Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại
2,460
890
91
10
nó vẫn mang tính chất tính dục. Và như vậy, sự tìm tòi sẽ không đưa lại kết
quả đáng ra có thể đạt được. Chẳng hạn như ta thấy trong trường hợp của
bệnh tâm thần ám ảnh. 3 Xung đột tự thăng hoa, nó tách hẳn mục tiêu tính
dục, và tính tò mò được tự do hoạt động để theo đuổi những lợi ích tinh
thần” [26; tr.183 - 188].
1.2.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong
nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại giai đoạn 1900 - 1945
Đầu thế kỉ XX, cùng với quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam,
lĩnh vực nghiên cứu phê bình cũng dần được hiện đại hóa, cùng với đó là
việc du nhập các lí thuyết, phương pháp mới vào nghiên cứu và phê bình
văn học trong đó có lí thuyết phân tâm học. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, các
công trình nghiên cứu mới dừng lại ở việc phục dựng và phác họa một số
nét về các đối tượng nghiên cứu thông qua tư liệu sáng tác mà công trình
Giai nhân di mặc của Nguyễn Hữu Tiến là một ví dụ tiêu biểu. Công trình
in năm 1917 này có thể xem như cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về tiểu sử
và thơ ca Hồ Xuân Hương - một đối tượng quan trọng của phương pháp
phân tâm học sau này. Giống như một số công trình nghiên cứu thời kì đầu,
công trình của Nguyễn Hữu Tiến vừa làm công việc ghi chép, nghiên cứu
về tiểu sử Hồ Xuân Hương, vừa bình chú thơ văn bà dựa vào nguồn thơ
Nôm truyền tụng. Trong phần lời dẫn của cuốn sách, Nguyễn Hữu Tiến đặt
mục tiêu: “Trước là làm một truyện kỉ niệm người tài nữ nước Nam mình,
sau là ghi chép lấy những bài thơ này, để cho biết lối văn chương nước Nam
mình cũng lắm điều tài tình xuất sáo” [30; tr.3]. Với một tư duy khá đơn
giản theo lối suy diễn, ông nói “chắc như đinh đóng cột” rằng: “Nàng ấy
thiên tư đĩnh ngộ thông minh như vậy, nhưng mẹ nàng ấy nghĩ rằng: Con
gái học hay chữ cũng chả làm gì, biết chữ lắm ngày sau chỉ viết thư cho giai
nhiều; mới bắt nàng ấy về không cho học nữa. Nhưng nàng ấy ở nhà vẫn
11
ham về sự học hành văn thơ, cứ học ngấm ngầm bao giờ cũng không biết.
Ngày qua tháng lại, xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê, trông ra dáng điệu
tầm thước, mặt hơi rỗ hoa, mà da hơi ngăm đen, thoạt trông thì không
đẹp, mà lại có duyên thầm” [39; tr.9] và từ sự suy diễn đó sẽ đẫn đến những
suy diễn khác kiểu: “Trong làng cũng nhiều người đến hỏi, nhưng nàng ấy
không thuận ai cả” [39; tr.11]. Nguyễn Hữu Tiến không biết rằng những kết
luận của mình vô tình đã trở thành căn cứ cho rất nhiều nghiên cứu về thơ
Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương theo hướng phân tâm học trong giai
đoạn sau mà Trương Tửu, Nguyễn Văn Hanh có lẽ là những người đầu tiên.
