Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại

2,460
890
91
10
nó vn mang tính cht tính dục. Và như vy, s tìm tòi s không đưa lại kết
qu đáng ra thể đạt được. Chng hạn như ta thấy trong trường hp ca
bnh tâm thn ám ảnh. 3 Xung đột t thăng hoa, nó tách hẳn mc tiêu tính
dục, tính được t do hoạt động để theo đuổi nhng li ích tinh
thn [26; tr.183 - 188].
1.2.Nhìn li vic ng dng thuyết phân tâm hc trong
nghiên cứu văn học Vit Nam trung đại giai đoạn 1900 - 1945
Đầu thế k XX, cùng vi quá trình hiện đại hóa của văn học Vit Nam,
lĩnh vực nghiên cứu phê bình cũng dần được hiện đại hóa, cùng với đó
vic du nhp các lí thuyết, phương pháp mới vào nghiên cu phê bình
văn học trong đó có lí thuyết phân tâm hc. Tuy nhiên, giai đoạn đầu, các
công trình nghiên cu mi dng li vic phc dng phác ha mt s
nét v các đối tượng nghiên cứu thông qua liệu sáng tác mà công trình
Giai nhân di mc ca Nguyn Hu Tiến mt ví d tiêu biu. Công trình
in năm 1917 này có th xem như cuốn sách đầu tiên nghiên cu v tiu s
thơ ca Hồ Xuân Hương - một đối tượng quan trng của phương pháp
phân tâm hc sau này. Giống như một s công trình nghiên cu thi đầu,
công trình ca Nguyn Hu Tiến va làm công vic ghi chép, nghiên cu
v tiu s H Xuân Hương, vừa bình chú thơ văn bà da vào nguồn thơ
Nôm truyn tng. Trong phn li dn ca cun sách, Nguyn Hu Tiến đặt
mc tiêu: “Trước là làm mt truyn k niệm người tài n c Nam mình,
sau là ghi chép ly những bài thơ này, để cho biết lối văn chương nước Nam
mình cũng lắm điều tài tình xuất sáo” [30; tr.3]. Vi một tư duy khá đơn
gin theo li suy diễn, ông nói “chắc như đinh đóng cột” rằng: Nàng y
thiên tư đĩnh ng thông minh như vậy, nhưng mẹ nàng ấy nghĩ rằng: Con
gái hc hay ch cũng chả làm gì, biết ch lm ngày sau ch viết thư cho giai
nhiu; mi bt nàng y v không cho hc nữa. Nhưng nàng y nhà vn
10 nó vẫn mang tính chất tính dục. Và như vậy, sự tìm tòi sẽ không đưa lại kết quả đáng ra có thể đạt được. Chẳng hạn như ta thấy trong trường hợp của bệnh tâm thần ám ảnh. 3 Xung đột tự thăng hoa, nó tách hẳn mục tiêu tính dục, và tính tò mò được tự do hoạt động để theo đuổi những lợi ích tinh thần” [26; tr.183 - 188]. 1.2.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại giai đoạn 1900 - 1945 Đầu thế kỉ XX, cùng với quá trình hiện đại hóa của văn học Việt Nam, lĩnh vực nghiên cứu phê bình cũng dần được hiện đại hóa, cùng với đó là việc du nhập các lí thuyết, phương pháp mới vào nghiên cứu và phê bình văn học trong đó có lí thuyết phân tâm học. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, các công trình nghiên cứu mới dừng lại ở việc phục dựng và phác họa một số nét về các đối tượng nghiên cứu thông qua tư liệu sáng tác mà công trình Giai nhân di mặc của Nguyễn Hữu Tiến là một ví dụ tiêu biểu. Công trình in năm 1917 này có thể xem như cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về tiểu sử và thơ ca Hồ Xuân Hương - một đối tượng quan trọng của phương pháp phân tâm học sau này. Giống như một số công trình nghiên cứu thời kì đầu, công trình của Nguyễn Hữu Tiến vừa làm công việc ghi chép, nghiên cứu về tiểu sử Hồ Xuân Hương, vừa bình chú thơ văn bà dựa vào nguồn thơ Nôm truyền tụng. Trong phần lời dẫn của cuốn sách, Nguyễn Hữu Tiến đặt mục tiêu: “Trước là làm một truyện kỉ niệm người tài nữ nước Nam mình, sau là ghi chép lấy những bài thơ này, để cho biết lối văn chương nước Nam mình cũng lắm điều tài tình xuất sáo” [30; tr.3]. Với một tư duy khá đơn giản theo lối suy diễn, ông nói “chắc như đinh đóng cột” rằng: “Nàng ấy thiên tư đĩnh ngộ thông minh như vậy, nhưng mẹ nàng ấy nghĩ rằng: Con gái học hay chữ cũng chả làm gì, biết chữ lắm ngày sau chỉ viết thư cho giai nhiều; mới bắt nàng ấy về không cho học nữa. Nhưng nàng ấy ở nhà vẫn
11
ham v s học hành văn thơ, c hc ngm ngm bao gi cũng không biết.
Ngày qua tháng li, xuân xanh xp x ti tun cp kê, trông ra dáng điệu
tầm thước, mặt hơi rỗ hoa, mà da hơi ngăm đen, thot trông thì không
đẹp, mà li có duyên thm [39; tr.9] và t s suy diễn đó sẽ đẫn đến nhng
suy din khác kiu: Trong làng cũng nhiều người đến hỏi, nhưng nàng y
không thun ai cả” [39; tr.11]. Nguyn Hu Tiến không biết rng nhng kết
lun của mình tình đã tr thành căn cứ cho rt nhiu nghiên cu v thơ
Nôm truyn tng ca H Xuân Hương theo hướng phân tâm hc trong giai
đon sau mà Trương Tửu, Nguyễn Văn Hanh có lẽnhng người đầu tiên.
Năm 1936, trên báo Tiến hóa s 1, Trương Tửu viết bài Cái ám nh ca H
Xuân Hương lp lun rng chính dục tình không được thỏa mãn đã
khiến H Xuân Hương mắc bnh thn kinh. Do nhng luận điểm này s
đưc ông phát trin trong mt công trình “bề thế” hơn (Văn nghệ bình dân
Vit Nam) nên Luận văn sẽ nhắc đến nhà nghiên cứu này trong giai đoạn
sau. Cùng trong năm 1936, trong H Xuân Hương - Tác phm, thân thế
văn tài ông Nguyễn Văn Hanh cho rng: “Người nàng mong trông tìm
mun ly v giàu, nàng li không giàu, mun ly v sc, nàng li kém
sc, mun ly v mng manh yếu đuối, nàng li php pháp nghch cm,
mun ly v không hc, nàng li thông minh và giỏi thơ. Ri nàng bc
tc sanh kiêu ngo [10; tr.67]. Theo cách nói ca Nguyễn Văn Hanh: “Dục
tình ngày càng tăng, càng nén lại càng bng bt. Ngày qua tháng qua sức đã
nén, dn ép tình dục càng tăng và sự cn kia càng khn cp. Kết qu: Xuân
Hương khủng hong tình dc, khng hong nng s kết bnh thn kinh
(…). Xuân Hương không bao giờ tha thích dc vng, nàng b dn ép luôn
luôn. Nàng b bnh thn kinh. Dc tình chiếm c đầu óc, ám nh nàng mãi.
