Luận văn Thạc sĩ Văn học: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại
2,426
890
91
MỤC LỤC
THỂ LỆ TRÌNH BÀY ...................... Error! Bookmark not defined.
PHẦN MỞ ĐẦU .............................. Error! Bookmark not defined.
1. Lí do chọn đề tài .................................. Error! Bookmark not
defined.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................... Error! Bookmark not defined.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....... Error! Bookmark not defined.
4. Phương pháp nghiên cứu ..................... Error! Bookmark not defined.
5. Cấu trúc của Luận văn ......................... Error! Bookmark not defined.
CHƯƠNG 1: PHÂN TÂM HỌC VỚI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC NGHỆ
THUẬT VÀ NHÌN LẠI VIỆC ỨNG DỤNG LÍ THUYẾT PHÂN TÂM
HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI GIAI
ĐOẠN 1900 - 1945 .......................... Error! Bookmark not defined.
1.1.Phân tâm học với nghiên cứu văn học nghệ thuật ...Error! Bookmark
not defined.
1.2.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn
học Việt Nam trung đại giai đoạn 1900 - 1945 ...... Error! Bookmark not
defined.
CHƯƠNG 2: NHÌN LẠI VIỆC ỨNG DỤNG LÍ THUYẾT PHÂN TÂM
HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI GIAI
ĐOẠN 1945 - 1975 .......................... Error! Bookmark not defined.
2.1.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn
học Việt Nam trung đại giai đoạn 1945 - 1975 ở miền Bắc ............. Error!
Bookmark not defined.
2.2.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn
học Việt Nam trung đại giai đoạn 1945 - 1975 ở miền Nam ........... Error!
Bookmark not defined.
CHƯƠNG 3: NHÌN LẠI VIỆC ỨNG DỤNG LÍ THUYẾT PHÂN TÂM
HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI GIAI
ĐOẠN 1975 - NAY .......................... Error! Bookmark not defined.
3.1.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn
học Việt Nam trung đại giai đoạn 1975 - 2000 ...... Error! Bookmark not
defined.
3.2.Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn
học Việt Nam trung đại giai đoạn 2000 - nay ........ Error! Bookmark not
defined.
PHẦN KẾT LUẬN .......................... Error! Bookmark not defined.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Error! Bookmark not defined.
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cho đến nay, tính từ lúc ra đời (1896) phân tâm học vẫn là một trong
những đóng góp lớn cho nhân loại trong thế kỉ XX dù xung quanh nó không
phải là đã dừng tranh cãi. Ứng dụng một lí thuyết có vẻ “tối tân” như phân
tâm học vào nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại là một thử thách nhưng
có không ít người đã thử sức và thu được những thành công bên cạnh những
hạn chế có thể lường thấy từ trước. Từ khi được du nhập vào Việt Nam, lí
thuyết phân tâm học đã được ứng dụng khá rộng rãi trong sáng tác và
nghiên cứu văn học nghệ thuật trong đó có văn học trung đại Việt Nam
cũng gặp nhiều trắc trở, và quá trình đó mang tính gián đoạn hơn là sự tiếp
nối liên tục. Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu
văn học Việt Nam trung đại là một công việc cần thiết và có ý nghĩa trong
nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại nói riêng cũng như trong nghiên
cứu việc ứng dụng lí thuyết phương Tây vào thực tiễn văn học phương
Đông nói chung.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sau một thế kỉ du nhập và ứng dụng, đó đây đã bắt đầu có một số bài
viết, công trình ra đời nhằm đánh giá lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm
học trong nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại trong các công trình như:
Trần Thanh Mại (1961), Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ
Xuân Hương; Đặng Thanh Lê - Nguyễn Đức Dũng (1963), Góp thêm một
tiếng nói mới trong việc nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương; Vũ Đức Phúc
(1963), Ông Nguyễn Đức Bính và thơ Hồ Xuân Hương; Nguyễn Văn
Trung, Bùi Hữu Sủng (1973), Phê bình cũ - Phê bình mới; Phan Cự Đệ
(chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX; Đỗ Lai Thúy (2004), Phân
tâm học và phê bình văn học ở Việt Nam; Đào Duy Hiệp (2006), Phê bình
3
văn học phương Tây ở Việt Nam: Tiếp nhận và ứng dụng; Đỗ Lai Thúy
(2011), Phê bình văn học Việt Nam và vấn đề tiếp nhận lí thuyết nước
ngoài,… cùng một số luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp như: Nguyễn
Thị Minh Nga (2002), Lịch sử vấn đề đánh giá yếu tố tục và dâm trong
thơ Hồ Xuân Hương (Khóa luận tốt nghiệp) - Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn, Hà Nội; Nguyễn Thị Linh (2005), Đọc lại quyển sách
Nguyễn Du và Truyện Kiều của Nguyễn Bách Khoa (Khóa luận tốt nghiệp)
- Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội; Trần Hoài Anh
(2008), Lí luận phê bình văn học ở đô thị Miền Nam 1954 - 1975 (Luận án
Tiến sĩ), Viện Văn học - Viện Khoa học Xã hội, Hà Nội… Tuy nhiên các
công trình đó mới chỉ dừng lại ở việc nhìn nhận việc ứng dụng lí thuyết
phân tâm học như một trong nhiều phương pháp tiếp nhận một tác giả hoặc
đặt việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học như một
bộ phận của toàn thể bức tranh lí luận phê bình nên hoặc là quá thiên về
diện hoặc là quá thiên về điểm. Luận văn mong muốn khắc phục những
nhược điểm đó và đưa ra những nhận xét của riêng mình nhằm làm sáng tỏ
vấn đề mà đề tài đã đặt ra. Do Luận văn nhìn lại chính lịch sử nghiên cứu
này nên việc bình giá, so sánh, nhận xét… sẽ được dành cho phần chính văn
để tránh cảm giác trùng lặp.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, chỉ đến đầu thế kỉ XX, cùng với quá trình hiện
đại hóa của xã hội và đời sống văn học thì các phương pháp nghiên cứu văn
học hiện đại mới được du nhập vào Việt Nam. Trong khuôn khổ của mình,
Luận văn sẽ nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu
văn học Việt Nam trung đại từ đầu thế kỉ XX đến nay, bắt đầu với công
trình Hồ Xuân Hương - tác phẩm, thân thế và văn tài (Nguyễn Văn Hanh,
1936) đến những công trình như Hồ Xuân Hương - Hoài niệm phồn thực
4
(Đỗ Lai Thúy, 1999)… Khoảng thời gian một thập kỉ đầu thế kỉ XXI (2001
- 2011) cũng được khảo sát và đánh giá để làm đầy đủ thêm bức tranh toàn
cảnh này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đặt ra và giải quyết một vấn đề mang tính chất tổng thuật và
đánh giá lịch sử nghiên cứu nên Luận văn chú trọng vào việc đặt các tác giả,
các công trình nghiên cứu trong mối quan hệ đồng đại và lịch đại từ đó phân
tích, đánh giá, so sánh… những điểm hạn chế, những bước tiến để tìm ra và
lí giải những nguyên nhân, những quy luật của quá trình du nhập và ứng
dụng một lí thuyết phương Tây hiện đại, ở đây là phân tâm học, vào nghiên
cứu văn học trung đại Việt Nam.
5. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài Mục lục, Thể lệ trình bày, Phần Mở đầu, Phần Kết luận và
Thư mục Tài liệu tham khảo, Phần Nội dung của Luận văn được chia làm
3 chương như sau:
- Chương 1: Phân tâm học với nghiên cứu văn học nghệ thuật và Nhìn
lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong nghiên cứu văn học Việt