Năm 1936, trên báo Tiến hóa số 1, Trương Tửu viết bài Cái ám ảnh của Hồ
Xuân Hương và lập luận rằng chính dục tình không được thỏa mãn đã
khiến Hồ Xuân Hương mắc bệnh thần kinh. Do những luận điểm này sẽ
được ông phát triển trong một công trình “bề thế” hơn (Văn nghệ bình dân
Việt Nam) nên Luận văn sẽ nhắc đến nhà nghiên cứu này trong giai đoạn
sau. Cùng trong năm 1936, trong Hồ Xuân Hương - Tác phẩm, thân thế và
văn tài ông Nguyễn Văn Hanh cho rằng: “Người nàng mong trông tìm
muốn lấy vợ giàu, nàng lại không giàu, muốn lấy vợ có sắc, nàng lại kém
sắc, muốn lấy vợ mỏng manh yếu đuối, nàng lại phốp pháp nghịch cợm,
muốn lấy vợ không học, nàng lại thông minh và giỏi thơ. Rồi nàng bực
tức sanh kiêu ngạo” [10; tr.67]. Theo cách nói của Nguyễn Văn Hanh: “Dục
tình ngày càng tăng, càng nén lại càng bồng bột. Ngày qua tháng qua sức đã
nén, dồn ép tình dục càng tăng và sự cần kia càng khẩn cấp. Kết quả: Xuân
Hương khủng hoảng tình dục, khủng hoảng nặng sẽ kết bệnh thần kinh
(…). Xuân Hương không bao giờ thỏa thích dục vọng, nàng bị dồn ép luôn
luôn. Nàng bị bệnh thần kinh. Dục tình chiếm cả đầu óc, ám ảnh nàng mãi.
Nó nhuộm thấm cái tư tưởng của nàng. Bao nhiêu thơ của Xuân Hương đều
biểu lộ sự khát khao, sự bất mãn. Dục tình biến chuyển qua mĩ thuật thơ
văn” [37; tr.227]. Những lập luận của Nguyễn Văn Hanh quả thực mới chỉ
12
là những bước đầu tiên trên hành trình ứng dụng phương pháp phân tâm học
vào nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại và lộ ra tất cả những gì là sơ sài,
máy móc và cứng nhắc khó tránh của nó nhưng khắc phục điều đó không
phải là việc làm được trong ngày một ngày hai.
Sang đến năm 1940, trong Kinh thi Việt Nam, sau khi xác định
“chúng ta cũng có một Kinh thi quý giá không kém gì Kinh thi của người
Tàu. Bổn phận chúng ta ngày nay là ghi chép nó, san định nó, chú thích nó,
như Chu Công đã ghi chép, Khổng Tử đã san định, Chu Hi đã chú thích
Kinh thi của Trung Hoa” [44; tr.688], Trương Tửu lại trở về áp dụng Freud
vào phân tích mảng ca dao mà ông gọi là “ca dao dâm tục” và bộ phận thơ
Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương: “Cái óc Việt Nam lúc nào cũng có
cái hình tục tĩu kia ám ảnh đến nỗi cái hình ấy đã thành cái khuôn, bao
nhiêu ngoại vật phải chiếu qua nó, rồi mới vào được trong đầu (…). Không
có giả thuyết cho rằng não trạng ấy là một di tích của một tôn giáo thờ sự
sinh đẻ thì làm sao mà cắt nghĩa được nó? Làm sao cắt nghĩa được Hồ
Xuân Hương, cái thiên tài hiếu dâm đến cực điểm kia? Bất kì tả cảnh gì,
vật gì, nàng cũng tả qua cái khung dâm, cái giống” [37; tr.227]. Tuy nhiên,
bề thế, đầy đặn và hệ thống hơn cả trong giai đoạn này là công trình
Nguyễn Du và Truyện Kiều của Trương Tửu (1942). Với bút danh Nguyễn
Bách Khoa, Trương Tửu đã chuyển sang phương pháp phê bình “duy vật
biện chứng mácxit” như ông tự xác định, nhưng trong Nguyễn Du và
Truyện Kiều vẫn còn những ảnh hưởng của Freud dù cho nó có hạn chế là
quá đề cao con người bản năng mà bỏ qua các yếu tố văn hóa, xã hội.