Nó nhum thấm cái tư tưng của nàng. Bao nhiêu thơ của Xuân Hương đều
biu l s khát khao, s bt mãn. Dc tình biến chuyển qua mĩ thuật thơ
văn [37; tr.227]. Nhng lp lun ca Nguyễn Văn Hanh quả thc mi ch
11 ham về sự học hành văn thơ, cứ học ngấm ngầm bao giờ cũng không biết. Ngày qua tháng lại, xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê, trông ra dáng điệu tầm thước, mặt hơi rỗ hoa, mà da hơi ngăm đen, thoạt trông thì không đẹp, mà lại có duyên thầm” [39; tr.9] và từ sự suy diễn đó sẽ đẫn đến những suy diễn khác kiểu: “Trong làng cũng nhiều người đến hỏi, nhưng nàng ấy không thuận ai cả” [39; tr.11]. Nguyễn Hữu Tiến không biết rằng những kết luận của mình vô tình đã trở thành căn cứ cho rất nhiều nghiên cứu về thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương theo hướng phân tâm học trong giai đoạn sau mà Trương Tửu, Nguyễn Văn Hanh có lẽ là những người đầu tiên. Năm 1936, trên báo Tiến hóa số 1, Trương Tửu viết bài Cái ám ảnh của Hồ Xuân Hương và lập luận rằng chính dục tình không được thỏa mãn đã khiến Hồ Xuân Hương mắc bệnh thần kinh. Do những luận điểm này sẽ được ông phát triển trong một công trình “bề thế” hơn (Văn nghệ bình dân Việt Nam) nên Luận văn sẽ nhắc đến nhà nghiên cứu này trong giai đoạn sau. Cùng trong năm 1936, trong Hồ Xuân Hương - Tác phẩm, thân thế và văn tài ông Nguyễn Văn Hanh cho rằng: “Người nàng mong trông tìm muốn lấy vợ giàu, nàng lại không giàu, muốn lấy vợ có sắc, nàng lại kém sắc, muốn lấy vợ mỏng manh yếu đuối, nàng lại phốp pháp nghịch cợm, muốn lấy vợ không học, nàng lại thông minh và giỏi thơ. Rồi nàng bực tức sanh kiêu ngạo” [10; tr.67]. Theo cách nói của Nguyễn Văn Hanh: “Dục tình ngày càng tăng, càng nén lại càng bồng bột. Ngày qua tháng qua sức đã nén, dồn ép tình dục càng tăng và sự cần kia càng khẩn cấp. Kết quả: Xuân Hương khủng hoảng tình dục, khủng hoảng nặng sẽ kết bệnh thần kinh (…). Xuân Hương không bao giờ thỏa thích dục vọng, nàng bị dồn ép luôn luôn. Nàng bị bệnh thần kinh. Dục tình chiếm cả đầu óc, ám ảnh nàng mãi. Nó nhuộm thấm cái tư tưởng của nàng. Bao nhiêu thơ của Xuân Hương đều biểu lộ sự khát khao, sự bất mãn. Dục tình biến chuyển qua mĩ thuật thơ văn” [37; tr.227]. Những lập luận của Nguyễn Văn Hanh quả thực mới chỉ
12
là những bước đầu tiên trên hành trình ng dụng phương pháp phân tâm học
vào nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại và l ra tt c những gì là sơ sài,
máy móc cng nhc khó tránh của nó nhưng khắc phục điều đó không
phi là việc làm được trong ngày mt ngày hai.
Sang đến năm 1940, trong Kinh thi Vit Nam, sau khi xác định
“chúng ta cũng có một Kinh thi quý giá không kém gì Kinh thi của người
Tàu. Bn phận chúng ta ngày nay là ghi chép nó, san định nó, chú thích nó,
như Chu Công đã ghi chép, Khng T đã san định, Chu Hi đã chú thích
Kinh thi ca Trung Hoa [44; tr.688], Trương Tửu li tr v áp dng Freud
vào phân tích mng ca dao mà ông gọi là “ca dao dâm tục” và b phận thơ
Nôm truyn tng ca H Xuân Hương: “Cái óc Việt Nam lúc nào cũng có
cái hình tục tĩu kia ám nh đến ni cái hình ấy đã thành cái khuôn, bao
nhiêu ngoi vt phi chiếu qua nó, ri mới vào được trong đầu (…). Không
có gi thuyết cho rng não trng y mt di tích ca mt tôn giáo th s
sinh đ thì làm sao cắt nghĩa được nó? Làm sao cắt nghĩa được H
Xuân Hương, cái thiên tài hiếu dâm đến cực điểm kia? Bt kì t cnh gì,
vật gì, nàng cũng tả qua cái khung dâm, cái giống” [37; tr.227]. Tuy nhiên,
b thế, đầy đặn h thống hơn cả trong giai đon này công trình
Nguyn Du và Truyn Kiu của Trương Tửu (1942). Vi bút danh Nguyn
Bách Khoa, Trương Tửu đã chuyển sang phương pháp phê bình “duy vt
bin chứng mácxit” như ông tự xác định, nhưng trong Nguyn Du
Truyn Kiu vn còn nhng ảnh hưởng ca Freud dù cho nó có hn chế
quá đề cao con người bản năng bỏ qua các yếu t văn hóa, hội.
