Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại

2,466
890
91
20
Giám Sinh. Ông thấy, theo cách nghĩ của ông, “Kiều đã tính toán nhiều lm,
đã giữ gìn thân th không phải luân lí lợi “Nhị đào thả b cho
người tình chung” tiếng kêu rên ca mt xác tht tà dâm đang nguyn
rủa cái luân lí đã lừa nó. Trong s nh đến Kim Trng lần đầu này ca
Kiu, không gì là yêu Kim Trng, chung thy vi Kim Trng c. Nàng
ch yêu thân nàng, chung thy với căn tính dâm đãng ca nàng thôi! [44;
tr.308] và xét v tâm sáng to ngh thuật thì Nguyn Du viết ra không
ch để làm văn chương, không phải ch để din tâm sự, cũng không phải ch
để t thời đại ông. Nguyn Du viết Truyn Kiu để t gii thoát bng
cách t thc hin mình các vai trò, các cnh sng ca vai trò, cái
sân khấu trên đó tấn trò đã diễn đủ hồi, đủ lp [44; tr.317] và “Nguyn Du
đã đánh dấu được cá tính mình, thân thế mình, đẳng cp mình, thời đại
mình, v c ba phương din: sinh hoạt, tưởng và tâm . Đó một sinh
hot cn ci sáo lon, một tư tưởng nhát hèn và y m, mt tâm tùy
thi và ích k. Truyn Kiu là kết tinh ca ba yếu t suy đồi y[44; tr.341].
Trong phn cui công trình này, Nguyễn Bách Khoa như muốn đưa ra một
“tuyên ngôn khoa học” của riêng mình, và ta s thy ông làm vy không ch
mt ln - như một nét phong cách của ông, trong đó ông thể hin bn thân
mình “ch ý làm sáng một phương pháp nghiên cứu phê bình văn
hcphương pháp khách quan” trên cơ sở một thái độ gác b hết
nhng tình cm riêng, nhng thành kiếndư luận đã định giá thi sĩ kia
và thi phm kia, nhng oai quyền văn học đã làm hậu thun cho s định
giá y [44; tr. 339]. Nguyễn Bách Khoa cũng ch trương rằng: “Tôi bt
đầu ch phi bắt đầu, nghĩa là dt b cái ch quan ca tôi. Bình sinh, tôi
vn tin rng bt c vấn đề gì cũng là mt vấn đề “toán pháp”. Vấn đề
cũng chỉ là mt bài tính phi dùng toàn trí mà gii quyết, tình cm không
ăn nhập gì vào đó hết. (…) Tôi đã c gng áp dng óc khoa hc trong công
vic nghiên cu Nguyn Du Truyn Kiu. Thành công hay tht bi
20 Giám Sinh. Ông thấy, theo cách nghĩ của ông, “Kiều đã tính toán nhiều lắm, đã giữ gìn thân thể không phải vì luân lí mà vì tư lợi “Nhị đào thả bẻ cho người tình chung” là tiếng kêu rên của một xác thịt tà dâm đang nguyền rủa cái luân lí đã lừa nó. Trong sự nhớ đến Kim Trọng lần đầu này của Kiều, không có gì là yêu Kim Trọng, chung thủy với Kim Trọng cả. Nàng chỉ yêu thân nàng, chung thủy với căn tính dâm đãng của nàng thôi!” [44; tr.308] và xét về tâm lí sáng tạo nghệ thuật thì “Nguyễn Du viết ra không chỉ để làm văn chương, không phải chỉ để diễn tâm sự, cũng không phải chỉ để tả thời đại ông. Nguyễn Du viết Truyện Kiều là để tự giải thoát bằng cách tự thực hiện mình ở các vai trò, ở các cảnh sống của vai trò, ở cái sân khấu trên đó tấn trò đã diễn đủ hồi, đủ lớp” [44; tr.317] và “Nguyễn Du đã đánh dấu được cá tính mình, thân thế mình, đẳng cấp mình, thời đại mình, về cả ba phương diện: sinh hoạt, tư tưởng và tâm lí. Đó là một sinh hoạt cằn cỗi và sáo loạn, một tư tưởng nhát hèn và ủy mị, một tâm lí tùy thời và ích kỉ. Truyện Kiều là kết tinh của ba yếu tố suy đồi ấy” [44; tr.341]. Trong phần cuối công trình này, Nguyễn Bách Khoa như muốn đưa ra một “tuyên ngôn khoa học” của riêng mình, và ta sẽ thấy ông làm vậy không chỉ một lần - như một nét phong cách của ông, trong đó ông thể hiện bản thân mình có “chủ ý làm sáng một phương pháp nghiên cứu và phê bình văn học” là “phương pháp khách quan” trên cơ sở một thái độ “gác bỏ hết những tình cảm riêng, những thành kiến và dư luận đã định giá thi sĩ kia và thi phẩm kia, những oai quyền văn học đã làm hậu thuẫn cho sự định giá ấy” [44; tr. 339]. Nguyễn Bách Khoa cũng chủ trương rằng: “Tôi bắt đầu ở chỗ phải bắt đầu, nghĩa là dứt bỏ cái chủ quan của tôi. Bình sinh, tôi vẫn tin rằng bất cứ vấn đề gì cũng là một vấn đề “toán pháp”. Vấn đề gì cũng chỉ là một bài tính phải dùng toàn trí mà giải quyết, tình cảm không ăn nhập gì vào đó hết. (…) Tôi đã cố gắng áp dụng óc khoa học trong công việc nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều. Thành công hay thất bại là
21
tùy nơi thưởng thức và phán đoán của độc gi. Tôi ch đã làm hết nghĩa vụ
mt nhà phê bình vn tôn th khoa hc [44; tr.340]. Đứng trên quan điểm
mácxit - theo s t định v ca ông - ông không nói ra nhưng thực s đã
đứng v phe “ngh thut v nhân sinhkhi tuyên bố: “Theo đấy, ta s
mt nguyên tc thiết thc để phê bình nhân vt và phê bình văn chương.
Thy một người đi qua hay đc mt cun sách, ta s phi hi mt câu này
trước nhất: “Nó có ích gì không?” [44; tr.341]. Vic mt s nhà nghiên cu
trong giai đoạn sau coi Trương Tửu nói riêng nhóm Hàn Thuyên nói
chung là “mạo nhn xuyên tc ch nghĩa duy vật bin chứng” - bn
thân Trương Tửu có lúc không t nhận như vậy nhưng cũng có “t phê” :
Trong hai tp tiu luận văn học [Nguyn Du và Truyn Kiu (1943), Văn
chương Truyện Kiu (1944)] này, tôi đã cố gng phân tích phê phán
Truyn Kiu theo quan điểm đấu tranh giai cấp. Nhưng vì hồi ấy trình độ
lun còn ấu trĩ, lập trường chính tr còn lch lạc, tôi đã áp dụng phương
pháp phê bình văn học mácxit mt cách phiến diện, gò ép, máy móc, nên đã
có nhng nhận định sai lầm căn bản khi tìm hiu và phê bình tác phm ca
Nguyễn Du” [43; tr.419] - thì vn cn mt s nhìn nhn, đánh giá cẩn trng
và bình tĩnh hơn.
Năm 1943, trong Tâm lí và tư tưởng Nguyn Công Tr, Trương Tửu
vn trung thành với “đường lối” mà bản thân mình đã đề ra trước đó. Ông
vn gii thuyết rằng “kho cứu văn tài () là kho cu theo phương pháp
duy vt bin chng, cái phương pháp khoa học cao nht, hiu nghim
nhất trong tưởng gii hiện đại của loài người. Ngày nay, phương pháp
khoa hc phi phương pháp duy vật bin chng. Nếu không, s
không phải phương pháp khoa học na [44; tr.579] nhưng lối phê bình
hi hc ca ông lại mang đậm cht phân tâm học. Để gii ti sao
Nguyn Công Tr phung phí tâm hn đa tình của mình không nhm ch
ông thy cần “phải dò xét đến hoàn cnh xã hi ca Nguyn Công Tr lúc
21 tùy nơi thưởng thức và phán đoán của độc giả. Tôi chỉ đã làm hết nghĩa vụ một nhà phê bình vẫn tôn thờ khoa học” [44; tr.340]. Đứng trên quan điểm mácxit - theo sự tự định vị của ông - ông không nói ra nhưng thực sự đã đứng về phe “nghệ thuật vị nhân sinh” khi tuyên bố: “Theo đấy, ta sẽ có một nguyên tắc thiết thực để phê bình nhân vật và phê bình văn chương. Thấy một người đi qua hay đọc một cuốn sách, ta sẽ phải hỏi một câu này trước nhất: “Nó có ích gì không?” [44; tr.341]. Việc một số nhà nghiên cứu trong giai đoạn sau coi Trương Tửu nói riêng và nhóm Hàn Thuyên nói chung là “mạo nhận và xuyên tạc chủ nghĩa duy vật biện chứng” - và bản thân Trương Tửu có lúc không tự nhận như vậy nhưng cũng có “tự phê” là: “Trong hai tập tiểu luận văn học [Nguyễn Du và Truyện Kiều (1943), Văn chương Truyện Kiều (1944)] này, tôi đã cố gắng phân tích và phê phán Truyện Kiều theo quan điểm đấu tranh giai cấp. Nhưng vì hồi ấy trình độ lí luận còn ấu trĩ, lập trường chính trị còn lệch lạc, tôi đã áp dụng phương pháp phê bình văn học mácxit một cách phiến diện, gò ép, máy móc, nên đã có những nhận định sai lầm căn bản khi tìm hiểu và phê bình tác phẩm của Nguyễn Du” [43; tr.419] - thì vẫn cần một sự nhìn nhận, đánh giá cẩn trọng và bình tĩnh hơn. Năm 1943, trong Tâm lí và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Trương Tửu vẫn trung thành với “đường lối” mà bản thân mình đã đề ra trước đó. Ông vẫn giới thuyết rằng “khảo cứu văn tài (…) là khảo cứu theo phương pháp duy vật biện chứng, là cái phương pháp khoa học cao nhất, hiệu nghiệm nhất trong tư tưởng giới hiện đại của loài người. Ngày nay, phương pháp khoa học phải là phương pháp duy vật biện chứng. Nếu không, nó sẽ không phải là phương pháp khoa học nữa” [44; tr.579] nhưng lối phê bình xã hội học của ông lại mang đậm chất phân tâm học. Để lí giải tại sao Nguyễn Công Trứ “phung phí tâm hồn đa tình của mình không nhằm chỗ” ông thấy cần “phải dò xét đến hoàn cảnh xã hội của Nguyễn Công Trứ lúc
22
thiếu thikết qu Nguyn Công Tr “đẻ ln vào khong thi
gian bc cu cuc ni lon Nam Bc sang cuộc Đế chế (triu Nguyn).
Thiếu thi của ông chính là giai đoạn quá độ gia Phóng đãngTrt t
(nói riêng v địa ht tình cảm). Ai đã nghiên cứu nhng hi sau thi
loạn đều nhn thy rng những người va cuc khng hong ra không
sao đủ năng lực dt vi nhng ảnh hưởng tai hi ca cuc khng hong y
để thích ng ngay vi trt t mới được. (…) Cho nên, lúc lon lc, bn
năng tính dục ca cá nhân vụt phát ra như cơn lốc, không sc nào cản được.
Khi yên định rồi, thường thường s phóng đãng tình dục cũng còn di tích
li mãi. (…) Khong cui thế k XVIII x ta, trong thi Hu Tây
Sơn, xã hội cũng bầy ra trng huống phóng đãng y. Ảnh hưng ca trng
hung này là kích thích và gii thoát bn năng tình dục. Du vết còn ghi
lại trong văn chương hồi đó, ở tác phm ca ba thi nhân li lc và tiêu biu:
Nguyn Gia Thiu, H Xuân Hương, Nguyễn Du” [44; tr.625 - 626] ri
ông đi đến kết luận: Cht tình dc qu súc tích con người, cuc
sng và văn thơ Nguyễn Công Trứ” [44; tr.629].