Nguyễn Bách Khoa trước tiên đã phủ nhận cách nghiên cứu của những
người như Đào Duy Anh mà theo ông là “không vượt khỏi cái luận điệu cổ
điển” [44; tr.186] trong nghiên cứu Truyện Kiều trước đó. Áp dụng các lí
thuyết mới về tâm lí học phương Tây, ông cho rằng: “Các nhà tâm lí học
hiện đại đều công nhận rằng cá tính đặc xuất của một người không ở cõi
13
hữu thức mà chính là ở tiềm thức của người ấy” [44; tr.188] và “phần
nhiều ta chỉ sống theo bản ngã hữu thức, theo khuôn phép của luân lí, dư
luận, phong tục. Khi nào ngoại giới động đến một điểm sống tha thiết với
sự tồn tại của bản thân thì tiềm thức mới nổi dậy, quẳng hết các sức đè nén
của hữu thức, hiện ra nguyên hình. Phút đó ta chỉ còn là tay sai của cá tính,
nghĩa là của tiềm thức (…) cho nên từ xưa đến nay, những nghệ sĩ thiên tài
thường tin rằng, bao nhiêu tác phẩm siêu việt nhất của họ đều được sáng
tạo trong lúc thần minh nhập vào họ, chi phối tâm hồn họ” [44; tr.190].
“Chính thực thì vị thần minh thiêng liêng kia chỉ là cá tính của người nghệ
sĩ đó thôi. Nó không ở đâu bay lại cả. Nó vẫn nằm dưới đáy tiềm thức của
người nghệ sĩ. Nó đã nhờ sức kích động của hiện tượng sáng tạo mà bột
phát ra, thình lình và tàn bạo” [44; tr.190 - 191]. Từ đó ông xác định bổn
phận nhà phê bình là “không phải chỉ đi tìm tâm sự nhà văn trong tác
phẩm văn chương. Nhà phê bình cần phải tìm hiểu đến cá tính nhà văn -
vì cái này mới là tất cả nhà văn. Cái này mới thành thực, mới không bị che
đậy hoặc xuyên tạc. Nó là cái phần sâu thẳm nhất, tiềm tàng nhất, mạnh mẽ
nhất của cơ thể, của khối óc, của tâm hồn. Cá tính, đó mới là cái phần cống
hiến riêng của nhà văn đem dâng trong linh từ văn học” [44; tr.191]. Trong
công trình này, như đã nói ở trên, do xác định làm việc dưới ánh sáng của
phương pháp phê bình “duy vật biện chứng mácxit” nên ông cho rằng các
tác giả “ngoài sức điều khiển gắt gao của đẳng cấp xã hội, yếu tố sinh lí, di
truyền đời nọ qua đời kia, còn phải chịu sức chi phối của hoàn cảnh thiên
nhiên nữa. Hoàn cảnh thiên nhiên tức là quê quán, khí hậu, thổ ngơi, thảo
mộc, vị trí địa dư và lịch sử” [44; tr.197 - 198] trong đó “cá nhân cũng
không thể nào vượt ra ngoài cái phạm vi của thời đại mình đã ấn định cho.
Trình độ kinh tế, tình trạng chính trị xã hội, khả năng hoạt động của đẳng
cấp, kĩ thuật đương thời… đó là những cái khuôn đanh thép đóng khung
sức hành tàng của cá nhân” [44; tr.199] và ông xác định vấn đề ở thời đại
14
của Nguyễn Du là vấn đề giai cấp mà trong đó “suốt một thời gian lịch sử,
khoảng đầu thế kỉ XVIII, bọn sĩ phu vẫn hiệp lực với nông dân để diệt
Trịnh, nhân danh phù Lê để hành đạo. Thấy dân chúng nổi lên như sóng
triều, bọn sĩ phu phải vội liên hiệp ngay với bọn quân nhân đã điêu tàn để
ngăn lại. Từ cuối thế kỉ XVII ở xã hội ta, bọn thương nhân đã có thế lực
lắm rồi, họ đã có đủ cả phẩm lẫn lượng để thành một đẳng cấp. Bị thương
nhân và nông dân chung sức đánh mình, bọn sĩ phu và bọn chúa Trịnh phải
cố kết lấy nhau” [44; tr.229]. Dựa vào những cứ liệu lịch sử, ông cho rằng
có một “nhận xét quan trọng” là “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh”
[44; tr.236] và các nhân vật trong Truyện Kiều là sự thể hiện những giấc
mơ của nhà thi sĩ. Theo cách lập luận đó, với Kim Trọng, “thi sĩ đã sống
dồi dào trong cuộc sống của nhân vật tiểu thuyết ấy. Nhưng dù sao Kim
Trọng cũng chưa là toàn thể cá tính Nguyễn Du” [44; tr.278].