Nguyễn Bách Khoa trước tiên đã phủ nhn cách nghiên cu ca nhng
người như Đào Duy Anh mà theo ông là “không vượt khi cái luận điệu c
điển” [44; tr.186] trong nghiên cu Truyn Kiu trước đó. Áp dng các
thuyết mi v tâm học phương Tây, ông cho rằng: Các nhà tâm hc
hiện đại đều công nhn rng tính đặc xut ca một người không cõi
12 là những bước đầu tiên trên hành trình ứng dụng phương pháp phân tâm học vào nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại và lộ ra tất cả những gì là sơ sài, máy móc và cứng nhắc khó tránh của nó nhưng khắc phục điều đó không phải là việc làm được trong ngày một ngày hai. Sang đến năm 1940, trong Kinh thi Việt Nam, sau khi xác định “chúng ta cũng có một Kinh thi quý giá không kém gì Kinh thi của người Tàu. Bổn phận chúng ta ngày nay là ghi chép nó, san định nó, chú thích nó, như Chu Công đã ghi chép, Khổng Tử đã san định, Chu Hi đã chú thích Kinh thi của Trung Hoa” [44; tr.688], Trương Tửu lại trở về áp dụng Freud vào phân tích mảng ca dao mà ông gọi là “ca dao dâm tục” và bộ phận thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương: “Cái óc Việt Nam lúc nào cũng có cái hình tục tĩu kia ám ảnh đến nỗi cái hình ấy đã thành cái khuôn, bao nhiêu ngoại vật phải chiếu qua nó, rồi mới vào được trong đầu (…). Không có giả thuyết cho rằng não trạng ấy là một di tích của một tôn giáo thờ sự sinh đẻ thì làm sao mà cắt nghĩa được nó? Làm sao cắt nghĩa được Hồ Xuân Hương, cái thiên tài hiếu dâm đến cực điểm kia? Bất kì tả cảnh gì, vật gì, nàng cũng tả qua cái khung dâm, cái giống” [37; tr.227]. Tuy nhiên, bề thế, đầy đặn và hệ thống hơn cả trong giai đoạn này là công trình Nguyễn Du và Truyện Kiều của Trương Tửu (1942). Với bút danh Nguyễn Bách Khoa, Trương Tửu đã chuyển sang phương pháp phê bình “duy vật biện chứng mácxit” như ông tự xác định, nhưng trong Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn còn những ảnh hưởng của Freud dù cho nó có hạn chế là quá đề cao con người bản năng mà bỏ qua các yếu tố văn hóa, xã hội. Nguyễn Bách Khoa trước tiên đã phủ nhận cách nghiên cứu của những người như Đào Duy Anh mà theo ông là “không vượt khỏi cái luận điệu cổ điển” [44; tr.186] trong nghiên cứu Truyện Kiều trước đó. Áp dụng các lí thuyết mới về tâm lí học phương Tây, ông cho rằng: “Các nhà tâm lí học hiện đại đều công nhận rằng cá tính đặc xuất của một người không ở cõi
13
hu thc chính tim thc của người y [44; tr.188] phn
nhiu ta ch sng theo bn ngã hu thc, theo khuôn phép của luân lí,
lun, phong tc. Khi nào ngoi giới động đến một điểm sng tha thiết vi
s tn ti ca bn thân thì tim thc mi ni dy, qung hết các sức đè nén
ca hu thc, hiện ra nguyên hình. Phút đó ta ch còn là tay sai ca cá tính,
nghĩa là của tim thc (…) cho nên t xưa đến nay, nhng ngh sĩ thiên tài
thưng tin rng, bao nhiêu tác phm siêu vit nht ca h đều được sáng
to trong lúc thn minh nhp vào h, chi phi tâm hn họ” [44; tr.190].
Chính thc thì v thn minh thiêng liêng kia chcá tính của người ngh
sĩ đó thôi. Nó không ở đâu bay lại c. Nó vn nằm dưới đáy tiềm thc ca
ngưi ngh sĩ. Nó đã nhờ sức kích động ca hiện tượng sáng to mà bt
phát ra, thình lình và tàn bạo” [44; tr.190 - 191]. T đó ông xác định bn
phn nhà phê bình không phi ch đi tìm tâm s nhà văn trong tác
phẩm văn chương. Nhà phê bình cn phi tìm hiểu đến tính nhà văn -
vì cái này mi là tt c nhà văn. Cái này mới thành thc, mi không b che
đậy hoc xuyên tc. Nó là cái phn sâu thm nht, tim tàng nht, mnh m
nht của cơ thể, ca khi óc, ca tâm hồn. Cá tính, đó mới là cái phn cng
hiến riêng của nhà văn đem dâng trong linh từ văn hc [44; tr.191]. Trong
công trình này, như đã nói trên, do xác định làm việc dưới ánh sáng ca
phương pháp phê bình “duy vt bin chứng mácxit” nên ông cho rằng các
tác gi ngoài sức điều khin gt gao của đẳng cp xã hi, yếu t sinh lí, di
truyền đời n qua đời kia, còn phi chu sc chi phi ca hoàn cnh thiên
nhiên na. Hoàn cnh thiên nhiên tc là quê quán, khí hu, th ngơi, thảo
mc, v trí địa lịch sử” [44; tr.197 - 198] trong đó nhân cũng
không th nào vượt ra ngoài cái phm vi ca thời đại mình đã ấn định cho.
Trình độ kinh tế, tình trng chính tr hi, kh năng hoạt động của đẳng
cấp, thuật đương thời… đó những cái khuôn đanh thép đóng khung
sc hành tàng ca cá nhân [44; tr.199] và ông xác định vấn đề thời đại
13 hữu thức mà chính là ở tiềm thức của người ấy” [44; tr.188] và “phần nhiều ta chỉ sống theo bản ngã hữu thức, theo khuôn phép của luân lí, dư luận, phong tục. Khi nào ngoại giới động đến một điểm sống tha thiết với sự tồn tại của bản thân thì tiềm thức mới nổi dậy, quẳng hết các sức đè nén của hữu thức, hiện ra nguyên hình. Phút đó ta chỉ còn là tay sai của cá tính, nghĩa là của tiềm thức (…) cho nên từ xưa đến nay, những nghệ sĩ thiên tài thường tin rằng, bao nhiêu tác phẩm siêu việt nhất của họ đều được sáng tạo trong lúc thần minh nhập vào họ, chi phối tâm hồn họ” [44; tr.190]. “Chính thực thì vị thần minh thiêng liêng kia chỉ là cá tính của người nghệ sĩ đó thôi. Nó không ở đâu bay lại cả. Nó vẫn nằm dưới đáy tiềm thức của người nghệ sĩ. Nó đã nhờ sức kích động của hiện tượng sáng tạo mà bột phát ra, thình lình và tàn bạo” [44; tr.190 - 191]. Từ đó ông xác định bổn phận nhà phê bình là “không phải chỉ đi tìm tâm sự nhà văn trong tác phẩm văn chương. Nhà phê bình cần phải tìm hiểu đến cá tính nhà văn - vì cái này mới là tất cả nhà văn. Cái này mới thành thực, mới không bị che đậy hoặc xuyên tạc. Nó là cái phần sâu thẳm nhất, tiềm tàng nhất, mạnh mẽ nhất của cơ thể, của khối óc, của tâm hồn. Cá tính, đó mới là cái phần cống hiến riêng của nhà văn đem dâng trong linh từ văn học” [44; tr.191]. Trong công trình này, như đã nói ở trên, do xác định làm việc dưới ánh sáng của phương pháp phê bình “duy vật biện chứng mácxit” nên ông cho rằng các tác giả “ngoài sức điều khiển gắt gao của đẳng cấp xã hội, yếu tố sinh lí, di truyền đời nọ qua đời kia, còn phải chịu sức chi phối của hoàn cảnh thiên nhiên nữa. Hoàn cảnh thiên nhiên tức là quê quán, khí hậu, thổ ngơi, thảo mộc, vị trí địa dư và lịch sử” [44; tr.197 - 198] trong đó “cá nhân cũng không thể nào vượt ra ngoài cái phạm vi của thời đại mình đã ấn định cho. Trình độ kinh tế, tình trạng chính trị xã hội, khả năng hoạt động của đẳng cấp, kĩ thuật đương thời… đó là những cái khuôn đanh thép đóng khung sức hành tàng của cá nhân” [44; tr.199] và ông xác định vấn đề ở thời đại
14
ca Nguyn Du là vấn đề giai cp mà trong đó “sut mt thi gian lch s,
khoảng đầu thế k XVIII, bọn sĩ phu vẫn hip lc với nông dân để dit
Trịnh, nhân danh phù Lê để hành đạo. Thy dân chúng ni lên như ng
triu, bọn phu phải vi liên hip ngay vi bọn quân nhân đã điêu tàn đ
ngăn lại. T cui thế k XVII xã hi ta, bọn thương nhân đã thế lc
lm ri, h đã có đủ c phm lẫn lượng để thành một đẳng cp. B thương
nhân và nông dân chung sức đánh mình, bọn sĩ phu và bọn chúa Trnh phi
c kết ly nhau [44; tr.229]. Da vào nhng c liu lch s, ông cho rng
có một “nhn xét quan trng Nguyn Du là mt con bnh thn kinh
[44; tr.236] các nhân vt trong Truyn Kius th hin nhng gic
của nhà thi sĩ. Theo cách lp luận đó, vi Kim Trng, thi sĩ đã sống
di dào trong cuc sng ca nhân vt tiu thuyết ấy. Nhưng sao Kim
Trọng cũng chưa là toàn thể cá tính Nguyn Du [44; tr.278].
Theo Nguyn Bách Khoa, khi nghiên cứu ta phi áp dng cái
nguyên tắc mà bác sĩ Freud đã phát minh ra để nghiên cu các gic mng.
Theo bác sĩ thì mỗi người chúng ta đu có nhng thèm thuồng không được
hi cho phép tha mãn. Nhng thèm thung y b dn vào trong cùng
tâm hồn, nhưng vẫn nằm im đó ch không tiêu tán. Nếu trong người chúng
ta s thèm thung b dn nén kia c mt ngày mt nhiu thêm lên, hoc có
cái thèm thuồng nào đó cứ mt ngày mt mãnh lit, càng b dn ép càng tp
trung sc bùng n, thì tâm hn ta s là sân khấu thường trc ca mng m -
nhng mng m đồng th cht vi nhng thèm thung b dn ép. (…) Cho
nên bác Freud đã thiết lập được nguyên tc nhn xét này: Mng m
nhng hiện tượng tâm lí vô thc t giác đúng nhất cái tính khí căn bản ca
một người. (…) Theo điều nhn xét ca Freud thì ta có th nói rng: mt
nhà văn, ước vng hin thân ca tính khí thc b dn ép không được
quyn phát trin [44; tr.278 - 279] “trong T Hi, Nguyễn Du đã sống
mt nguyn vng thm kín ca mình. Vi T Hi, Nguyễn Du đã làm một
14 của Nguyễn Du là vấn đề giai cấp mà trong đó “suốt một thời gian lịch sử, khoảng đầu thế kỉ XVIII, bọn sĩ phu vẫn hiệp lực với nông dân để diệt Trịnh, nhân danh phù Lê để hành đạo. Thấy dân chúng nổi lên như sóng triều, bọn sĩ phu phải vội liên hiệp ngay với bọn quân nhân đã điêu tàn để ngăn lại. Từ cuối thế kỉ XVII ở xã hội ta, bọn thương nhân đã có thế lực lắm rồi, họ đã có đủ cả phẩm lẫn lượng để thành một đẳng cấp. Bị thương nhân và nông dân chung sức đánh mình, bọn sĩ phu và bọn chúa Trịnh phải cố kết lấy nhau” [44; tr.229]. Dựa vào những cứ liệu lịch sử, ông cho rằng có một “nhận xét quan trọng” là “Nguyễn Du là một con bệnh thần kinh” [44; tr.236] và các nhân vật trong Truyện Kiều là sự thể hiện những giấc mơ của nhà thi sĩ. Theo cách lập luận đó, với Kim Trọng, “thi sĩ đã sống dồi dào trong cuộc sống của nhân vật tiểu thuyết ấy. Nhưng dù sao Kim Trọng cũng chưa là toàn thể cá tính Nguyễn Du” [44; tr.278]. Theo Nguyễn Bách Khoa, khi nghiên cứu “ta phải áp dụng cái nguyên tắc mà bác sĩ Freud đã phát minh ra để nghiên cứu các giấc mộng. Theo bác sĩ thì mỗi người chúng ta đều có những thèm thuồng không được xã hội cho phép thỏa mãn. Những thèm thuồng ấy bị dồn vào trong cùng tâm hồn, nhưng vẫn nằm im đó chứ không tiêu tán. Nếu trong người chúng ta số thèm thuồng bị dồn nén kia cứ một ngày một nhiều thêm lên, hoặc có cái thèm thuồng nào đó cứ một ngày một mãnh liệt, càng bị dồn ép càng tập trung sức bùng nổ, thì tâm hồn ta sẽ là sân khấu thường trực của mộng mị - những mộng mị đồng thể chất với những thèm thuồng bị dồn ép. (…) Cho nên bác sĩ Freud đã thiết lập được nguyên tắc nhận xét này: Mộng mị là những hiện tượng tâm lí vô thức tố giác đúng nhất cái tính khí căn bản của một người. (…) Theo điều nhận xét của Freud thì ta có thể nói rằng: ở một nhà văn, ước vọng là hiện thân của tính khí thực bị dồn ép không được quyền phát triển” [44; tr.278 - 279] và “trong Từ Hải, Nguyễn Du đã sống một nguyện vọng thầm kín của mình. Với Từ Hải, Nguyễn Du đã làm một
15
v anh ng trong tưởng tượng…” [44; tr.281]. Sut thi kì phng s tân
triều (18 năm), lòng kiêu ngo ca ông b dồn ép dưới mt mt n khut
phục, lãnh đạm, s sệt… nó bị dồn ép cho đến khi ông gặp được T Hi
trong cun tiu thuyết ca Thanh Tâm tài nhân. Ông lin phóng cái kiêu
ngo thm kín ấy vào con người, vào khẩu khí, vào hành đng ca T
Hải” [44; tr.286] nhưng “b chà đạp sut dọc đời là vì ông đã sống theo
cái chất đa tình trong người nhất là ông đã sng cái nhu nhược ca
đẳng cp ông trong thi khong lch s đó. Đẳng cấp đã tạo cho ông triết lí
xu thời, tín ngưỡng định mnh mt khng khiếp biên do s bt lc
gây ra. Suốt đời, ông ch sống theo ba cái đũa thần quái g ấy. Đó là ba thứ
ám nh độc đoán đã làm ra cuộc đời thc ca ông.
