật Tâm Lí có hiệu lực như Định Mệnh vậy” [33; tr.69]. Theo lập luận của Đàm Quang Thiện, cơn gia biến khiến Kiều lỗi thề, “là một dịp để Thúy Kiều thực hiện một hành vi ý chí. Một hành vi ý chí bao giờ cũng đòi hỏi một nghị lực phi thường mới thực hiện được. (…) Thế mà vẫn có những phê bình gia ngoan cố, luôn luôn có óc chống đối mọi ý kiến, mọi người, cho rằng Thúy Kiều che đậy, sau sự hi sinh của nàng, tính dâm dục và lòng ham mê một cuộc đời lấy sự thỏa mãn nhục dục làm tông chỉ! Những phê bình gia, loại Nguyễn Bách Khoa này, đã “suy bụng ta ra bụng người”, và gán cho Thúy Kiều những thú tính mạnh mẽ mà họ đã nhận thấy trong chính người họ. Họ không đáng để chúng ta chú ý đến những lời phê bình lập dị của họ” [33; tr.70 - 71] và ông “mong rằng, từ nay trở đi, không phải nghe những kẻ tà dâm đầy lòng, gán cho Thúy Kiều “điều tà dâm” mà họ nhận thấy nổi bật lên trong tính tình của họ nữa” [33; tr.74 - 75]. Đàm Quang Thiện cho rằng, “sự hi sinh cao cả của Thúy Kiều lại cũng là điều kiện duy nhất để nàng có thể hướng dòng sông cuộc đời của nàng cho nó chảy vào bể khổ, như thế mới hợp với sự chi phối vô thức của Mặc Cảm Đoạn Trường. Sự kiện này cho ta thấy một mặc cảm chi phối đường lối hành động của một cá nhân có thể áp dụng một chiến lược rất tế nhị, hướng lèo lái của Mặc cảm, hoạt động ngấm ngầm trong sâu thẳm Vô thức, lại hợp với lí tưởng xã hội của đời sống Hữu thức của cá nhân ấy. Điển hình là hành vi hi sinh “tình” cho “hiếu” của Thúy Kiều. Hành vi này hợp với lí tưởng xã hội mà Kiều đang sống, nhưng nó cũng là điều kiện cần thiết để đưa nàng vào cảnh đoạn trường mà Đạm Tiên đã trải qua” [33; tr.77 - 78]. Theo ông, “nếu Thúy Kiều tự tử được, thì tất cả công phu thực nghiệm và nghiên cứu của các tâm lí gia Tây phương, từ Pierre Janet, qua Sigmund Freund, đến Carl Gustav Jung đều vứt đi hết! Đâu có thể thế được!
46
Trong khi Hu thc của nàng thúc đẩy nàng, vì lí tưởng “thác trong hơn
sống đục”, đâm vào c, thì Vô thc vi Mc Cảm Đoạn Trường ghìm tay
nàng li, không cho dao đâm trúng vào ch phm, nên nàng ch ngất đi thôi
ch không chết được. Chúng ta đã nói đến định lut tâm lí không mt ngoi
l nào, là “Khi Hữu thc và Vô thức xung đột vi nhau thì Hu thc ch
mt khong nh, do giáo dục gia đìnhcông ước xã hi to ra, trong khi
thc mông mênh chứa đựng tt c kinh nghim ca cuộc đời t u thì
(Janet, Freud) kinh nghim ca toàn nhân loi t thượng c đến nay
(Jung). (…) Mc Cm y thy cn phi ảnh hưởng đến Hu thc ca Thúy
Kiều để sau này, nàng đừng quyết tâm t vn nữa. Do đó mà có giấc mng
Đạm Tiên th hai” [33; tr.83 - 84]. Chính Thúy Kiu một người “sắc
so khôn ngoan” nên Vô thc ca nàng phi có mt chiến lược “quỉ khc
thn sầu” mới hướng dẫn được Hu thc của nàng theo thúc đẩy ca Mc