Nam trung đại giai đoạn 1900 - 1945
- Chương 2: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong
nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại giai đoạn 1945 - 1975
- Chương 3: Nhìn lại việc ứng dụng lí thuyết phân tâm học trong
nghiên cứu văn học Việt Nam trung đại giai đoạn 1975 - nay
5
CHƯƠNG 1:
PHÂN TÂM HỌC VỚI NGHIÊN CỨU VĂN HỌC
NGHỆ THUẬT VÀ NHÌN LẠI VIỆC ỨNG DỤNG LÍ
THUYẾT PHÂN TÂM HỌC TRONG NGHIÊN CỨU VĂN
HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI GIAI ĐOẠN 1900 - 1945
1.1.Phân tâm học với nghiên cứu văn học nghệ thuật
Theo nhận định của nhiều nhà nghiên cứu, “thế kỉ XX đã có ba sự
đảo lộn lớn trong đời sống tinh thần nhân loại: Chủ nghĩa Marx, Thuyết
tương đối của Enstein và Phân tâm học” [34; tr.160]. Cha đẻ của thuyết
phân tâm học là Sigmund Freud (1856 - 1939), một bác sĩ thần kinh sinh ra
và lớn lên ở Viên, thủ đô nước Áo, một trung tâm văn hóa lớn của Tây Âu
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Từ khi được Freud nêu ra năm 1896 đến nay
phân tâm học đã có lịch sử hơn 100 năm và “trong 100 năm ấy, ở nhiều
nước diễn ra những tranh luận gay gắt hoặc toàn bộ luận thuyết, hoặc về
điểm này điểm nọ, đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Có thể nói trong khoảng 50 -
60 năm đầu, cuộc tranh luận như “tôn giáo chiến”. Có nhiều người đã dọa
bắt ông Freud bỏ tù, có người lên án cho rằng Freud là kẻ tội phạm lớn nhất
đối với nền văn minh Âu châu. Trong nhiều thập kỉ, một số người mácxit
lên án mãnh liệt, phát xít Đức đốt sách của ông. Rồi từ khoảng năm 1960,
cuộc tranh luận vẫn tiếp tục nhưng đỡ gay gắt hơn. Trước đó rõ ràng có hai
phe “tín đồ” đối lập: một bên là tín đồ của Freud cho rằng phân tâm học là
chìa khóa vạn năng giải quyết tất cả các vấn đề nhân sinh và xã hội, một bên
chỉ cần nghe đến Freud hay phân tâm học, nhiều khi không cần đọc tác
phẩm của ông vẫn phê phán phản bác kịch liệt. Đó là thời xã hội châu Âu
trong giai đoạn công nghiệp hóa bước đầu của nó vẫn nghiêm ngặt bảo vệ
những cấm kị về tình dục và đạo Kitô (ít nhất cũng bề ngoài và trong sách
vở) lại càng như vậy. Đó cũng là thời mà một số học thuyết mới về tâm lí ra
6
đời với những phương pháp trị liệu riêng, trường phái nào cũng tự xem là đã
tìm ra chân lí gạt bỏ những trường phái khác” [4; tr.13 - 14]. Ngày nay đại
đa số học giả cho rằng “Freud đã có thiên tài phát hiện ra nhiều vấn đề mới,
đề xuất một số khái niệm tâm lí giúp hiểu sâu về con người, và bất kì ai
quan tâm đến con người đều phải nắm được” [4; tr.15 - 16]. Theo Nguyễn
Văn Dân, “phân tâm học” là một từ Hán - Việt được dùng để dịch một thuật
ngữ trong các thứ tiếng phương Tây, chẳng hạn như trong tiếng Pháp nó
được gọi là “(la) psychanalise”, trong tiếng Anh là “(the) psychoanali sis”,
trong tiếng Nga là “psikhoanaliz”. Theo nguyên ngữ của các thứ tiếng trên
đây, “phân tâm học” chỉ đơn giản là một “phương pháp phân tích tâm lí”.
Chính vì vậy mà người ta đã định nghĩa nó là “phương pháp thăm dò tâm lí
do Freud sáng lập ra nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa vô thức của các hành vi mà
cơ sở của nó nằm trong lí thuyết về đời sống tâm lí”. Như vậy, thực chất
“psychanalise” trong tiếng Pháp ban đầu là một liệu pháp tâm lí của bác sĩ
tâm thần S. Freud. Về sau nó được phát triển và thu hút nhiều môn đệ để trở
thành một học thuyết. Chính vì vậy mà ta có thể dịch nó sang tiếng Việt là
“tâm phân học”, với nghĩa là “khoa học phân tích tâm lí” [5; tr.145]. Trong
học thuyết của mình, Freud đã lấy khái niệm “dục năng”, “dục tính” hay