Đương thời, cách nghiên cu phát ngôn của Trương Tửu thc s
gây ấn tượng cũng gây hn vi khá nhiu nhà nghiên cứu khác. Để
bin luận cho mình, ông xác định trước rằng: “Ai mun phản đối thì đứng
trên miếng đất văn học mà phản đối. Tôi rt vui lòng bút chiến vi nhng
ngưi thành thc làm vic cho văn học[44; tr.167] đặc bit là trong công
trình Văn chương Truyện Kiu (1945) ông gần như duyệt li mt lot ý
kiến trái chiu với mình trước đó. Trước tiên, ông khẳng định mình “không
“lp lại” cái lối phê bình văn chương Truyn Kiu các nhà văn học x
ta vẫn thường dùng mỗi khi nói đến cái hay cái đẹp ca Truyn Kiu[44;
tr.343] đồng thi ch ra hn chế ca hai cách tiếp nhn Truyn Kiu
trong đó một đằng quá thiên v phân tách, một đằng quá tin vào trc
giác: c hai đều ch làm ti thêm, nát thêm s “hiểu” Truyn Kiu. Đã
22 thiếu thời” và kết quả là Nguyễn Công Trứ “đẻ và lớn vào khoảng thời gian bắc cầu cuộc nội loạn Nam Bắc sang cuộc Đế chế (triều Nguyễn). Thiếu thời của ông chính là giai đoạn quá độ giữa Phóng đãng và Trật tự (nói riêng về địa hạt tình cảm). Ai đã nghiên cứu những xã hội sau thời loạn đều nhận thấy rằng những người vừa ở cuộc khủng hoảng ra không sao đủ năng lực dứt với những ảnh hưởng tai hại của cuộc khủng hoảng ấy để thích ứng ngay với trật tự mới được. (…) Cho nên, lúc loạn lạc, bản năng tính dục của cá nhân vụt phát ra như cơn lốc, không sức nào cản được. Khi yên định rồi, thường thường sự phóng đãng tình dục cũng còn di tích lại mãi. (…) Khoảng cuối thế kỉ XVIII ở xứ ta, trong thời Hậu Lê và Tây Sơn, xã hội cũng bầy ra trạng huống phóng đãng ấy. Ảnh hưởng của trạng huống này là kích thích và giải thoát bản năng tình dục. Dấu vết còn ghi lại trong văn chương hồi đó, ở tác phẩm của ba thi nhân lỗi lạc và tiêu biểu: Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du” [44; tr.625 - 626] rồi ông đi đến kết luận: “Chất tình dục quả là súc tích ở con người, ở cuộc sống và ở văn thơ Nguyễn Công Trứ” [44; tr.629]. Đương thời, cách nghiên cứu và phát ngôn của Trương Tửu thực sự gây ấn tượng và cũng “gây hấn” với khá nhiều nhà nghiên cứu khác. Để biện luận cho mình, ông xác định trước rằng: “Ai muốn phản đối thì đứng trên miếng đất văn học mà phản đối. Tôi rất vui lòng bút chiến với những người thành thực làm việc cho văn học” [44; tr.167] đặc biệt là trong công trình Văn chương Truyện Kiều (1945) ông gần như duyệt lại một loạt ý kiến trái chiều với mình trước đó. Trước tiên, ông khẳng định mình “không “lặp lại” cái lối phê bình văn chương Truyện Kiều mà các nhà văn học xứ ta vẫn thường dùng mỗi khi nói đến cái hay cái đẹp của Truyện Kiều” [44; tr.343] đồng thời chỉ ra hạn chế của hai cách tiếp nhận Truyện Kiều mà trong đó “một đằng quá thiên về phân tách, một đằng quá tin vào trực giác: cả hai đều chỉ làm tối thêm, nát thêm sự “hiểu” Truyện Kiều. Đã
23
không “hiểu” được nó, đã tin rằng “cái đẹp” của nó mt cht huyn o
không th giải thích được, tất nhiên người ta s “nhận” nó như một thc th
thiêng liêng bt h “không tin tuyt hậu”, tất nhiên người ta s ly s “có
nó” làm một vinh d quc gia, ly s tôn thờ” nó làm bn phn cao quý”
[44; tr. 344]. Ông ch động đối thoi vi những người khác như Nguyn
Văn Tố, Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân… “để t nay v sau khi có s hiu
lm” bởi theo ông, các nhà văn học ấy đã mang sn một ý định ch quan
khi bắt đầu nghiên cu Nguyn Du và Truyn Kiu, ri dng tâm gò ép các
s kin, các tài liu, các lun cho hp với ý định ch quan kia. (…) Điu
quan h đây, không phải là có hay không cái ch quan kia khi nghiên cu
và phê bình. Điều quan h ch quan y phn chiếu cái khách quan thc
ti nào trong hoàn cnh hội đang phát triển [44; tr.345]. Cũng trong
mạch đối thoại đó, ông làm một cuc lch duyt li lch s nghiên cu
Truyn Kiu nói chung lch s phê bình các công trình nghiên cu
Nguyn Bách Khoa” nói riêng.l trong lch s nghiên cu và phê bình
văn học Vit Nam, ông là mt trong s ít người đầu tiên lưu ý đến lch
s vấn đề- lưu ý đến mt cách nghiêm túc - t đó rút ra một s ý nghĩa
phương pháp luận cho công vic nghiên cu ca mình. Theo ông, tc
khi nói đến giá tr ngh thut ca Truyn Kiu, chúng ta hãy kiểm điểm lai
lch ni dung ca vấn đ Truyn Kiu, xem những người đi trước chúng ta
đã bước vào đó bằng ngõ nào ngách nào và đã ra khỏi đó bằng đường li
nào. S phê bình ngh thut Truyn Kiu s nt ra ngay cái quá trình phê
bình những người đã phê bình nó” [44; tr.347] và t đó “đi tìm một nguyên
tc vng chãi làm nn tng cho khoa phê bình văn học [44; tr.366]. Đi
trích dn một đoạn dài nhng li gii thích cái hay của văn chương
Truyn Kiu in ra t năm 1918” để “bn đọc có tài liu so sánh vi các li
bình lun Kiu t năm 1918 về sau. Nếu các bn theo dõi s bình phẩm văn
Truyn Kiu qua my nhà hc gi đứng đắn như Trần Trng Kim (1926),