Cảm Đoạn Trường, mà Hu thc này vẫn tưởng là đã hoạt động đúng với ý
chí cương quyết thc hiện tưởng luân hi [33; tr.88 - 89]
gic mng Tiền Đường” đã hoàn thành xuất sc công việc đó. Theo Đàm
Quang Thin, nếu Đạm Tiên thc s là người cm nm s phn ca Kiu thì
Đạm Tiên phi biết rõ thời điểm Kiu t trầm nhưng ở đây lại “có lòng chờ”,
nghĩa Đạm Tiên chng biết “cóc khô” về cảnh lưu lạc quê người,
bèo trôi sóng v chốc mười lăm năm của Thúy Kiu c! Đến đây chúng ta
có th kết lun: Tr s kiện “hiển hiện cho xem” chứng minh là có mt linh
hồn Đạm Tiên còn tn ti sau khi th xác của Đạm Tiên đã được “vùi hồng
mt nm, mc dàu c hoa, tri bao th ln ác rồi, còn tt c các biu
hin khác của Đạm Tiên ch nhng sn phm ca nhng gic mng
ca Thúy Kiu thôi, nghĩa những “hình thay thế” hay những “tượng
trưng” của Mc Cm Bc Mnh ng tr trong Bn ngã ca Thúy Kiu, theo
thuyết phân tâm ca Freud [33; tr.94 - 95] Mc Cảm Đoạn Trường đã
“bịa ra” sự kiện “sông Tiền Đường s hn v sau”, để tiêu hy ý chí
46 Trong khi Hữu thức của nàng thúc đẩy nàng, vì lí tưởng “thác trong hơn sống đục”, đâm vào cổ, thì Vô thức với Mặc Cảm Đoạn Trường ghìm tay nàng lại, không cho dao đâm trúng vào chỗ phạm, nên nàng chỉ ngất đi thôi chứ không chết được. Chúng ta đã nói đến định luật tâm lí không một ngoại lệ nào, là “Khi Hữu thức và Vô thức xung đột với nhau thì Hữu thức chỉ là một khoảng nhỏ, do giáo dục gia đình và công ước xã hội tạo ra, trong khi Vô thức mông mênh chứa đựng tất cả kinh nghiệm của cuộc đời từ ấu thì (Janet, Freud) và kinh nghiệm của toàn nhân loại từ thượng cổ đến nay (Jung). (…) Mặc Cảm ấy thấy cần phải ảnh hưởng đến Hữu thức của Thúy Kiều để sau này, nàng đừng quyết tâm tự vẫn nữa. Do đó mà có giấc mộng Đạm Tiên thứ hai” [33; tr.83 - 84]. Chính vì Thúy Kiều là một người “sắc sảo khôn ngoan” nên “Vô thức của nàng phải có một chiến lược “quỉ khốc thần sầu” mới hướng dẫn được Hữu thức của nàng theo thúc đẩy của Mặc Cảm Đoạn Trường, mà Hữu thức này vẫn tưởng là đã hoạt động đúng với ý chí cương quyết thực hiện lí tưởng luân lí và xã hội” [33; tr.88 - 89] và “giấc mộng Tiền Đường” đã hoàn thành xuất sắc công việc đó. Theo Đàm Quang Thiện, nếu Đạm Tiên thực sự là người cầm nắm số phận của Kiều thì Đạm Tiên phải biết rõ thời điểm Kiều tự trầm nhưng ở đây lại “có lòng chờ”, nghĩa là “Đạm Tiên chẳng biết “cóc khô” gì về cảnh lưu lạc quê người, bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm của Thúy Kiều cả! Đến đây chúng ta có thể kết luận: Trừ sự kiện “hiển hiện cho xem” chứng minh là có một linh hồn Đạm Tiên còn tồn tại sau khi thể xác của Đạm Tiên đã được “vùi hồng một nấm, mặc dàu cỏ hoa, trải bao thỏ lặn ác tà” rồi, còn tất cả các biểu hiện khác của Đạm Tiên chỉ là những sản phẩm của những giấc mộng của Thúy Kiều thôi, nghĩa là những “hình thay thế” hay những “tượng trưng” của Mặc Cảm Bạc Mệnh ngự trị trong Bản ngã của Thúy Kiều, theo thuyết phân tâm của Freud” [33; tr.94 - 95] và “Mặc Cảm Đoạn Trường đã “bịa ra” sự kiện “sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau”, để tiêu hủy ý chí