Vương Thúy Kiều đã nơi tụ hp ca ba sc ám ảnh đó. Cho nên
không phi Kim Trng, không phi T Hi mà Thúy Kiu mi là cái bóng
thc của thi sĩ Nguyễn Du. Kiu, bn ngã trí thc ca ông hòa ln vi
bn ngã tim thc. S ảnh hưởng ca huyết thng, của đẳng cp, ca thi
đại kết hp với cơ thể ông, làm thành mt tính phc tp mà Thúy Kiu
phản ánh trung thành” [44; tr.287]. Nhn xét v Thúy Kiu, Nguyn
Bách Khoa không lập “án” như Nguyễn Văn Thắng thời xưa mà lập “bnh
áncho nàng. Theo ông, mt tâm hn m yếu bi su, mt b thn kinh
hong hốt, đó hai yếu t nn tng của đời sng Thúy Kiu. Nếu qu
Thúy Kiều đẻ ra đời vi mt ti nghip tiền định, như lời sư Tam Hợp, thì
ti nghip y ch là sn phẩm dĩ nhiên của hai yếu t gc kia, ch không có
tính cách huyn cả” [44; tr.291]. Bng s phỏng đoán của mình,
ông cho rng Kiu sng trong một gia đình giàu có, đa v kinh tế ca nó
địa v hạng người sng bng sức lao động ca k khác (…), ăn thì cao
lương mĩ vị, mc thì nhung la gm vóc, nằm thì màn che trướng r. Cu
m, cô chiêu thì ra hán vào hài, k hầu người h, sut ngày chng phi mó
tay vào vic gì nng nhc. (…) Đứa tr sng và ln trong cảnh sung sướng
15 vị anh hùng trong tưởng tượng…” [44; tr.281]. “Suốt thời kì phụng sự tân triều (18 năm), lòng kiêu ngạo của ông bị dồn ép dưới một mặt nạ khuất phục, lãnh đạm, sợ sệt… nó bị dồn ép cho đến khi ông gặp được Từ Hải trong cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân. Ông liền phóng cái kiêu ngạo thầm kín ấy vào con người, vào khẩu khí, vào hành động của Từ Hải” [44; tr.286] nhưng “nó bị chà đạp suốt dọc đời là vì ông đã sống theo cái chất đa tình trong người và nhất là vì ông đã sống cái nhu nhược của đẳng cấp ông trong thời khoảng lịch sử đó. Đẳng cấp đã tạo cho ông triết lí xu thời, tín ngưỡng định mệnh và một khủng khiếp vô biên do sự bất lực gây ra. Suốt đời, ông chỉ sống theo ba cái đũa thần quái gở ấy. Đó là ba thứ ám ảnh độc đoán đã làm ra cuộc đời thực của ông. Vương Thúy Kiều đã là nơi tụ họp của ba sức ám ảnh đó. Cho nên không phải Kim Trọng, không phải Từ Hải mà Thúy Kiều mới là cái bóng thực của thi sĩ Nguyễn Du. Ở Kiều, bản ngã trí thức của ông hòa lẫn với bản ngã tiềm thức. Sự ảnh hưởng của huyết thống, của đẳng cấp, của thời đại kết hợp với cơ thể ông, làm thành một cá tính phức tạp mà Thúy Kiều là phản ánh trung thành” [44; tr.287]. Nhận xét về Thúy Kiều, Nguyễn Bách Khoa không lập “án” như Nguyễn Văn Thắng thời xưa mà lập “bệnh án” cho nàng. Theo ông, “một tâm hồn ốm yếu bi sầu, một bộ thần kinh hoảng hốt, đó là hai yếu tố nền tảng của đời sống Thúy Kiều. Nếu quả Thúy Kiều đẻ ra đời với một tội nghiệp tiền định, như lời sư Tam Hợp, thì tội nghiệp ấy chỉ là sản phẩm dĩ nhiên của hai yếu tố gốc kia, chứ không có tính cách gì là huyền bí cả” [44; tr.291]. Bằng sự phỏng đoán của mình, ông cho rằng Kiều sống trong “một gia đình giàu có, địa vị kinh tế của nó là địa vị hạng người sống bằng sức lao động của kẻ khác (…), ăn thì cao lương mĩ vị, mặc thì nhung lụa gấm vóc, nằm thì màn che trướng rủ. Cậu ấm, cô chiêu thì ra hán vào hài, kẻ hầu người hạ, suốt ngày chẳng phải mó tay vào việc gì nặng nhọc. (…) Đứa trẻ sống và lớn trong cảnh sung sướng
16
y, nht li là con gái, thế tt phi có mt thân hình gy yếu, mt ph tng
m o (vì không hoạt động). Đã thế, lại ăn ngon mặc đẹp, sinh khí trong
người luôn luôn được bồi đắp thêm nhiu thêm mạnh mà không đưc thoát
ra ngoài bng s làm vic. B bế tắc, sinh khí tác động trong ni b cơ thể
và thần kinh đứa bé, làm ra nhng tính ưa mộng, thích tưởng tượng, thèm
nhng cm giác lnht là tính dâm dục. Tính này sinh ra cái mà người
ta thường gi mt cách thanh lch là thói đa tình nhng thiếu niên phong
lưu quyền quý. S dâm dc y li b bn ngã luân lí ca thiếu niên và hoàn
cnh luân lí của gia đình kim ta không cho t do phát trin. Không được
tha mãn, ln vào bên trong tâm hn, tàn phá s thăng bằng ca thn
kinh h, quy rối trí khôn đến xáo loạn thiêu đốt trí tưởng ng xúc
động luôn luôn đến trái tim làm cho máu chy khi nhanh khi chậm, hơi thở
khi dài khi ngn. Trng thái sinh lí này d gây cho đứa biến thành mt
con bnh thn kinh, tâm trí lúc nào cũng sợ hãi bi thương hạch nước
mắt lúc nào cũng chực sẵn sàng để m ngun.