“tính dục” (libido) làm khái niệm trung tâm cho lí thuyết phân tâm học. “Cơ
sở lí thuyết của tâm phân học của ông được dựa trên quan niệm về khả năng
chi phối của dục năng. Theo ông, cá nhân mỗi con người đều có những bản
năng tính dục từ thời thơ ấu. Cùng với thời gian, những bản năng đó bị
dồn nén vào tầng vô thức, khi con người lớn lên, các ẩn ức vô thức thỉnh
thoảng lại tái hiện trong những giấc mơ và trong những hành vi ứng xử của
cá nhân, và đối với các nhà văn, chúng được thể hiện thành các hình tượng
văn học trong các tác phẩm của anh ta. Tức là, giống như đối với một cơn lũ,
nếu ta bịt chặt cửa này thì nó phải tìm cách thoát ra cửa khác, những ức chế
về tính dục không được thỏa mãn tất yếu cũng sẽ phải được phát tiết (hay
7
thăng hoa). thành những biểu hiện khác, mà đối với nhà văn, những biểu
hiện đó sẽ là hình tượng nghệ thuật trong sáng tác văn học. Xem thế thì ta
thấy Freud đã coi nguồn gốc của hoạt động sáng tạo văn học - nghệ thuật
về cơ bản chính là những ức chế về bản năng tính dục, tức là sự tích tụ thế
năng tính dục. Và ông coi những người mất khả năng tính dục hoặc những
người quá thỏa mãn về phương diện tính dục sẽ là những người không
thành đạt trong sáng tạo nghệ thuật, bởi vì những người này sẽ không bao
giờ có được thế năng tính dục tích tụ” [5; tr.149 - 150]. Sau Freud, học
thuyết của ông rẽ ra thành nhiều nhánh và trong đó C.G.Jung là một nhà
phân tâm học khá nổi tiếng sau khi Freud qua đời. “Ông đưa thêm vào hệ
thống lí luận phân tâm học khái niệm “vô thức tập thể”. Ông cho rằng nội
dung chứa đựng trong thế giới vô thức của con người là khuôn mẫu cho thế
giới vô thức của những nhóm người, những bộ tộc, những dân tộc, của
những lực lượng tôn giáo, những phong tục tập quán…. Chúng diễn tả
những mặc cảm lớn của toàn nhân loại phản ánh những dấu vết sợ hãi, lo âu
xa xôi nhất trong thời kì tiền sử của chúng ta” [11; tr.210]. Theo Nguyễn
Văn Dân, “đến K.G. Jung, ông vẫn giữ khái niệm vô thức làm khái niệm
trung tâm cho tâm lí học của ông, nhưng ông phản đối kịch liệt cái yếu tố
tính dục trong quan niệm của Freud bằng vô thức tập thể trong lí thuyết tâm
lí học của mình. Theo ông, bên dưới cái vô thức cá nhân của mỗi người đều
có một tầng vô thức tập thể giống với tầng vô thức tương đương của mọi
người khác. Và những kí ức của chủng loại đã được lưu giữ trong tầng vô
thức này. Đến một lúc nào đó chúng được thể hiện thành các hình tượng, và
những hình tượng này là giống nhau, vì chúng đều xuất phát từ những cảm
xúc giống nhau ẩn chứa trong vô thức của mỗi người thuộc một cộng đồng
người. Năm 1922, Jung đã nói rằng các hình tượng nguyên thủy trong vô
thức tập thể “là bản tổng kết đã được công thức hóa của khối kinh nghệm
điển hình to lớn của vô số các thế hệ tổ tiên, do đó có thể nói đó là vết tích
8
tâm lí của vô số cảm xúc cùng một kiểu. Chúng phản ánh khá trung thành
hàng triệu cảm xúc cá nhân, do đó đã đưa lại hình ảnh thống nhất của đời
sống tâm lí, hình ảnh này được phân tách và phóng chiếu lên nhiều gương
mặt khác nhau nơi diêm phủ trong huyền thoại”. Những hình tượng giống
nhau đó sẽ làm thành các cổ mẫu cho văn học và nghệ thuật, đặc biệt là cho
thần thoại. Cổ mẫu chính là khối năng lượng nguyên thủy tích tụ từ lâu đời
của con người” [5; tr.152 - 153] và “so với Freud thì Jung xa rời những cơ
sở khoa học thực nghiệm hơn, ông đi sâu vào lĩnh vực văn hóa, thần bí,
tâm linh, đôi khi với một óc tư biện thuần túy. Nhưng vì vậy ông đã mở ra
những con đường mới để nghiên cứu lĩnh vực tưởng tượng của con người.