47
cương quết thác trong ch không sống đục ca Thúy Kiu. Thế ri, li
chính Mc Cảm Đoạn Trường ấy đã đẩy dần nàng đến sông Tiền Đường,
cho hp vi li tiên tri, mà vì nhu cu, Mc cm ấy đã hoàn toàn tạo ra” [33;
tr.96 - 97]. S con sông đó nhất định phi sông Tiền Đường
Thúy Kiều đã phải bán mình, phi hi sinh c hnh phúc của đời nàng, là
tình yêu Kim Trng ngày nay và cuc sng chung vi chàng ngày sau, phi
dn thân vào lầu xanh, cũng chỉ tin”. Lúc nàng t t để khi phi làm
đệ t ca thn mày trắng, hơn lúc nào hết, nàng phải oán “tin” vô cùng, vì,
vì nó mà nàng phi kết liu cuộc đời, gia lúc nàng vừa bước chân vào thi
xuân, sc, với đầy yêu - chiều, được kính nể. Do đó tin đã là một
ngôi sao sáng trong tinh đoàn bc mnh, mt hình nh b đẩy lui toàn
th làm thành Mc Cm Bc Mnh trong Bn ngã ca nàng. Khi Mc Cm
này phi chn mt con sông để cho Thúy Kiu s kết liu cuộc đời đây,
để dng lên một đnh mnh, khiến nàng tin vào đấy mà đừng t t na, mà
nhn nhc chịu đựng cuộc đời đoạn trường s đến với tin tưởng không
phương cách nào tránh được, thì hình nh tin ni bt lên trong các hình
nh khác, đã làm cho thức nàng liên tưởng đến sông Tiền Đường,
chọn con sông này. Thêm vào đấy, mun to ra một tiền định đến
Tiền Đường”, vì muốn to ra một tiền đ” đã được vch sn bởi “nghiệp
đào, kiếp liu bồ” của nàng, mà Vô thc của nàng đã chọn sông Tin
Đường, Tin trong “Tiền Đường” đồng âm d nghĩa với “tin trong
danh t tr do đoạn trường của nàng kim tin”, lại “Đưng trong
“Tiền Đường”, đồng nghĩa dị âm với đồtrong danh từ tr đối tượng
Vô thc của nàng đang tạo ra, tiền đồ”, “đưngcũng có nghĩa là một
đường đi (đường là b đê) như “đồ” vậy [33; tr.100 - 102]. Bên cạnh đó là
“Tú Bà đã đưa Thúy Kiều vào con đường dẫn nàng đến s phm vào trng
ti y, bng một thuật cùng khoa hc, khiến nàng t dn mình o
“chốn đoạn trường”, (…) nàng tr nên con người có Mc cm Ti li, (…)
47 cương quết thác trong chứ không sống đục của Thúy Kiều. Thế rồi, lại chính Mặc Cảm Đoạn Trường ấy đã đẩy dần nàng đến sông Tiền Đường, cho hợp với lời tiên tri, mà vì nhu cầu, Mặc cảm ấy đã hoàn toàn tạo ra” [33; tr.96 - 97]. Sở dĩ con sông đó nhất định phải là sông Tiền Đường là vì “Thúy Kiều đã phải bán mình, phải hi sinh cả hạnh phúc của đời nàng, là tình yêu Kim Trọng ngày nay và cuộc sống chung với chàng ngày sau, phải dấn thân vào lầu xanh, cũng chỉ vì “tiền”. Lúc nàng tự tử để khỏi phải làm đệ tử của thần mày trắng, hơn lúc nào hết, nàng phải oán “tiền” vô cùng, vì, vì nó mà nàng phải kết liễu cuộc