Đó là trường hp ca Thúy Kiu. Cuc sng giàu sang nhàn h đã làm
lệch thăng bằng b thn kinh ca nàng. Nàng con bnh căn tạng đa
sầu, đa cảm, đa nh. Sự phát hin sm sa rt nht ca chng bnh
thn kinh y nàng là cái chương Bc mnh mà chính nàng đã sáng tạo ra
để ph vào chiếc h cm ngay t thu còn “xuân xanh xp x ti tun cp
kê”. (...) đã làm ốm thêm mt b thần kinh đang m [44; tr.291- 292 -
293]. Như một bác sĩ chuyên khoa tâm , ông “chẩn” rng Thúy Kiu
mc bnh y hoàng và thuyết minh thêm “đó là bnh của người con gái đến
thời xuân tình phát động mà hoc thân ththn kinh h yếu quá,
không đủ lc chịu đựng sc tiến trin của cơ quan sinh dục, hoc là b l
giáo kim chế tính dâm đãng không thực hiện được, nên đâm ra người gy,
mắt như nước trong con ngươi, xanh vàng cả mt và tay chân. (...)
khiến con bnh luôn luôn b nhng cnh ái ân ám nh và luôn luôn hng
16 ấy, nhất lại là con gái, thế tất phải có một thân hình gầy yếu, một phủ tạng ốm o (vì không hoạt động). Đã thế, lại ăn ngon mặc đẹp, sinh khí trong người luôn luôn được bồi đắp thêm nhiều thêm mạnh mà không được thoát ra ngoài bằng sự làm việc. Bị bế tắc, sinh khí tác động trong nội bộ cơ thể và thần kinh đứa bé, làm ra những tính ưa mộng, thích tưởng tượng, thèm những cảm giác lạ và nhất là tính dâm dục. Tính này sinh ra cái mà người ta thường gọi một cách thanh lịch là thói đa tình ở những thiếu niên phong lưu quyền quý. Sự dâm dục ấy lại bị bản ngã luân lí của thiếu niên và hoàn cảnh luân lí của gia đình kiềm tỏa không cho tự do phát triển. Không được thỏa mãn, nó lẩn vào bên trong tâm hồn, tàn phá sự thăng bằng của thần kinh hệ, quấy rối trí khôn đến xáo loạn thiêu đốt trí tưởng tượng và xúc động luôn luôn đến trái tim làm cho máu chảy khi nhanh khi chậm, hơi thở khi dài khi ngắn. Trạng thái sinh lí này dễ gây cho đứa bé biến thành một con bệnh thần kinh, tâm trí lúc nào cũng sợ hãi bi thương và hạch nước mắt lúc nào cũng chực sẵn sàng để mở nguồn. Đó là trường hợp của Thúy Kiều. Cuộc sống giàu sang nhàn hạ đã làm lệch thăng bằng bộ thần kinh của nàng. Nàng là con bệnh có căn tạng đa sầu, đa cảm, đa tình. Sự phát hiện sớm sủa và rõ rệt nhất của chứng bệnh thần kinh ấy ở nàng là cái chương Bạc mệnh mà chính nàng đã sáng tạo ra để phổ vào chiếc hồ cầm ngay từ thuở còn “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê”. (...) Nó đã làm ốm thêm một bộ thần kinh đang ốm” [44; tr.291- 292 - 293]. Như là một bác sĩ chuyên khoa tâm lí, ông “chẩn” rằng Thúy Kiều mắc bệnh ủy hoàng và thuyết minh thêm “đó là bệnh của người con gái đến thời kì xuân tình phát động mà hoặc vì thân thể và thần kinh hệ yếu quá, không đủ lực chịu đựng sức tiến triển của cơ quan sinh dục, hoặc là bị lễ giáo kiềm chế tính dâm đãng không thực hiện được, nên đâm ra người gầy, mắt như có nước trong con ngươi, xanh vàng cả mặt và tay chân. (...) Nó khiến con bệnh luôn luôn bị những cảnh ái ân ám ảnh và luôn luôn hứng
17
tình, ch khao khát nhng v v của người đàn ông. gây ra, thiếu n,
tính đam liều lĩnh trong lúc yêu đương tính hong s lo lng trong
khi hành động.
Thúy Kiu là mt con bnh y hoàng ưu uất. Bnh này nguyên
nhân mt phn ph tạng suy nhược ca nàng (di truyn hoàn cnh
nhàn hạ) không đủ sc chịu đựng s ny n mãnh lit của cơ quan sinh dc,
mt phần cũng cái đè nén của luân Nho giáo (hoàn cnh xã hội) đối
vi sc phát tiết của tính dâm đãng nàng. (...) Nhng ràng buc y kết
tinh thành cái lương tâm ca nàng, cái bn ngã luân ca nàng [44;
tr.293 - 294].
Nhn xét v ý đồ ngh thut ca Nguyn Du khi t Kiều trong đêm
thanh minh, Nguyễn Bách Khoa “ng rằng thi sĩ Nguyễn Du đã dụng ý gn
b mt phn dài ca giấc chiêm bao đêm ấy trong cơn ngủ thiu thiu ca
nàng Kiu. Không phi Kiu ch mê thấy Đạm Tiên; không th nàng ch
thấy có Đạm Tiênbi theo cái lí mà Nguyễn Bách Khoa đưa ra thì “chiêm
bao vn là s sinh hot của trí tưởng tượng kéo dài t lúc ta tnh sang lúc ta
ngủ. Trước khi thiu thiu, trí tưởng tượng ca Kiu hầu như chỉ hoạt động
chung quanh Kim Trng, chung quanh tình yêu li, chung quanh cuc
trăm năm mai hậu, nhiều hơn là chung quanh hình ảnh của Đạm Tiên. Theo
đúng quy luật tâm lí, đêm ấy Kiu phi nm mê thy ái ân, (…) thy chàng
công t mc áo nhum mu da trời đi hài xanh, dắt con nga bch [tr.295
- 296]. Ông nhn xét vic miêu t như Nguyễn Du đã làm chgi di vì
khi này “nàng đã hoàn toàn khí cụ mù quáng trong tay bản năng tình ái.
