Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm của tùy bút trong Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
134
942
102
Chế Lan Viên. Anh Đức cũng lựa chọn những tên gọi “sáng tạo” rất nghệ thuật và
làm nổi
bật được bản chất của giặc Mĩ như:
- Thằng đồ tể (Dưới một vầng sáng đục)
- Con thú bốn chân (Vào mùa nắng)
- Đồ bẩn thỉu (Vào mùa nắng)
- Con bọ hung Mĩ (Những chuyện xung quanh một trận càn hình móng ngựa)
- Thứ quân đội quái gỡ nhất thế giới (Những chuyện xung quanh một trận càn
hình móng ngựa)
Trong tùy bút Nguyễn Tuân, đặc biệt là trong tùy bút Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi,
ngoài
các đại từ nhân xưng quen thuộc gặp trong tác phẩm của Chế Lan Viên và Anh Đức,
Nguyễn
Tuân cũng sử dụng rất nhiều từ và cụm từ đặc sắc, những cách gọi này vừa thấy
được bản
chất ăn cướp của giặc Mĩ đồng thời thể hiện được thái độ của nhà văn với kẻ thù,
tạo ra một
nét riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Gọi theo cấp bậc
- Thằng quan ba, thằng quan tư, thằng quan năm, thằng thiếu tá, bọn úy tá phi
công Hoa Kì…
Gọi một cách mỉa mai
- Thằng què, đám tù, thằng tù dây, dây tù, thằng giặc…
Gọi theo nhiệm vụ của giặc
- Thằng giặc lái, thằng giặc nước, thằng giặc trời, thằng giặc bay…
Gọi theo bản chất Mĩ
- Thằng ăn cướp (nhắc đi nhắc lại với tần số cao), thằng kẻ cướp Mĩ, Phi đội ác
ôn quỷ sứ, bọn kẻ cướp, nét ngu Mĩ và ác Mĩ…
Trong bút kí Thép Mới
Trong Hiên ngang Cu-ba: Thép Mới gọi bọn đế quốc Mĩ là: ổ dâm loạn nhơ nhuốc,
bọn ăn cướp quốc tế, bọn ăn cướp lớn, bọn ăn cướp trực tiếp cầm dao giết người
lấy của…
Trong Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam:
Thép Mới vẫn dùng các đại từ quen thuộc để chỉ kẻ thù Pháp và Mĩ, ngoài ra ông
còn
gọi giặc Mĩ là “tên khọm già”, và gọi các tướng Mĩ, Pháp là “tên tướng”, gọi bọn
tay sai cho
Mĩ là bọn Nguyễn Khánh là “sản vật đặc biệt của chiến tranh đặc biệt” hay “chó
của chủ
nghĩa thực dân mới”[52/11]…
Đó là những đại từ chỉ người ở ngôi thứ ba với hàm ý coi thường, khinh rẻ, không
tôn
trọng. Sắc thái ý nghĩa chung của tất cả những đại từ trên và những cách gọi
thay thế đó là
xấu nghĩa, chiều hướng tiêu cực. Còn riêng những từ, cụm từ gọi thay thế thì hầu
hết được
các nhà văn dùng theo cách “vật hóa” như: Con thú bốn chân, con quái vật, con bọ
hung Mĩ,
bọn cá mập Lầu năm góc…. Từ đó thấy được thái độ coi thường, căm thù của các tác
giả đối
với kẻ thù. Dưới con mắt của họ, những tên lính Mĩ không khác gì là những con
thú. Đó là
giá trị biểu hiện sâu sắc của lớp từ ngữ xưng hô mà tùy bút, bút kí sử dụng với
số lượng lớn.
Khắc hoạ thêm ý nghĩa này chúng tôi xin lấy một đoạn tùy bút của Nguyễn Tuân làm
kết
luận, “Mỗi lần ngắm đám sĩ quan giặc bay Hoa Kì ăn uống đi lại trong các trại
giam miền
Bắc, tôi lại cứ phải nghĩ đến cái sở thú Hà Nội và lại thấy vẫn như còn nguyên
đó đủ các thứ
lợn lòi chó sói và hổ báo. Một loại chó sói mới, hổ báo mới mới xích từ rừng
nguyên sinh
Hoa Kì lôi tuột về đây”[84/106].
3.2.3. Lớp từ ngữ bình dị, dân dã
Trong tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 lớp từ ngữ bình dân cũng được sử
dụng
với số lượng lớn và phát huy được hết công năng của nó và có giá trị nghệ thuật
cao.
Biểu hiện đầu tiên đó là cách nói dân dã, mang tính chất khẩu ngữ. Chúng ta có
thể
thấy cách nói này xuất hiện hầu khắp các tác phẩm. Những từ ngữ gần gũi với ngôn
ngữ
hằng ngày như: cóc khô gì, cái thây ma rũ gục ra rồi, mụ vợ, uỳnh oàng, rảnh
rang…[92/82,83). Hay cách nói của Nguyễn Tuân, sử dụng rất nhiều lời ăn tiếng
nói của
nhân dân trong tác phẩm của mình, đặc biệt là tập tùy bút Hà Nội ta đánh Mĩ
giỏi. Trong tập
tùy bút này việc sử dụng lớp từ ngữ này như một đặc trưng nghệ thuật, đánh dấu
cái tôi cá
nhân của Nguyễn Tuân trong đó. Thể hiện thái độ tức giận khi nhìn thấy ba tên
lính Mĩ đi
trong chợ hoa Hà Nội, nhà văn viết:
“[…]có người đã nói nhỏ rằng tống cổ mẹ nó ra khỏi chợ hoa đi.”[84/131].