đời, giữa lúc nàng vừa bước chân vào thời xuân, sắc, với đầy yêu - chiều, được kính nể. Do đó mà “tiền” đã là một ngôi sao sáng trong tinh đoàn bạc mệnh, một hình ảnh bị đẩy lui mà toàn thể làm thành Mặc Cảm Bạc Mệnh trong Bản ngã của nàng. Khi Mặc Cảm này phải chọn một con sông để cho Thúy Kiều sẽ kết liễu cuộc đời ở đây, để dựng lên một định mệnh, khiến nàng tin vào đấy mà đừng tự tử nữa, mà nhẫn nhục chịu đựng cuộc đời đoạn trường sẽ đến với tin tưởng không có phương cách nào tránh được, thì hình ảnh tiền nổi bật lên trong các hình ảnh khác, đã làm cho Vô thức nàng liên tưởng đến sông Tiền Đường, mà chọn con sông này. Thêm vào đấy, vì muốn tạo ra một “tiền định” đến “Tiền Đường”, vì muốn tạo ra một “tiền đồ” đã được vạch sẵn bởi “nghiệp má đào, kiếp liễu bồ” của nàng, mà Vô thức của nàng đã chọn sông Tiền Đường, vì “Tiền” trong “Tiền Đường” đồng âm dị nghĩa với “tiền” trong danh từ trỏ lí do đoạn trường của nàng là “kim tiền”, lại “Đường” trong “Tiền Đường”, đồng nghĩa dị âm với “đồ” trong danh từ trỏ đối tượng mà Vô thức của nàng đang tạo ra, là “tiền đồ”, “đường” cũng có nghĩa là một đường đi (đường là bờ đê) như “đồ” vậy” [33; tr.100 - 102]. Bên cạnh đó là “Tú Bà đã đưa Thúy Kiều vào con đường dẫn nàng đến sự phạm vào trọng tội ấy, bằng một kĩ thuật vô cùng khoa học, khiến nàng tự dấn mình vào “chốn đoạn trường”, (…) nàng trở nên con người có Mặc cảm Tội lỗi, (…)
48
vào tình trng con nhà gia giáo, b nhà theo trai, b bt qu tang” [33;
tr.123]. Cũng b chi phi bi Mc Cm Bc Mệnh nên nàng đã không
thy tính cách ca Thúc Sinh, mi ngày đêm khuyên Thúc Sinh về thú
thc chuyn Thúc Sinh và nàng vi Hoạn Thư. Nàng đã không ngờ là đã t
đẩy chính nàng và người yêu nàng, như những miếng mi ngon, vào ming
một con sư tử đói! Mt ln nữa, nàng đã tự ớng nàng vào con đường
đoạn trường, để ri, mt ln na, tr thành gái lu xanh! [33; tr.142]
rồi sau đó việc nàng xui T Hải ra hàng cũng ch th giải nghĩa bằng
Mc Cm Bc Mnh phải hướng nàng đến điểm chót của con đường
đoạn trường ca nàng, sông Tiền Đường như chúng ta đã biết [33;
tr.146] nhưng đời tài hoaphải tính t tui cập kê đến tuổi ba mươi,
ngoài 30 tuổi, đời người con gái nếu còn “tàithì không còn “hoa” nữa. Có
l, vì thế mà Vô thc ca nàng mới đưa nàng đến điểm cui cùng của “đời
tài hoa bc mệnh”, sau mười lăm năm đoạn trường [33; tr.151 - 152]
mun thoát kiếp đoạn trường thì nàng phi t là phân tâm gia ca chính
nàng [33; tr.153 - 154] để t cha bệnh đổi mệnh cho mình. “Nguyên
nhân cuộc đời “rặt những đoạn trường” của Thúy Kiu là do chính nàng to
ra, chính nàng “khư khư buộc lấy mình vào trong” một th “Tình” sức
mnh lôi cuốn nàng như “ma quỉ” vào “những chốn đoạn trường”, không
cho nàng “ở yên n, ngi vững vàng” “những chốn thong dong”. Vậy cái