Nếu đây ta gác b ý định khen chê mà ch mun tìm mt hình dung t để
gi rõ tính cht ca Thúy Kiu thì ta phải đủ công bng mà nói rng nàng là
mt thiếu n cùng dâm đãng liều lĩnh. (…) Nếu qu một định
mệnh thì định mnh này chính là cái sc mnh nm trong căn tng suy
nhưc ca Kiu” [44; tr.297]. Chính thế nên Nguyn Bách Khoa cho
17 tình, chỉ khao khát những vỗ về của người đàn ông. Nó gây ra, ở thiếu nữ, tính đam mê liều lĩnh trong lúc yêu đương và tính hoảng sợ lo lắng trong khi hành động. Thúy Kiều là một con bệnh ủy hoàng và ưu uất. Bệnh này nguyên nhân một phần ở phủ tạng suy nhược của nàng (di truyền và hoàn cảnh nhàn hạ) không đủ sức chịu đựng sự nảy nở mãnh liệt của cơ quan sinh dục, một phần cũng là ở cái đè nén của luân lí Nho giáo (hoàn cảnh xã hội) đối với sức phát tiết của tính dâm đãng ở nàng. (...) Những ràng buộc ấy kết tinh thành cái lương tâm của nàng, cái bản ngã luân lí của nàng” [44; tr.293 - 294]. Nhận xét về ý đồ nghệ thuật của Nguyễn Du khi tả Kiều trong đêm thanh minh, Nguyễn Bách Khoa “ngờ rằng thi sĩ Nguyễn Du đã dụng ý gạn bỏ một phần dài của giấc chiêm bao đêm ấy trong cơn ngủ thiu thiu của nàng Kiều. Không phải Kiều chỉ mê thấy Đạm Tiên; không thể nàng chỉ mê thấy có Đạm Tiên” bởi theo cái lí mà Nguyễn Bách Khoa đưa ra thì “chiêm bao vốn là sự sinh hoạt của trí tưởng tượng kéo dài từ lúc ta tỉnh sang lúc ta ngủ. Trước khi thiu thiu, trí tưởng tượng của Kiều hầu như chỉ hoạt động chung quanh Kim Trọng, chung quanh tình yêu mê li, chung quanh cuộc trăm năm mai hậu, nhiều hơn là chung quanh hình ảnh của Đạm Tiên. Theo đúng quy luật tâm lí, đêm ấy Kiều phải nằm mê thấy ái ân, (…) thấy chàng công tử mặc áo nhuộm mầu da trời đi hài xanh, dắt con ngựa bạch” [tr.295 - 296]. Ông nhận xét việc miêu tả như Nguyễn Du đã làm chỉ là giả dối vì khi này “nàng đã hoàn toàn là khí cụ mù quáng trong tay bản năng tình ái. Nếu ở đây ta gác bỏ ý định khen chê mà chỉ muốn tìm một hình dung từ để gọi rõ tính chất của Thúy Kiều thì ta phải đủ công bằng mà nói rằng nàng là một thiếu nữ vô cùng dâm đãng và liều lĩnh. (…) Nếu quả có một định mệnh thì định mệnh này chính là cái sức mạnh nằm trong căn tạng suy nhược của Kiều” [44; tr.297]. Chính vì thế nên Nguyễn Bách Khoa cho
18
rng Nguyn Du “gán cho Kiu là một cái lương tâm mà chính nàng không
có (…) bt chp c các định lut sinh và tâm lí!và ông thốt lên đy
biu cm: Tht là mt hiện tượng phi thường kì quái! Cái lương tâm luân
lí đặc “Nho” ấy, phi có tài o thuật như Nguyễn Du mới dám móc vào đầu
i Thúy Kiu lúc ấy, mà cũng phải d tin như chúng ta mới th tin
đưc là nó trong đáy linh hồn Thúy Kiu mi thc dy” [44; tr.298 - 299].
Trong mt Nguyn Bách Khoa, Kiu không phi hiếu bán mình.
Hành vi điên rồ này ca nàng tuyt nhiên không bt ngun mt mnh
lnh luân nào. mt hành vi liều lĩnh không suy nghĩ của mt con
bệnh “thần kinh hn loạn”, bị kích thích quá mnh bi cảnh đau thương đột
ngt. Bng hành vi này, Kiều đã tự gii phóng khi cái ám nh hung bo và
bn b nm trong tim óc nàng t lâu lm. Cái ám nh y là biu th ca mt
thể m yếu, ca bnh y hoàng, ca b thn kinh hong ht, ca trí
ởng tượng mất yên tĩnh. Ám nh y s bc mnh tiền định của đời
nàng [44; tr.301].
Ln gi li tiu s, hành trng ca Thúy Kiu, tác gi Nguyn Du
Truyn Kiu phân tích cho ta thấy: T hồi thơ ấu, nàng đã tin ngay li
đoán của thày tướng sĩ, cho là số kiếp nàng “nghìn thu bạc mnh một đời
tài hoa”. Vốn căn tạng suy nhược, nàng mt bản năng tôn giáo rt
mnh, nó làm nàng d tin tưởng, d b s huyn bí quyến rũ. Vì thếcái
vin nh bc mnh ca nàng, ca ming mt thầy tướng thốt ra, đã
chứa đựng mt thn lc ghê gm. Nhân có trng thái tâm hn này, hai tiếng
bc mnh t đó réo rắt bên tai nàng ngày này qua ngày khác, làm suy nghĩ
mông lung khi óc nàng t năm nọ sang năm kia. Dần dn s bc mnh
hóa ra mt bóng ma ln qut bên nàng, lẻn vào trái tim nàng, ăn vào thớ
tht nàng, biến thành máu nàng. bt nàng phi chuyn thành cái
trông thy, s thy hoc nghe thấy được. Nàng đã chuyển hóa nó thành mt
bn tì bà, bn Bc mnh như chính lời nàng đã đt ra. T đy tr đi, Kiều
18 rằng Nguyễn Du “gán cho Kiều là một cái lương tâm mà chính nàng không có (…) là bất chấp cả các định luật sinh lí và tâm lí!” và ông thốt lên đầy biểu cảm: “Thật là một hiện tượng phi thường kì quái! Cái lương tâm luân lí đặc “Nho” ấy, phải có tài ảo thuật như Nguyễn Du mới dám móc vào đầu lưỡi Thúy Kiều lúc ấy, mà cũng phải dễ tin như chúng ta mới có thể tin được là nó ở trong đáy linh hồn Thúy Kiều mới thức dậy” [44; tr.298 - 299]. Trong mắt Nguyễn Bách Khoa, “Kiều không phải vì hiếu mà bán mình. Hành vi điên rồ này của nàng tuyệt nhiên không bắt nguồn ở một mệnh lệnh luân lí nào. Nó là một hành vi liều lĩnh không suy nghĩ của một con bệnh “thần kinh hỗn loạn”, bị kích thích quá mạnh bởi cảnh đau thương đột ngột. Bằng hành vi này, Kiều đã tự giải phóng khỏi cái ám ảnh hung bạo và bền bỉ nằm trong tim óc nàng từ lâu lắm. Cái ám ảnh ấy là biểu thị của một cơ thể ốm yếu, của bệnh ủy hoàng, của bộ thần kinh hoảng hốt, của trí tưởng tượng mất yên tĩnh. Ám ảnh ấy là sự bạc mệnh tiền định của đời nàng” [44; tr.301]. Lần giở lại tiểu sử, hành trạng của Thúy Kiều, tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều phân tích cho ta thấy: “Từ hồi thơ ấu, nàng đã tin ngay lời đoán của thày tướng sĩ, cho là số kiếp nàng “nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa”. Vốn căn tạng suy nhược, nàng có một bản năng tôn giáo rất mạnh, nó làm nàng dễ tin tưởng, dễ bị sự huyền bí quyến rũ. Vì thế mà cái viễn ảnh bạc mệnh của nàng, ở cửa miệng một thầy tướng sĩ thốt ra, đã chứa đựng một thần lực ghê gớm. Nhân có trạng thái tâm hồn này, hai tiếng bạc mệnh từ đó réo rắt bên tai nàng ngày này qua ngày khác, làm suy nghĩ mông lung khối óc nàng từ năm nọ sang năm kia. Dần dần sự bạc mệnh hóa ra một bóng ma lẩn quất bên nàng, lẻn vào trái tim nàng, ăn vào thớ thịt nàng, biến thành máu nàng. Nó bắt nàng phải chuyển nó thành cái gì trông thấy, sờ thấy hoặc nghe thấy được. Nàng đã chuyển hóa nó thành một bản tì bà, bản Bạc mệnh như chính lời nàng đã đặt ra. Từ đấy trở đi, Kiều
19
ch sng với cái ý tưởng c định là đời mình s bc mnh không th tránh
đi đâu được. Ý tưởng c định y lại càng ăn sâu vào tim óc nàng, biến
thành mt ám nh hãi hùng, bt di bt dch. Ln ln, nàng quen vi ám nh
đó. Nàng yêu chiều nó, nâng niu nó, vun xới nó, mơn man nó như một bn
thân. Mi ngày nó một độc đoán thêm ra, thân thiết vi nàng nhiều hơn lên.