Theo Nguyễn Bách Khoa, khi nghiên cứu “ta phải áp dụng cái
nguyên tắc mà bác sĩ Freud đã phát minh ra để nghiên cứu các giấc mộng.
Theo bác sĩ thì mỗi người chúng ta đều có những thèm thuồng không được
xã hội cho phép thỏa mãn. Những thèm thuồng ấy bị dồn vào trong cùng
tâm hồn, nhưng vẫn nằm im đó chứ không tiêu tán. Nếu trong người chúng
ta số thèm thuồng bị dồn nén kia cứ một ngày một nhiều thêm lên, hoặc có
cái thèm thuồng nào đó cứ một ngày một mãnh liệt, càng bị dồn ép càng tập
trung sức bùng nổ, thì tâm hồn ta sẽ là sân khấu thường trực của mộng mị -
những mộng mị đồng thể chất với những thèm thuồng bị dồn ép. (…) Cho
nên bác sĩ Freud đã thiết lập được nguyên tắc nhận xét này: Mộng mị là
những hiện tượng tâm lí vô thức tố giác đúng nhất cái tính khí căn bản của
một người. (…) Theo điều nhận xét của Freud thì ta có thể nói rằng: ở một
nhà văn, ước vọng là hiện thân của tính khí thực bị dồn ép không được
quyền phát triển” [44; tr.278 - 279] và “trong Từ Hải, Nguyễn Du đã sống
một nguyện vọng thầm kín của mình. Với Từ Hải, Nguyễn Du đã làm một
15
vị anh hùng trong tưởng tượng…” [44; tr.281]. “Suốt thời kì phụng sự tân
triều (18 năm), lòng kiêu ngạo của ông bị dồn ép dưới một mặt nạ khuất
phục, lãnh đạm, sợ sệt… nó bị dồn ép cho đến khi ông gặp được Từ Hải
trong cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân. Ông liền phóng cái kiêu
ngạo thầm kín ấy vào con người, vào khẩu khí, vào hành động của Từ
Hải” [44; tr.286] nhưng “nó bị chà đạp suốt dọc đời là vì ông đã sống theo
cái chất đa tình trong người và nhất là vì ông đã sống cái nhu nhược của
đẳng cấp ông trong thời khoảng lịch sử đó. Đẳng cấp đã tạo cho ông triết lí
xu thời, tín ngưỡng định mệnh và một khủng khiếp vô biên do sự bất lực
gây ra. Suốt đời, ông chỉ sống theo ba cái đũa thần quái gở ấy. Đó là ba thứ
ám ảnh độc đoán đã làm ra cuộc đời thực của ông.
Vương Thúy Kiều đã là nơi tụ họp của ba sức ám ảnh đó. Cho nên
không phải Kim Trọng, không phải Từ Hải mà Thúy Kiều mới là cái bóng
thực của thi sĩ Nguyễn Du. Ở Kiều, bản ngã trí thức của ông hòa lẫn với
bản ngã tiềm thức. Sự ảnh hưởng của huyết thống, của đẳng cấp, của thời
đại kết hợp với cơ thể ông, làm thành một cá tính phức tạp mà Thúy Kiều
là phản ánh trung thành” [44; tr.287]. Nhận xét về Thúy Kiều, Nguyễn
Bách Khoa không lập “án” như Nguyễn Văn Thắng thời xưa mà lập “bệnh
án” cho nàng. Theo ông, “một tâm hồn ốm yếu bi sầu, một bộ thần kinh
hoảng hốt, đó là hai yếu tố nền tảng của đời sống Thúy Kiều. Nếu quả
Thúy Kiều đẻ ra đời với một tội nghiệp tiền định, như lời sư Tam Hợp, thì
tội nghiệp ấy chỉ là sản phẩm dĩ nhiên của hai yếu tố gốc kia, chứ không có
tính cách gì là huyền bí cả” [44; tr.291]. Bằng sự phỏng đoán của mình,
ông cho rằng Kiều sống trong “một gia đình giàu có, địa vị kinh tế của nó
là địa vị hạng người sống bằng sức lao động của kẻ khác (…), ăn thì cao