th “Tình” ấy là gì? Chính là “tình b đẩy lui” thành Mc Cm Bc Mnh
[33; tr.179 - 180]. Đồng thi Đàm Quang Thiện cho rằng: “Nếu như chúng
ta mun tìm một nhan đề ph cho “Đoạn Trường Tân Thanh” của Nguyn
Du, thì chúng ta có th để: Đoạn Trường Tân Thanh, truyn mt mc
cm tâm [33; tr.185 - 186]. Như vậy, vi ý thc ng dụng phương pháp
phân tâm hc mt cách triệt để trong nghiên cu của mình, Đàm Quang
Thiện đã “đụng tới” cả Freud, Janet Jung… nhưng chủ yếu ông vn
ng v Freud nhiều hơn. Tuy ông không tán thành cung cách làm vic
48 ở vào tình trạng con nhà gia giáo, bỏ nhà theo trai, bị bắt quả tang” [33; tr.123]. Cũng “vì bị chi phối bởi Mặc Cảm Bạc Mệnh nên nàng đã không thấy rõ tính cách của Thúc Sinh, mới ngày đêm khuyên Thúc Sinh về thú thực chuyện Thúc Sinh và nàng với Hoạn Thư. Nàng đã không ngờ là đã tự đẩy chính nàng và người yêu nàng, như những miếng mồi ngon, vào miệng một con sư tử đói! Một lần nữa, nàng đã tự hướng nàng vào con đường đoạn trường, để rồi, một lần nữa, trở thành gái lầu xanh!” [33; tr.142] rồi sau đó việc nàng xui Từ Hải ra hàng cũng “chỉ có thể giải nghĩa bằng Mặc Cảm Bạc Mệnh phải hướng nàng đến điểm chót của con đường đoạn trường của nàng, là sông Tiền Đường như chúng ta đã biết” [33; tr.146] nhưng vì “đời tài hoa” phải tính từ tuổi cập kê đến tuổi ba mươi, ngoài 30 tuổi, đời người con gái nếu còn “tài” thì không còn “hoa” nữa. Có lẽ, vì thế mà Vô thức của nàng mới đưa nàng đến điểm cuối cùng của “đời tài hoa bạc mệnh”, sau mười lăm năm đoạn trường” [33; tr.151 - 152] và muốn thoát kiếp đoạn trường thì “nàng phải tự là phân tâm gia của chính nàng” [33; tr.153 - 154] để tự chữa bệnh và đổi mệnh cho mình. “Nguyên nhân cuộc đời “rặt những đoạn trường” của Thúy Kiều là do chính nàng tạo ra, chính nàng “khư khư buộc lấy mình vào trong” một thứ “Tình” có sức mạnh lôi cuốn nàng như “ma quỉ” vào “những chốn đoạn trường”, không cho nàng “ở yên ổn, ngồi vững vàng” ở “những chốn thong dong”. Vậy cái thứ “Tình” ấy là gì? Chính là “tình bị đẩy lui” thành Mặc Cảm Bạc Mệnh” [33; tr.179 - 180]. Đồng thời Đàm Quang Thiện cho rằng: “Nếu như chúng ta muốn tìm một nhan đề phụ cho “Đoạn Trường Tân Thanh” của Nguyễn Du, thì chúng ta có thể để: “Đoạn Trường Tân Thanh, truyện một mặc cảm tâm lí” [33; tr.185 - 186]. Như vậy, với ý thức ứng dụng phương pháp phân tâm học một cách triệt để trong nghiên cứu của mình, Đàm Quang Thiện đã “đụng tới” cả Freud, Janet và Jung… nhưng chủ yếu ông vẫn hướng về Freud nhiều hơn. Tuy ông không tán thành cung cách làm việc
49
ca Trương Tửu nhưng vì ứng dng cùng mt lí thuyết với Trương Tửu nên
đôi chỗ phát ngôn ca ông không phải không “đồng thuận” với ý tưởng
của người mà ông ghét cay ghét đắng, coi là có “thú tính (…) trong người”
[33; tr.71].