Nó chui vào tim thc nàng, nó kích động trí tưởng tượng m yếu ca nàng.
Nó đẻ ra khiếu o giác và lòng mê tín huyền bí cho đến khi đứng trước
m Đạm Tiên thì khiếu o giác này đã chuyển ám nh kia thành mt
bóng người, một hương thơm thực trước mt Kiu. Tin tưởng o
cnh ấy đến mê man, nàng ôm theo nó vào lòng. () Kiều đã hoàn toàn là
s bc mnh trng thái tiềm năng. S bc mnh ấy đã khoác một hình
thc người” trong cõi thực tế là Thúy Kiu.
T cái hôm mng thấy Đạm Tiên, biết chc chn rằng đời mình s b
bc mnh, Kiu ch còn nghĩ bằng tưởng bc mnh, cm xúc bng tình
bc mnh, tin bằng tín ngưỡng bc mnh. Mi phút ca nàng mt phút
ch đợi s bc mệnh, như sắp xẩy đến nơi, không nay thì mai, không mai
thì kia, thế nào ng xảy ra [44; tr.301 - 302]. Kiu không trn tránh.
Kiều đã bán mình! Bán mình để t đây được sng s kiếp ca mình chung
với Đạm Tiên. Nàng tha mãn lm. nh vi liều lĩnh ấy đã giải phóng
nàng, đã kết qu t nhiên bt buc ca tâm trí nàng (…). Thế căn
tính Kiều đã từ trng thái tiềm năng biến ra mt ý tưởng c định, t ý
ng c định biến ra mt ám nh, ri t ám nh biến ra nàng Đạm Tiên
vi s đoạn trường. Và nó đã gặp đủ điu kiện khách quan để t thc hin.
Nó đã làm chủ cuộc đời Kiều không phút nào nhường quyn tr cho bn
ngã luân ca nàng. Hành vi ca nàng hoàn toàn hành vi trực động,
không k gì đến đạo giáo, gia đình, xã hội [44; tr.303].
Để chng minh thêm cho lp lun ca mình, Nguyn Bách Khoa
dn thêm một bước phân tích tâm của Kiu sau khi tht thân vi
19 chỉ sống với cái ý tưởng cố định là đời mình sẽ bạc mệnh không thể tránh đi đâu được. Ý tưởng cố định ấy lại càng ăn sâu vào tim óc nàng, biến thành một ám ảnh hãi hùng, bất di bất dịch. Lần lần, nàng quen với ám ảnh đó. Nàng yêu chiều nó, nâng niu nó, vun xới nó, mơn man nó như một bạn thân. Mỗi ngày nó một độc đoán thêm ra, thân thiết với nàng nhiều hơn lên. Nó chui vào tiềm thức nàng, nó kích động trí tưởng tượng ốm yếu của nàng. Nó đẻ ra khiếu ảo giác và lòng mê tín huyền bí cho đến khi đứng trước mả Đạm Tiên thì khiếu ảo giác này đã chuyển ám ảnh kia thành một bóng người, một hương thơm có thực trước mắt Kiều. Tin tưởng ảo cảnh ấy đến mê man, nàng ôm theo nó vào lòng. (…) Kiều đã hoàn toàn là sự bạc mệnh ở trạng thái tiềm năng. Sự bạc mệnh ấy đã khoác một hình thức “người” trong cõi thực tế là Thúy Kiều. Từ cái hôm mộng thấy Đạm Tiên, biết chắc chắn rằng đời mình sẽ bị bạc mệnh, Kiều chỉ còn nghĩ bằng tư tưởng bạc mệnh, cảm xúc bằng tình bạc mệnh, tin bằng tín ngưỡng bạc mệnh. Mỗi phút của nàng là một phút chờ đợi sự bạc mệnh, như sắp xẩy đến nơi, không nay thì mai, không mai thì kia, thế nào cũng xảy ra” [44; tr.301 - 302]. “Kiều không trốn tránh. Kiều đã bán mình! Bán mình để từ đây được sống số kiếp của mình chung với Đạm Tiên. Nàng thỏa mãn lắm. Hành vi liều lĩnh ấy đã giải phóng nàng, đã là kết quả tự nhiên và bắt buộc của tâm trí nàng (…). Thế là căn tính Kiều đã từ trạng thái tiềm năng biến ra một ý tưởng cố định, từ ý tưởng cố định biến ra một ám ảnh, rồi từ ám ảnh biến ra nàng Đạm Tiên với sổ đoạn trường. Và nó đã gặp đủ điều kiện khách quan để tự thực hiện. Nó đã làm chủ cuộc đời Kiều không phút nào nhường quyền trị vì cho bản ngã luân lí của nàng. Hành vi của nàng hoàn toàn là hành vi trực động, không kể gì đến đạo giáo, gia đình, xã hội” [44; tr.303]. Để chứng minh rõ thêm cho lập luận của mình, Nguyễn Bách Khoa dấn thêm một bước phân tích tâm tư của Kiều sau khi thất thân với Mã