23 không “hiểu” được nó, đã tin rằng “cái đẹp” của nó là một chất huyền ảo không thể giải thích được, tất nhiên người ta sẽ “nhận” nó như một thực thể thiêng liêng bất hủ “không tiền tuyệt hậu”, tất nhiên người ta sẽ lấy sự “có nó” làm một vinh dự quốc gia, lấy sự “tôn thờ” nó làm bổn phận cao quý” [44; tr. 344]. Ông chủ động đối thoại với những người khác như Nguyễn Văn Tố, Đinh Gia Trinh, Lê Huy Vân… “để từ nay về sau khỏi có sự hiểu lầm” bởi theo ông, “các nhà văn học ấy đã mang sẵn một ý định chủ quan khi bắt đầu nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều, rồi dụng tâm gò ép các sự kiện, các tài liệu, các lí luận cho hợp với ý định chủ quan kia. (…) Điều quan hệ ở đây, không phải là có hay không cái chủ quan kia khi nghiên cứu và phê bình. Điều quan hệ là chủ quan ấy phản chiếu cái khách quan thực tại nào trong hoàn cảnh xã hội đang phát triển” [44; tr.345]. Cũng trong mạch đối thoại đó, ông làm một cuộc lịch duyệt lại lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều nói chung và “lịch sử phê bình các công trình nghiên cứu Nguyễn Bách Khoa” nói riêng. Có lẽ trong lịch sử nghiên cứu và phê bình văn học ở Việt Nam, ông là một trong số ít người đầu tiên lưu ý đến “lịch sử vấn đề” - lưu ý đến một cách nghiêm túc - từ đó rút ra một số ý nghĩa phương pháp luận cho công việc nghiên cứu của mình. Theo ông, “trước khi nói đến giá trị nghệ thuật của Truyện Kiều, chúng ta hãy kiểm điểm lai lịch nội dung của vấn đề Truyện Kiều, xem những người đi trước chúng ta đã bước vào đó bằng ngõ nào ngách nào và đã ra khỏi đó bằng đường lối nào. Sự phê bình nghệ thuật Truyện Kiều sẽ nứt ra ở ngay cái quá trình phê bình những người đã phê bình nó” [44; tr.347] và từ đó “đi tìm một nguyên tắc vững chãi làm nền tảng cho khoa phê bình văn học” [44; tr.366]. Đi trích dẫn một đoạn dài “những lời giải thích cái hay của văn chương Truyện Kiều in ra từ năm 1918” để “bạn đọc có tài liệu so sánh với các lối bình luận Kiều từ năm 1918 về sau. Nếu các bạn theo dõi sự bình phẩm văn Truyện Kiều qua mấy nhà học giả đứng đắn như Trần Trọng Kim (1926),
24
Đào Duy Anh (1943), Dương Qung Hàm (1944), thì các bn s nhn thy
rằng các phương pháp c nhà đó dùng để bình luận văn chương
Truyn Kiu vẫn cái phương pháp đã dùng từ 1918. Cũng vẫn cái li
phân tích nhng cách t cnh, t tình, t ngưi, t thuật, đàm thoại, dùng
chữ, dùng điển ca Nguyn Du, ri thêm vào ít li bình phẩm như: thật
tài, tht khéo, hoặc “xét tâm rất rành”… “bút pháp rất gn gàng linh
động”… lời văn âm điệu du dương…[44; tr.367 - 368]. Đương thời Hoài
Thanh cho rng không th phân tách được cái đẹp ca Truyn Kiu bi
chính nó là biu th ca mt thiên tài, mà theo quan điểm ca Hoài Thanh
thì thiên tài là mt cái gì huyn vì nó thuc v địa ht u n ca linh hn,
của “tâm”, khoa học không th nào giải thích được. Hoài Thanh ch trương
“cái đẹp ca Đoạn trường tân thanh, cái chất thơ bàng bc trong c quyn
truyn cn phải được cm thy mt cách hn nhiên. C phân tách, c ging
gii s tan đi. Đến đây sẽ phi im hơi, phi nh c mi hòng nhn
thấy cái đẹp khi du dàng thùy m, khi tráng l huy hoàng” đồng thi phê
phán: “Vi ông Nguyễn Bách Khoa, cái cũng rõ ràng như hai ln hai
bn. Ông ng đâu rằng s thc huyn diu hơn nhiều, nht khi s
thực đó con ngưi Nguyễn Du. Ông đang tay phân tích con người
Nguyn Du chng khác gì một nhà bác sĩ phân tích thây ma trong phòng
m x. Thc tàn nhn! Và ng thực thô thiển!..” [44; tr.369 - 370].
Trương Tửu, bng niềm tin vào phương pháp khoa hc ca mình, đã phê
phán những người như Hoài Thanh rằng: “Những người tưởng mình có mt
trc giáchiểu được sâu xa hơn các nhà khoa học, thc ra, chnhng
ngưi lc hậu chưa đoạn tuyệt được vi cái lối “nhận thức” còn sót lại t
nhng thi thái c[44; tr.384] và t cho rằng Trong cun Nguyn Du
Truyn Kiu của tôi (đã xuất bn) có câu: Truyn Kiu ch là kết qu ca
những cái suy nhược trong ct tính Vit Nam (trang 338). trang 342, tôi li
viết: “Một xã hi m, một đng cp m, mt cá nhân m: Tt c Truyn Kiu
24 Đào Duy Anh (1943), Dương Quảng Hàm (1944), thì các bạn sẽ nhận thấy rằng các phương pháp mà các nhà đó dùng để bình luận văn chương Truyện Kiều vẫn là cái phương pháp đã dùng từ 1918. Cũng vẫn cái lối phân tích những cách tả cảnh, tả tình, tả người, tự thuật, đàm thoại, dùng chữ, dùng điển của Nguyễn Du, rồi thêm vào ít lời bình phẩm như: thật là tài, thật là khéo, hoặc “xét tâm lí rất rành”… “bút pháp rất gọn gàng linh động”… lời văn âm điệu du dương…” [44; tr.367 - 368]. Đương thời Hoài Thanh cho rằng không thể phân tách được cái đẹp của Truyện Kiều bởi chính nó là biểu thị của một thiên tài, mà theo quan điểm của Hoài Thanh thì thiên tài là một cái gì huyền bí vì nó thuộc về địa hạt u ẩn của linh hồn, của “tâm”, khoa học không thể nào giải thích được. Hoài Thanh chủ trương “cái đẹp của Đoạn trường tân thanh, cái chất thơ bàng bạc trong cả quyển truyện cần phải được cảm thấy một cách hồn nhiên. Cứ phân tách, cứ giảng giải nó sẽ tan đi. Đến