lương mĩ vị, mặc thì nhung lụa gấm vóc, nằm thì màn che trướng rủ. Cậu
ấm, cô chiêu thì ra hán vào hài, kẻ hầu người hạ, suốt ngày chẳng phải mó
tay vào việc gì nặng nhọc. (…) Đứa trẻ sống và lớn trong cảnh sung sướng
16
ấy, nhất lại là con gái, thế tất phải có một thân hình gầy yếu, một phủ tạng
ốm o (vì không hoạt động). Đã thế, lại ăn ngon mặc đẹp, sinh khí trong
người luôn luôn được bồi đắp thêm nhiều thêm mạnh mà không được thoát
ra ngoài bằng sự làm việc. Bị bế tắc, sinh khí tác động trong nội bộ cơ thể
và thần kinh đứa bé, làm ra những tính ưa mộng, thích tưởng tượng, thèm
những cảm giác lạ và nhất là tính dâm dục. Tính này sinh ra cái mà người
ta thường gọi một cách thanh lịch là thói đa tình ở những thiếu niên phong
lưu quyền quý. Sự dâm dục ấy lại bị bản ngã luân lí của thiếu niên và hoàn
cảnh luân lí của gia đình kiềm tỏa không cho tự do phát triển. Không được
thỏa mãn, nó lẩn vào bên trong tâm hồn, tàn phá sự thăng bằng của thần
kinh hệ, quấy rối trí khôn đến xáo loạn thiêu đốt trí tưởng tượng và xúc
động luôn luôn đến trái tim làm cho máu chảy khi nhanh khi chậm, hơi thở
khi dài khi ngắn. Trạng thái sinh lí này dễ gây cho đứa bé biến thành một
con bệnh thần kinh, tâm trí lúc nào cũng sợ hãi bi thương và hạch nước
mắt lúc nào cũng chực sẵn sàng để mở nguồn.
Đó là trường hợp của Thúy Kiều. Cuộc sống giàu sang nhàn hạ đã làm
lệch thăng bằng bộ thần kinh của nàng. Nàng là con bệnh có căn tạng đa
sầu, đa cảm, đa tình. Sự phát hiện sớm sủa và rõ rệt nhất của chứng bệnh
thần kinh ấy ở nàng là cái chương Bạc mệnh mà chính nàng đã sáng tạo ra
để phổ vào chiếc hồ cầm ngay từ thuở còn “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập
kê”. (...) Nó đã làm ốm thêm một bộ thần kinh đang ốm” [44; tr.291- 292 -
293]. Như là một bác sĩ chuyên khoa tâm lí, ông “chẩn” rằng Thúy Kiều
mắc bệnh ủy hoàng và thuyết minh thêm “đó là bệnh của người con gái đến
thời kì xuân tình phát động mà hoặc vì thân thể và thần kinh hệ yếu quá,
không đủ lực chịu đựng sức tiến triển của cơ quan sinh dục, hoặc là bị lễ
giáo kiềm chế tính dâm đãng không thực hiện được, nên đâm ra người gầy,
mắt như có nước trong con ngươi, xanh vàng cả mặt và tay chân. (...) Nó
khiến con bệnh luôn luôn bị những cảnh ái ân ám ảnh và luôn luôn hứng
17
tình, chỉ khao khát những vỗ về của người đàn ông. Nó gây ra, ở thiếu nữ,
tính đam mê liều lĩnh trong lúc yêu đương và tính hoảng sợ lo lắng trong
khi hành động.
Thúy Kiều là một con bệnh ủy hoàng và ưu uất. Bệnh này nguyên
nhân một phần ở phủ tạng suy nhược của nàng (di truyền và hoàn cảnh
nhàn hạ) không đủ sức chịu đựng sự nảy nở mãnh liệt của cơ quan sinh dục,
một phần cũng là ở cái đè nén của luân lí Nho giáo (hoàn cảnh xã hội) đối
với sức phát tiết của tính dâm đãng ở nàng. (...) Những ràng buộc ấy kết
tinh thành cái lương tâm của nàng, cái bản ngã luân lí của nàng” [44;
tr.293 - 294].