Năm 1966, trong Thành ng - đin tích - danh nhân t đin Tp 1 do
mình t xut bn, tác gi Trịnh Vân Thanh cũng có nhắc đến phương pháp
phân tâm hc trong nghiên cứu văn học. Đây là một b sách có sc hp dn
nhất định miền Nam đương thời nên khi tp 2 chun b ra đời thì đã
ngay nhà xut bn nhn in vi s ng ln. Trong Tp 1, Trnh Vân Thanh
chia lch s tiếp nhn Truyn Kiu ra làm my chng vi các mc là: 1. T
khi xut hiện cho đến 1919, 2. T 1919 đến 1942 bắt đầu t khi Phm
Qunh ca ngi Truyn Kiu trên tp chí Nam Phong 3. T 1942 đến
1959. Theo Trnh Vân Thanh, chng th 3 này “cuc tranh lun này có v
khoa học hơn, áp dụng phương pháp phê bình Tây phương. Đại din cho
lớp người mi này có ông Nguyn Bách Khoa. Ông phê bình độc đoán
dùng duy vt bin chng để thẩm định giá tr Truyn Kiu (…). Nguyn
Bách Khoa, trong cun Văn chương Truyện Kiu đã phủ nhn giá tr văn
chương nghệ thut ca quyn truyn; ông cho rng cái hay ca Truyn
Kiu th dùng phân tích để m x, dùng khoa học để tìm cho ra ngn
ngun (...). C ba nhà phê bình [Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Nguyễn Bách
Khoa] đều t ra cực đoan. Thiên tài dù sao cũng có thể cắt nghĩa được,
th dùng phân tích để hiểu, nhưng có giới hn. Nguyễn Bách Khoa đã đi
t cực đoan này sang cc đoan khác, hoàn toàn dùng m x khoa học để
hiu một con người văn nghệ. Trong nhng nhn xét ca ông v sc so
nhưng phương pháp của ông máy móc quá, không thích hp cho mt công
việc đòi hỏi nhiu cm thông, ch quan hơn khách quan” [30; tr.265 -
268]. Đánh giá việc nhiều người cho rằng thơ Nôm truyền tng ca H
Xuân Hương cha chan nhng tính chất dâm đãng” và có người dùng li
49 của Trương Tửu nhưng vì ứng dụng cùng một lí thuyết với Trương Tửu nên đôi chỗ phát ngôn của ông không phải là không “đồng thuận” với ý tưởng của người mà ông ghét cay ghét đắng, coi là có “thú tính (…) trong người” [33; tr.71]. Năm 1966, trong Thành ngữ - điển tích - danh nhân từ điển Tập 1 do mình tự xuất bản, tác giả Trịnh Vân Thanh cũng có nhắc đến phương pháp phân tâm học trong nghiên cứu văn học. Đây là một bộ sách có sức hấp dẫn nhất định ở miền Nam đương thời nên khi tập 2 chuẩn bị ra đời thì đã có ngay nhà xuất bản nhận in với số lượng lớn. Trong Tập 1, Trịnh Vân Thanh chia lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều ra làm mấy chặng với các mốc là: 1. Từ khi xuất hiện cho đến 1919, 2. Từ 1919 đến 1942 bắt đầu từ khi Phạm Quỳnh ca ngợi Truyện Kiều trên tạp chí Nam Phong và 3. Từ 1942 đến 1959. Theo Trịnh Vân Thanh, ở chặng thứ 3 này “cuộc tranh luận này có vẻ khoa học hơn, áp dụng phương pháp phê bình Tây phương. Đại diện cho lớp người mới này có ông Nguyễn Bách Khoa. Ông phê bình độc đoán và dùng duy vật biện chứng để thẩm định giá trị Truyện Kiều (…). Nguyễn Bách Khoa, trong cuốn Văn chương Truyện Kiều đã phủ nhận giá trị văn chương và nghệ thuật của quyển truyện; ông cho rằng cái hay của Truyện Kiều có thể dùng phân tích để mổ xẻ, dùng khoa học để tìm cho ra ngọn nguồn (...). Cả ba nhà phê bình [Đào Duy Anh, Hoài Thanh, Nguyễn Bách Khoa] đều tỏ ra cực đoan. Thiên tài dù sao cũng có thể cắt nghĩa được, có thể dùng phân tích để hiểu, nhưng có giới hạn. Nguyễn Bách Khoa đã đi từ cực đoan này sang cực đoan khác, hoàn toàn dùng mổ xẻ khoa học để hiểu một con người văn nghệ. Trong những nhận xét của ông có vẻ sắc sảo nhưng phương pháp của ông máy móc quá, không thích hợp cho một công việc đòi hỏi nhiều cảm thông, chủ quan hơn là khách quan” [30; tr.265 - 268]. Đánh giá việc nhiều người cho rằng thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương “chứa chan những tính chất dâm đãng” và có người “dùng lối