đây sẽ phải im hơi, phải nhẹ bước mới hòng nhận thấy cái đẹp khi dịu dàng thùy mị, khi tráng lệ huy hoàng” đồng thời phê phán: “Với ông Nguyễn Bách Khoa, cái gì cũng rõ ràng như hai lần hai là bốn. Ông có ngờ đâu rằng sự thực huyền diệu hơn nhiều, nhất là khi sự thực đó là con người Nguyễn Du. Ông đang tay phân tích con người Nguyễn Du chẳng khác gì một nhà bác sĩ phân tích thây ma trong phòng mổ xẻ. Thực là tàn nhẫn! Và cũng thực là thô thiển!..” [44; tr.369 - 370]. Trương Tửu, bằng niềm tin vào phương pháp khoa học của mình, đã phê phán những người như Hoài Thanh rằng: “Những người tưởng mình có một “trực giác” hiểu được sâu xa hơn các nhà khoa học, thực ra, chỉ là những người lạc hậu chưa đoạn tuyệt được với cái lối “nhận thức” còn sót lại từ những thời thái cổ” [44; tr.384] và tự cho rằng “Trong cuốn Nguyễn Du và Truyện Kiều của tôi (đã xuất bản) có câu: “Truyện Kiều chỉ là kết quả của những cái suy nhược trong cốt tính Việt Nam” (trang 338). Ở trang 342, tôi lại viết: “Một xã hội ốm, một đẳng cấp ốm, một cá nhân ốm: Tất cả Truyện Kiều
25
đó”. Tôi đã đến kết lun y sau khi nghiên cu cái ý thc h đưc biu
hin trong Truyn Kiu. Ln này nghiên cu cái h thng hình thc ca
Truyn Kiu, tôi cũng vẫn li thấy đi đến kết lun y. Ý thc ca ngh sĩ quy
định hình thc ca tác phm này cho s suy nghĩ của những ai đã tưởng nhm
rng giá tr mt tác phm tht cht cha. Tôi thành thc hiến câu kết lun
ch mt giá tr thuật, mt giá tr v hình thc” [44; tr.412] đng thi
khẳng định chc chn rằng “Truyn Kiu là mt th văn chương đã mt v
trí phn tiến hóa lúc đương thời ca Nguyn Du. Nó cha chan mt cht tàn
héo, tiêu ma (chất thơ). Nó là kết tinh thn ca mt chặng đường suy đồi nht
trên tràng tiến hóa ca cá tính Việt Nam. Cái đẹp ca Truyn Kiu ngày
nay ch nhng tâm hn mun tht lùi mi th thưởng ngoạn được [44;
tr.416]. Có th nói những năm 1930 - 1945 giai đoạn Trương Tửu viết được
nhiều hơn cả trong s nghip nghiên cu phê bình ca mình. Nhìn t tiến trình
phát trin ca vic ng dng lí thuyết phân tâm hc trong nghiên cứu văn học
Việt Nam trung đại giai đoạn này, những điểm yếu và điểm mnh ca Nguyn
Văn Hanh Trương Tửu gần như giống nhau, khác chăng là Trương
Tu mi chuyện đồ s hơn, lớp lang hơn và cũng “hùng biện” hơn, nó thực s
hp dẫn nhưng không khỏi khiến người nghe lúc nghi hoc thm chí ý
mun tranh lun, phản đối. Kinh dch câu: Bt xut h đình, cữu”
(Không ra khi sân ngõ thì không có li). Có th thấy “lỗi” của Trương Tửu là
ông “ra khỏi sân ngõ” quá nhiều và quá hăng hái với lòng nhit thành ít ai
kp trong khi nhiều người khác chn gii pháp an toàn là tha mãn vi vic
“tắm ao nhà”. Những “vết xe đổ” và “quán tính văn học” của các ông cũng sẽ
kéo theo mt s “tàn dư” chính bản thân các ông (như trường hợp Trương
Tu) và trong nghiên cu của người khác (như trường hp Văn Tân, Nguyễn
Đức Bính, Đàm Quang Thiện, Trịnh Vân Thanh, Thanh Lãng…) trong giai
đon sau.
25 là ở đó”. Tôi đã đến kết luận ấy sau khi nghiên cứu cái ý thức hệ được biểu hiện trong Truyện Kiều. Lần này nghiên cứu cái hệ thống hình thức của Truyện Kiều, tôi cũng vẫn lại thấy đi đến kết luận ấy. Ý thức của nghệ sĩ quy định hình thức của tác phẩm này cho sự suy nghĩ của những ai đã tưởng nhầm rằng giá trị một tác phẩm thật là chặt chịa. Tôi thành thực hiến câu kết luận chỉ là một giá trị kĩ thuật, một giá trị về hình thức” [44; tr.412] đồng thời khẳng định chắc chắn rằng “Truyện Kiều là một thứ văn chương đã ở một vị trí phản tiến hóa lúc đương thời của Nguyễn Du. Nó chứa chan một chất tàn héo, tiêu ma (chất thơ). Nó là kết tinh thần của một chặng đường suy đồi nhất trên tràng kì tiến hóa của cá tính Việt Nam. Cái đẹp của Truyện Kiều ngày nay chỉ những tâm hồn muốn thụt lùi mới có thể thưởng ngoạn được” [44; tr.416]. Có thể nói những năm 1930 - 1945 là giai đoạn Trương Tửu viết được nhiều hơn cả trong sự nghiệp nghiên cứu phê bình của mình. Nhìn từ tiến trình phát triển của việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại giai đoạn này, những điểm yếu và điểm mạnh của Nguyễn Văn Hanh và Trương Tửu gần như giống nhau, có khác chăng là ở Trương Tửu mọi chuyện đồ sộ hơn, lớp lang hơn và cũng “hùng biện” hơn, nó thực sự hấp dẫn nhưng không khỏi khiến người nghe có lúc nghi hoặc thậm chí có ý muốn tranh luận, phản đối. Kinh dịch có câu: “Bất xuất hộ đình, vô cữu” (Không ra khỏi sân ngõ thì không có lỗi). Có thể thấy “lỗi” của Trương Tửu là ông “ra khỏi sân ngõ” quá nhiều và quá hăng hái với lòng nhiệt thành ít ai bì kịp trong khi nhiều người khác chọn giải pháp an toàn là thỏa mãn với việc “tắm ao nhà”. Những “vết xe đổ” và “quán tính văn học” của các ông cũng sẽ kéo theo một số “tàn dư” ở chính bản thân các ông (như trường hợp Trương Tửu) và trong nghiên cứu của người khác (như trường hợp Văn Tân, Nguyễn Đức Bính, Đàm Quang Thiện, Trịnh Vân Thanh, Thanh Lãng…) trong giai đoạn sau.