Nhận xét về ý đồ nghệ thuật của Nguyễn Du khi tả Kiều trong đêm
thanh minh, Nguyễn Bách Khoa “ngờ rằng thi sĩ Nguyễn Du đã dụng ý gạn
bỏ một phần dài của giấc chiêm bao đêm ấy trong cơn ngủ thiu thiu của
nàng Kiều. Không phải Kiều chỉ mê thấy Đạm Tiên; không thể nàng chỉ mê
thấy có Đạm Tiên” bởi theo cái lí mà Nguyễn Bách Khoa đưa ra thì “chiêm
bao vốn là sự sinh hoạt của trí tưởng tượng kéo dài từ lúc ta tỉnh sang lúc ta
ngủ. Trước khi thiu thiu, trí tưởng tượng của Kiều hầu như chỉ hoạt động
chung quanh Kim Trọng, chung quanh tình yêu mê li, chung quanh cuộc
trăm năm mai hậu, nhiều hơn là chung quanh hình ảnh của Đạm Tiên. Theo
đúng quy luật tâm lí, đêm ấy Kiều phải nằm mê thấy ái ân, (…) thấy chàng
công tử mặc áo nhuộm mầu da trời đi hài xanh, dắt con ngựa bạch” [tr.295
- 296]. Ông nhận xét việc miêu tả như Nguyễn Du đã làm chỉ là giả dối vì
khi này “nàng đã hoàn toàn là khí cụ mù quáng trong tay bản năng tình ái.
Nếu ở đây ta gác bỏ ý định khen chê mà chỉ muốn tìm một hình dung từ để
gọi rõ tính chất của Thúy Kiều thì ta phải đủ công bằng mà nói rằng nàng là
một thiếu nữ vô cùng dâm đãng và liều lĩnh. (…) Nếu quả có một định
mệnh thì định mệnh này chính là cái sức mạnh nằm trong căn tạng suy
nhược của Kiều” [44; tr.297]. Chính vì thế nên Nguyễn Bách Khoa cho
18
rằng Nguyễn Du “gán cho Kiều là một cái lương tâm mà chính nàng không
có (…) là bất chấp cả các định luật sinh lí và tâm lí!” và ông thốt lên đầy
biểu cảm: “Thật là một hiện tượng phi thường kì quái! Cái lương tâm luân
lí đặc “Nho” ấy, phải có tài ảo thuật như Nguyễn Du mới dám móc vào đầu
lưỡi Thúy Kiều lúc ấy, mà cũng phải dễ tin như chúng ta mới có thể tin
được là nó ở trong đáy linh hồn Thúy Kiều mới thức dậy” [44; tr.298 - 299].
Trong mắt Nguyễn Bách Khoa, “Kiều không phải vì hiếu mà bán mình.
Hành vi điên rồ này của nàng tuyệt nhiên không bắt nguồn ở một mệnh
lệnh luân lí nào. Nó là một hành vi liều lĩnh không suy nghĩ của một con
bệnh “thần kinh hỗn loạn”, bị kích thích quá mạnh bởi cảnh đau thương đột
ngột. Bằng hành vi này, Kiều đã tự giải phóng khỏi cái ám ảnh hung bạo và
bền bỉ nằm trong tim óc nàng từ lâu lắm. Cái ám ảnh ấy là biểu thị của một
cơ thể ốm yếu, của bệnh ủy hoàng, của bộ thần kinh hoảng hốt, của trí
tưởng tượng mất yên tĩnh. Ám ảnh ấy là sự bạc mệnh tiền định của đời
nàng” [44; tr.301].