Ông có ảnh hưởng sâu rộng trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, nhất là văn
hóa phương Đông và văn học nghệ thuật. Một nhà phân tâm học khác cũng
rất nổi tiếng, đó là Jacques Lacan. Ông là đại diện của Trường phái Freud
tại Pari. Lacan chủ trương phối hợp phân tâm học với ngữ văn học trên cơ
sở chủ nghĩa cấu trúc” [34; tr.162]. Đó là bản lai diện mục và cũng là con
đường phát triển của học thuyết “kì dị” và cũng đầy kì tích này.
Phân tâm học có ảnh hưởng rất lớn đối với văn học nghệ thuật. Nó
không chỉ có đóng góp lớn trong tâm lí học sáng tạo nghệ thuật, mà còn làm
thay đổi quan niệm về tác phẩm, tác giả, và tạo ra một phương pháp phê
bình mới: phê bình phân tâm học. Dù cho Freud từng nói rằng: “Tôi không
thực sự hiểu nghệ thuật, mà chỉ đơn giản là một người ham thích nghệ
thuật. Tôi thường nhận xét bề sâu của một tác phẩm nghệ thuật hấp dẫn tôi
nhiều hơn là tính những tính chất hình thức hoặc kĩ thuật, những cái mà
nghệ sĩ gán cho những giá trị hàng đầu. Tóm lại, trong nghệ thuật, tôi hiểu
biết đúng với nhiều cách biểu đạt và với một số tác dụng. Tôi nói như thế để
người phê phán bao dung đối với tiểu luận của tôi” [9; tr.167 - 168] và ông
khẳng định: “Cái mà phân tâm học có thể làm được - theo những quan hệ
qua lại của những ấn tượng sống, những thăng trầm ngẫu nhiên và những
9
tác phẩm của nhà nghệ sĩ - đó là lập lại cấu tạo và những khát khao bản
năng nổi lên ở trong người, nghĩa là những cái mà ông trình bày như là con
người muôn thuở” [9; tr.171]. Ông viết: “Do năng khiếu nghệ thuật và năng
lực làm việc gắn liền mật thiết với sự thăng hoa, nên chúng ta phải thừa
nhận rằng về mặt phân tâm học, chúng ta cũng chưa hiểu được thực chất
của chức năng nghệ thuật” [4; tr.218 - 219], đồng thời cũng công nhận:
“Không thể cho rằng bệnh tâm thần là do những cuộc hôn nhân thất bại hay
những mối tình lỡ làng gây ra, trái lại có thể tìm thấy dấu vết tất cả những
bệnh này ở thời kì ấu thơ với các mặc cảm tính dục” [23; tr.339].
Freud sử dụng phương pháp lí giải giấc mơ để lí giải tác phẩm văn
học. Theo Freud, vì việc lí giải tác phẩm văn học chỉ là việc xây dựng nên ý
nghĩa của kinh nghiệm ấu thơ cho nên việc phân tích văn học sẽ là một công
trình nghiên cứu tiểu sử nhà văn. Ông cho rằng “mặc cảm Eđíp như cái cốt
lõi của mọi hình tượng nghệ thuật”, “nghệ thuật là sự thỏa mãn bằng ảo
tưởng những dục vọng bản năng của nghệ sĩ. Những ham muốn của nghệ
sĩ thường to lớn không thể thỏa mãn trong đời sống thực tế, chỉ có thể thỏa
mãn bằng tưởng tượng”, “thưởng thức nghệ thuật chẳng qua là hình thức
ngụy trang những ham muốn vô thức” “người nghệ sĩ là người mắc bệnh
thần kinh loại đặc biệt, bệnh thần kinh là điều kiện nhờ đó nghệ sĩ có thể nói
lên sự thật”, “những người theo thuyết Frơt có xu hướng đồng hóa những
tượng trưng nghệ thuật với những tượng trưng trong giấc mơ”, và Freud
“nêu khái niệm thăng hoa - một khái niệm có liên quan đến sáng tác văn
nghệ. Khái niệm thăng hoa có quan hệ với lí luận xung động của Frơt. Frơt
đã đưa ra khái niệm xung động thay cho khái niệm bản năng. Xung động
này có thể đi theo ba lối đi khác nhau, với ba “số phận” khác nhau: 1. Nó có
thể bị cấm đoán, nếu thế thì trí thông minh bị chậm lại trong sự phát triển
dẫn tới sự đần độn, sự lạc hậu tinh thần. 2. Nó có thể tiếp tục dưới hình thức
hoạt động tinh thần, nhưng nó không tách ra khỏi đối tượng ban đầu của nó,