26
CHƯƠNG 2:
NHÌN LI VIC NG DNG LÍ THUYT
PHÂN TÂM HC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HC
VIT NAM TRUNG ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1975
2.1.Nhìn li vic ng dng thuyết phân tâm hc trong
nghiên cứu văn học Vit Nam trung đại giai đoạn 1945 - 1975
min Bc
Trong suốt 30 năm 1945 - 1975, lch s dân tc liên tiếp tri qua hai
cuc kháng chiến chng Pháp chống Mĩ. Trong khoảng thời gian đó,
tình hình kinh tế - chính tr - xã hội đã tác đng nhiều đến tình hình nghiên
cứu văn học ti Vit Nam và vic phân vùng Nam - Bắc trong giai đoạn
này có những cơ sở nhất định ca nó.
min Bc, sau 1945, do điu kin ca cuc kháng chiến chng Pháp,
mt s phương pháp nghiên cứu trước cách mng vẫn còn được s dng và
phương pháp phân tâm hc nm trong s đó. Năm 1951, trong công trình
Văn nghệ bình dân Vit Nam, Trương Tửu vn kiên trì ng dng lí tuyết
này vào nghiên cứu văn học dân gian nhng tác gi ông cho là “có
tính chất bình dân”. Theo ông “đặc tính ngh thut ca văn nghệ bình dân
Vit Nam” lng trong mt cái khung dâm”. Nhất truyn tiếu lâm
thì hoàn toàn ly s dâm làm xương sống ca mi ct truyn, mi hành vi,
mi nhân vật. Hình như về đim này người bình dân Vit Nam b n c
thái quá cho nên mi phn ng li táo bạo như vậy. Mt phn ln ca dao,
toàn th tiếu lâm, rt nhiều câu đố mà người ta gọi là “tục, c đến li chi
ra của người đàn bình dân, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, vô s thơ ca không
tên tác gi đã Xuân Hương hóa chng minh rằng cái “giống”, sự
“đực cái” quả là một kính tam lăng, s vt bên ngoài phi chiếu qua đó mới
lọt được vào đầu óc người bình dân Vit Nam.
26 CHƯƠNG 2: NHÌN LẠI VIỆC ỨNG DỤNG LÍ THUYẾT PHÂN TÂM HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI GIAI ĐOẠN 1945 - 1975 2.1.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại giai đoạn 1945 - 1975 ở miền Bắc Trong suốt 30 năm 1945 - 1975, lịch sử dân tộc liên tiếp trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Trong khoảng thời gian đó, tình hình kinh tế - chính trị - xã hội đã tác động nhiều đến tình hình nghiên cứu văn học tại Việt Nam và việc phân vùng Nam - Bắc trong giai đoạn này có những cơ sở nhất định của nó. Ở miền Bắc, sau 1945, do điều kiện của cuộc kháng chiến chống Pháp, một số phương pháp nghiên cứu trước cách mạng vẫn còn được sử dụng và phương pháp phân tâm học nằm trong số đó. Năm 1951, trong công trình Văn nghệ bình dân Việt Nam, Trương Tửu vẫn kiên trì ứng dụng lí tuyết này vào nghiên cứu văn học dân gian và những tác giả mà ông cho là “có tính chất bình dân”. Theo ông “đặc tính nghệ thuật của văn nghệ bình dân Việt Nam” là “lồng trong một cái khung “dâm”. Nhất là truyện tiếu lâm thì hoàn toàn lấy sự dâm làm xương sống của mọi cốt truyện, mọi hành vi, mọi nhân vật. Hình như về điểm này người bình dân Việt Nam bị ẩn ức thái quá cho nên mới phản ứng lại táo bạo như vậy. Một phần lớn ca dao, toàn thể tiếu lâm, rất nhiều câu đố mà người ta gọi là “tục”, cả đến lối chửi rủa của người đàn bà bình dân, nữ sĩ Hồ Xuân Hương, vô số thơ ca không kí tên tác giả đã Xuân Hương hóa… chứng minh rằng cái “giống”, sự “đực cái” quả là một kính tam lăng, sự vật bên ngoài phải chiếu qua đó mới lọt được vào đầu óc người bình dân Việt Nam.
27
Theo các nhà nhân chng học như Letorneau, thì x bán khai nào
cũng một nn văn chương huê tình - nhất là thơ. Và th thơ dâm y
thường thường sn phm ca ph n. N sĩ huê tình các dân tc Phi
Châu chiếm mt s ng khá ln. Phải chăng đó kết qu ca hin
ng n c mà Freud đã khám phá ra? Vì nhng dân bán khai, s giao
thip trai gái b quy định gt gao (có nhng cm k riêng v mục đó) nhu
cu sinh lí b kìm hãm (ph n li càng b kim chế khe khắt) nên văn thơ
dâm phát sinh như một sc phản động li xã hội chăng?” [44; tr.834 - 835].
Xét v các ngh sĩ “đã tiêu biểu được mt phn nào ý thức, thiên nghệ
thut của bình dân” Trương Tửu chn ra ba người là: H Xuân Hương,
Nguyn Khuyến, Tú Xương, trong đó “H Xuân Hương là một thiên tài đặc
bit Vit Nam và bình dân. Thiên tài y phát hin ra ba đặc tính: tr tình,
trào phúng, huê nguyt. Thơ Hồ Xuân Hương trữ tình đến ai hoài, trào
phúng đến cay chua, huê nguyệt đến dâm đãng (dâm đãng hiểu theo nghĩa
khoa hc ch không theo nghĩa luân lí). Trong ba đặc tính y, cái dâm
căn bản não trng H Xuân Hương. Hai đặc tính kia cũng nảy n i
ánh sáng của cái dâm đó.