Lần giở lại tiểu sử, hành trạng của Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du và
Truyện Kiều phân tích cho ta thấy: “Từ hồi thơ ấu, nàng đã tin ngay lời
đoán của thày tướng sĩ, cho là số kiếp nàng “nghìn thu bạc mệnh một đời
tài hoa”. Vốn căn tạng suy nhược, nàng có một bản năng tôn giáo rất
mạnh, nó làm nàng dễ tin tưởng, dễ bị sự huyền bí quyến rũ. Vì thế mà cái
viễn ảnh bạc mệnh của nàng, ở cửa miệng một thầy tướng sĩ thốt ra, đã
chứa đựng một thần lực ghê gớm. Nhân có trạng thái tâm hồn này, hai tiếng
bạc mệnh từ đó réo rắt bên tai nàng ngày này qua ngày khác, làm suy nghĩ
mông lung khối óc nàng từ năm nọ sang năm kia. Dần dần sự bạc mệnh
hóa ra một bóng ma lẩn quất bên nàng, lẻn vào trái tim nàng, ăn vào thớ
thịt nàng, biến thành máu nàng. Nó bắt nàng phải chuyển nó thành cái gì
trông thấy, sờ thấy hoặc nghe thấy được. Nàng đã chuyển hóa nó thành một
bản tì bà, bản Bạc mệnh như chính lời nàng đã đặt ra. Từ đấy trở đi, Kiều
19
chỉ sống với cái ý tưởng cố định là đời mình sẽ bạc mệnh không thể tránh
đi đâu được. Ý tưởng cố định ấy lại càng ăn sâu vào tim óc nàng, biến
thành một ám ảnh hãi hùng, bất di bất dịch. Lần lần, nàng quen với ám ảnh
đó. Nàng yêu chiều nó, nâng niu nó, vun xới nó, mơn man nó như một bạn
thân. Mỗi ngày nó một độc đoán thêm ra, thân thiết với nàng nhiều hơn lên.
Nó chui vào tiềm thức nàng, nó kích động trí tưởng tượng ốm yếu của nàng.
Nó đẻ ra khiếu ảo giác và lòng mê tín huyền bí cho đến khi đứng trước
mả Đạm Tiên thì khiếu ảo giác này đã chuyển ám ảnh kia thành một
bóng người, một hương thơm có thực trước mắt Kiều. Tin tưởng ảo
cảnh ấy đến mê man, nàng ôm theo nó vào lòng. (…) Kiều đã hoàn toàn là
sự bạc mệnh ở trạng thái tiềm năng. Sự bạc mệnh ấy đã khoác một hình
thức “người” trong cõi thực tế là Thúy Kiều.
Từ cái hôm mộng thấy Đạm Tiên, biết chắc chắn rằng đời mình sẽ bị
bạc mệnh, Kiều chỉ còn nghĩ bằng tư tưởng bạc mệnh, cảm xúc bằng tình
bạc mệnh, tin bằng tín ngưỡng bạc mệnh. Mỗi phút của nàng là một phút
chờ đợi sự bạc mệnh, như sắp xẩy đến nơi, không nay thì mai, không mai
thì kia, thế nào cũng xảy ra” [44; tr.301 - 302]. “Kiều không trốn tránh.
Kiều đã bán mình! Bán mình để từ đây được sống số kiếp của mình chung
với Đạm Tiên. Nàng thỏa mãn lắm. Hành vi liều lĩnh ấy đã giải phóng
nàng, đã là kết quả tự nhiên và bắt buộc của tâm trí nàng (…). Thế là căn
tính Kiều đã từ trạng thái tiềm năng biến ra một ý tưởng cố định, từ ý
tưởng cố định biến ra một ám ảnh, rồi từ ám ảnh biến ra nàng Đạm Tiên
với sổ đoạn trường. Và nó đã gặp đủ điều kiện khách quan để tự thực hiện.
Nó đã làm chủ cuộc đời Kiều không phút nào nhường quyền trị vì cho bản
ngã luân lí của nàng. Hành vi của nàng hoàn toàn là hành vi trực động,
không kể gì đến đạo giáo, gia đình, xã hội” [44; tr.303].
Để chứng minh rõ thêm cho lập luận của mình, Nguyễn Bách Khoa
dấn thêm một bước phân tích tâm tư của Kiều sau khi thất thân với Mã