Ta th nói như thế này: Cái nhãn quan độc nht ca H Xuân
Hương về s vt là mt nhãn quan dâm. Mi s, mi vật đều hiện ra, dưới
mt nàng, hình thù mt cái giống (đực hay cái) hay một tác động thuc v
ging. Nàng hình dung thế gii là s th hin muôn hình vn trng của đực
cái, ca giao cu, ca khoái lc tình dc. Hnh phúc H Xuân Hương là cả
mt trạng thái động tình không ngt[44; tr.841]. Da vào nhng mnh v
tiu s và s tư liệu ít i v n sĩ họ H, ông nhanh chóng “hình dung” và
“lp h lưu” vi một thái độ không phải là không có lúc “rụt rè” để chia
cuộc đời thành ba chặng:“Hi nh và thiếu thi, H Xuân Hương sống
cuộc đời một gái quê tương đối nghèo. Nàng xut thân mt tng lp
bình dân. Điều này rt quan trng. Nó giúp ta biết tâm hn H Xuân Hương
27 Theo các nhà nhân chủng học như Letorneau, thì ở xứ bán khai nào cũng có một nền văn chương huê tình - nhất là thơ. Và thứ thơ dâm ấy thường thường là sản phẩm của phụ nữ. Nữ sĩ huê tình ở các dân tộc Phi Châu chiếm một số lượng khá lớn. Phải chăng đó là kết quả của hiện tượng ẩn ức mà Freud đã khám phá ra? Vì ở những dân bán khai, sự giao thiệp trai gái bị quy định gắt gao (có những cấm kị riêng về mục đó) nhu cầu sinh lí bị kìm hãm (phụ nữ lại càng bị kiềm chế khe khắt) nên văn thơ dâm phát sinh như một sức phản động lại xã hội chăng?” [44; tr.834 - 835]. Xét về các nghệ sĩ “đã tiêu biểu được một phần nào ý thức, thiên tư nghệ thuật của bình dân” Trương Tửu chọn ra ba người là: Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, trong đó “Hồ Xuân Hương là một thiên tài đặc biệt Việt Nam và bình dân. Thiên tài ấy phát hiện ra ở ba đặc tính: trữ tình, trào phúng, huê nguyệt. Thơ Hồ Xuân Hương trữ tình đến ai hoài, trào phúng đến cay chua, huê nguyệt đến dâm đãng (dâm đãng hiểu theo nghĩa khoa học chứ không theo nghĩa luân lí). Trong ba đặc tính ấy, cái dâm là căn bản não trạng Hồ Xuân Hương. Hai đặc tính kia cũng nảy nở dưới ánh sáng của cái dâm đó. Ta có thể nói như thế này: Cái nhãn quan độc nhất của Hồ Xuân Hương về sự vật là một nhãn quan dâm. Mọi sự, mọi vật đều hiện ra, dưới mắt nàng, ở hình thù một cái giống (đực hay cái) hay một tác động thuộc về giống. Nàng hình dung thế giới là sự thể hiện muôn hình vạn trạng của đực cái, của giao cấu, của khoái lạc tình dục. Hạnh phúc Hồ Xuân Hương là cả một trạng thái động tình không ngớt” [44; tr.841]. Dựa vào những mảnh vỡ tiểu sử và số tư liệu ít ỏi về nữ sĩ họ Hồ, ông nhanh chóng “hình dung” và “lập hồ sơ lưu” với một thái độ không phải là không có lúc “rụt rè” để chia cuộc đời bà thành ba chặng:“Hồi nhỏ và thiếu thời, Hồ Xuân Hương sống cuộc đời một cô gái quê tương đối nghèo. Nàng xuất thân ở một tầng lớp bình dân. Điều này rất quan trọng. Nó giúp ta biết tâm hồn Hồ Xuân Hương
28
bt r khá sâu đời sống văn nghệ bình dân. Nàng không còn xa l gì vi
nhng câu hát, ca dao phong tình, vi nhng truyn tiếu lâm, vi nhng
câu đố “thanh tục, tục thanh” - nhất là “tục mà thanh” (…). Não
trng H Xuân Hương bị khuôn đúc trong cái ảnh hưởng quyết định y. Li
t s vt diễn đạt tâm tình cũng như li biu hin và phô din của nàng đều
mang nng du n sâu sc ca th cách bình dân đó” [44; tr.842 - 843];
Tui thanh niên ca H Xuân Hương tm gi trong hoàn cnh xã hi suy
đọa (…). Lòng khát sng, thèm hnh phúc người đàn bà phiêu lưu đó, kết
tinh li thành mt ham mun nhc tình sôi ni. Đời H Xuân Hương, tựu
trung, ch mt s tìm chng. L nhiên, trong sự kết tinh y, tính cht
đặc bit của cơ thể nàng, ca di truyền cũng có tham d mt phn khá ln.
Nhưng về đim này ta không tài liệu để nghiên cu nên không nói
được. điu chc chn là: Trong mt thời như thế, người đàn sống
mt cuộc đời như thế thì không sao tránh được ảnh hưởng ca hoàn cnh
v phương diện phát trin tình dc. Cái hình nh mt thiếu n dâm đãng,
xuân tình sớm đng, chy theo mng lứa đôi tràn trụa nhng nét nhc dc
ng khoái lc xác thịt đến đã đời, rồi chán chường rên xiết ai oán bt
mãn - tôi muốn nói đến Kiu ca Nguyn Du - hình ảnh đó cũng được
cu to trong thc tế ca thi H Xuân Hương. phản nh mt cái
thc trong xã hi Vit Nam cui thế k XVIII [44; tr.843]; “Lúc đứng tui
xế bóng, H Xuân Hương sống bt mãn trong mt hội đang đưc
triu Nguyn dng li nn nếp phong kiến cht ch. Tâm hn phóng đãng,
tính nết lng tằng, đời sng lung tung ca H Xuân Hương đã nghẹt th
trong trng thái hi phong kiến khôi phc y. (…) S n c sinh
tâm , H Xuân Hương, càng thêm nặng nề” [44; tr.844]. Dù cho Trương
Tu c gắng “cài” đon kết rằng: “Cái cười, cái bun, cái nh, cái gin
thi đều tính cách tiếu lâm, câu đố, ca dao huê nguyệt và đều chng
28 bắt rễ khá sâu ở đời sống văn nghệ bình dân. Nàng không còn xa lạ gì với những câu hát, ca dao phong tình, với những truyện tiếu lâm, với những câu đố “thanh mà tục, tục mà thanh” - nhất là “tục mà thanh” (…). Não trạng Hồ Xuân Hương bị khuôn đúc trong cái ảnh hưởng quyết định ấy. Lối tả sự vật diễn đạt tâm tình cũng như lối biểu hiện và phô diễn của nàng đều mang nặng dấu ấn sâu sắc của thể cách bình dân đó” [44; tr.842 - 843]; “Tuổi thanh niên của Hồ Xuân Hương tắm gội trong hoàn cảnh xã hội suy đọa (…). Lòng khát sống, thèm hạnh phúc ở người đàn bà phiêu lưu đó, kết tinh lại thành một ham muốn nhục tình sôi nổi. Đời Hồ Xuân Hương, tựu trung, chỉ là một sự tìm chồng. Lẽ dĩ nhiên, trong sự kết tinh ấy, tính chất đặc biệt của cơ thể nàng, của di truyền cũng có tham dự một phần khá lớn. Nhưng về điểm này ta không có tài liệu để nghiên cứu nên không nói rõ được. Có điều chắc chắn là: Trong một thời như thế, người đàn bà sống một cuộc đời như thế thì không sao tránh được ảnh hưởng của hoàn cảnh về phương diện phát triển tình dục. Cái hình ảnh một thiếu nữ dâm đãng, xuân tình sớm động, chạy theo mộng lứa đôi tràn trụa những nét nhục dục hưởng khoái lạc xác thịt đến đã đời, rồi chán chường rên xiết ai oán vì bất mãn - tôi muốn nói đến cô Kiều của Nguyễn Du - hình ảnh đó cũng được cấu tạo trong thực tế của thời Hồ Xuân Hương. Nó phản ảnh một cái có thực trong xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XVIII” [44; tr.843]; “Lúc đứng tuổi và xế bóng, Hồ Xuân Hương sống bất mãn trong một xã hội đang được triều Nguyễn dựng lại nền nếp phong kiến chặt chẽ. Tâm hồn phóng đãng, tính nết lằng tằng, đời sống lung tung của Hồ Xuân Hương đã nghẹt thở trong trạng thái xã hội phong kiến khôi phục ấy. (…) Sự ẩn ức sinh lí và tâm lí, ở Hồ Xuân Hương, càng thêm nặng nề” [44; tr.844]. Dù cho Trương Tửu cố gắng “cài” ở đoạn kết rằng: “Cái cười, cái buồn, cái nhớ, cái giận ở thi sĩ đều có tính cách tiếu lâm, câu đố, ca dao huê nguyệt và đều chống
29
đối tc l hay ý thc h phong kiến [44; tr.848] thì vn không th g b
du n ca phương pháp phân tâm hc trong công trình nghiên cu này.
Năm 1956, trong công trình Truyn Kiu thời đại Nguyn Du,
Trương Tửu làm mt cuc tng duyt li giá tr ca Truyn Kiu i góc
nhìn giai cấp trong đó ông không thể không nhìn li công vic ca
những người nghiên cứu trong giai đoạn trước - bao gm c bn thân mình.
Như chúng ta đã nói đến trên, ông “phản tư” không thương tiếc vi
nhng gì viết ra trước đây, cho rằng hai cun Nguyn Du và Truyn Kiu
(1942) và cun Văn chương Truyện Kiu (1945) “đã cố gng phân tích
phê phán Truyn Kiu theo quan điểm đấu tranh giai cp nhưng
“trình độ lun còn ấu trĩ, lập trường chính tr còn lch lcnên “đã áp
dụng phương pháp phê bình văn học mácxit mt cách phiến din, ép,
máy móc, nên “đã có những nhận định sai lầm căn bản khi tìm hiu và phê
bình tác phm ca Nguyn Du. T sau Cách mạng tháng Tám, được hc
tp thêm luận văn nghệ Mác -nin - Mao Trạch Đôngông “đã nhận
thy những điều sai lm trong quyn Nguyn Du Truyn Kiu”. Trong
giáo trình văn học s Vit Nam ging D b đại học và Đại học Sư phạm
giai đoạn 1952 - 1955 ông “đã có dịp chnh lí li những điều y” đồng thi
“tiếp thu ý kiến ông Trường Chinh” ông “t nghĩ đã tìm thấy cái lí do khiến
nông dân Vit Nam say mê Truyn Kiu t trước đến gi (…) là: Tác gi
Truyn Kiu, đứng v phía các tng lp nhân dân chng phong kiến
đương thời, đã phản nh trung thành ca tng nhit lit mt cuc khi
nghĩa đại nht ca nông dân Vit Nam trong lch s - cuc khởi nghĩa
Tây Sơn với tt c những ưu và nhược điểm ca [44; tr.419]. Xác định
trước Tp tiu lun này mt thí nghim gii thích phê phán Truyn
Kiu theo quan điểm i trên” [44; tr.420], bn thân Trương Tửu - ging
như một s nhà nghiên cu đương thời - đã ph nhn mình khá triệt để
ông nhìn mình như một người khác. Ông coi Nguyn Du Truyn Kiu
29 đối tục lệ hay ý thức hệ phong kiến” [44; tr.848] thì vẫn không thể gỡ bỏ dấu ấn của phương pháp phân tâm học trong công trình nghiên cứu này. Năm 1956, trong công trình Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du, Trương Tửu làm một cuộc tổng duyệt lại giá trị của Truyện Kiều dưới góc nhìn giai cấp và trong đó ông không thể không nhìn lại công việc của những người nghiên cứu trong giai đoạn trước - bao gồm cả bản thân mình. Như chúng ta đã nói đến ở trên, ông “phản tư” không thương tiếc với những gì viết ra trước đây, cho rằng hai cuốn Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942) và cuốn Văn chương Truyện Kiều (1945) dù “đã cố gắng phân tích và phê phán Truyện Kiều theo quan điểm đấu tranh giai cấp” nhưng vì “trình độ lí luận còn ấu trĩ, lập trường chính trị còn lệch lạc” nên “đã áp dụng phương pháp phê bình văn học mácxit một cách phiến diện, gò ép, máy móc”, nên “đã có những nhận định sai lầm căn bản khi tìm hiểu và phê bình tác phẩm của Nguyễn Du. Từ sau Cách mạng tháng Tám, được học tập thêm lí luận văn nghệ Mác - Lê nin - Mao Trạch Đông” ông “đã nhận thấy những điều sai lầm trong quyển Nguyễn Du và Truyện Kiều”. Trong giáo trình văn học sử Việt Nam giảng ở Dự bị đại học và Đại học Sư phạm giai đoạn 1952 - 1955 ông “đã có dịp chỉnh lí lại những điều ấy” đồng thời “tiếp thu ý kiến ông Trường Chinh” ông “tự nghĩ đã tìm thấy cái lí do khiến nông dân Việt Nam say mê Truyện Kiều từ trước đến giờ (…) là: Tác giả Truyện Kiều, đứng về phía các tầng lớp nhân dân chống phong kiến ở đương thời, đã phản ảnh trung thành và ca tụng nhiệt liệt một cuộc khởi nghĩa vĩ đại nhất của nông dân Việt Nam trong lịch sử - cuộc khởi nghĩa Tây Sơn với tất cả những ưu và nhược điểm của nó” [44; tr.419]. Xác định trước “Tập tiểu luận này là một thí nghiệm giải thích và phê phán Truyện Kiều theo quan điểm nói trên” [44; tr.420], bản thân Trương Tửu - giống như một số nhà nghiên cứu đương thời - đã phủ nhận mình khá triệt để và ông nhìn mình như một người khác. Ông coi Nguyễn Du và Truyện Kiều