Để vẽ nên bộ mặt Mĩ, Nguyễn Tuân hay dùng những từ ngữ hàng ngày như: cổ lỗ xỉ,
có vẻ như, gườm gườm, nhẵn thín, xồm xoàm, bô lô bù loa, gau gáu, xì xụp, nhồm
nhoàm,
gùn ghè, lột xột, lốp bốp, lem lẻm…, đó là những từ láy (láy âm và láy vần),
thường được sử
dụng trong đời sống cũng mang sắc thái xấu nghĩa, chủ yếu miêu tả tính chất của
hành động
với hàm ý tiêu cực và thường dành để miêu tả bọn giặc Mĩ. Qua đó thấy hiện lên
một cách
chân thật, sinh động chân dung của kẻ thù.
Lớp từ ngữ bình dân còn được biểu hiện ở cách nói mang dấu ấn vùng miền, cụ thể
hơn là việc sử dụng tiếng địa phương. Nếu là những tác phẩm của Anh Đức, Nguyễn
Thi,
Nguyễn Trung Thành, Trần Hiếu Minh chúng ta thấy rõ âm vang của giọng miền Nam
ngọt
ngào:
Trong bút kí Anh Đức chúng ta dễ bắt gặp các từ địa phương, bản thân tác giả
phải
chú thích thành tiếng phổ thông như: vụt (vứt đi), cái lu mái (cái chum), bông
trang ( hoa
mẫu đơn), bông điệp (hoa phượng), lúa sạ (lúa gieo thẳng), xăng nhớt (xăng dầu),
bóp (ví),
đánh bốc (đánh quyền anh), ăn nhậu gì (nhằm nhè gì), hủ tiếu (phở thịt lợn, món
ăn phổ biến
ở Nam Bộ), xí gạt (đánh lừa), ở trỏng (ở trong ấy) , nướng trui (nướng để nguyên
vẩy), cốm
dẹp (cốm), nếp cội (gạo nếp mẩy hạt chọn lọc), trảng (khoảng đất trống trải ở
trong khu
rừng), chực (chờ)…
Những từ ngữ này góp phần không nhỏ vào sự thành công của các bút kí Anh Đức bởi
lẽ những tác phẩm viết về mảnh đất, con người miền Nam mà thiếu đi cái ngôn ngữ
của miền
Nam thì sẽ không ra cái phong vị miền Nam nữa. Trần Hiếu Minh cũng sử dụng những
từ
ngữ này khá nhiều trong các bút kí của mình nhưng mật độ dày đặc thì Anh Đức nổi
trội hơn
và nghệ thuật sử dụng cũng gợi cảm hơn.
Còn với Chế Lan Viên thì đó là lời nói hằng ngày thô cứng mà chất phác, giản dị
của
người dân Trung Bộ (chủ yếu là ở Quảng Bình) - những người mà chính tác giả đã
gặp, đã
sống chung và lắng nghe được cả những tâm tư của họ:
- […] Con người răng mà lười nhác vậy hử, trời?
- Chào anh! Anh mới đến thành không hiểu hết mô. Chớ anh nớ ăn xong là đi
rông […]. Chỉ rứa đó thôi, có làm được chi mô. […]
- Nạ, nạ, anh xem rứa có tức không! Nói chừng mô là anh nớ cứ cười chừng nấy!
rứa là mẹ con tôi vu oan giá họa cho anh ấy hay sao?[92/98].
Thú vị là những từ ngữ này đọc lên tưởng chừng nghe khô khan, nghe buồn cười
nhưng đặt trong không gian câu chuyện, đặt trong cái dòng tâm tư, hồi tưởng của
tác giả thì
nó trở nên lấp lánh tràn đầy ý nghĩa. Cái “mô”, “rứa” ấy chính là lời lẽ của
những người
nông dân chân chất, vô cùng giản dị nhưng rất anh hùng.
3.2.4. Sử dụng đa dạng các kiểu câu
Sử dụng chủ yếu nhất vẫn là dạng câu trần thuật, trần thuật sự kiện, hay miêu tả
thiên
nhiên, cũng có khi bộc lộ cảm xúc… ngoài ra các kiểu câu như câu cảm, câu hỏi,
câu cầu
khiến cũng được sử dụng một cách tối đa. Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là sự
phối hợp một
cách nhuần nhuyễn các kiểu câu đã giúp người đọc thấy được các cung bậc cảm xúc
của nhà
văn cũng như mức độ, tính chất của sự kiện.
Trong tập bút kí Thăm Trung Quốc và Những ngày nổi giận, Chế Lan Viên rất hay
dùng liên tục câu cảm và câu hỏi. Điều này cứ trở đi trở lại hầu khắp các tác
phẩm của ông.
Có lúc là một loạt câu hỏi: “Nhưng cái nào nguy hiểm hơn cái nào? Tiếng bom nổ
xé trời
hay là cánh bướm? Những tiếng gầm của chiến tranh phá hoại hay là giọng lưỡi xảo
trá hòa
bình?”[92/87]. Có khi là liên tục các câu cảm “Đấy “tội ác” của Việt cộng chúng
ta là như
thế đấy! Cho nên trên ấy, người Mĩ mới rải “chất độc hóa học một cách hòa
bình!”. Chúng
đã nhầm! Chúng đang rải trên quả tim nhân loại! Người ta bảo người Mĩ đang làm
một cuộc
chiến tranh không tuyên bố ở miền Nam!”.[92/11].
Không chỉ dùng liên tục một kiểu câu trong đoạn mà tác giả còn dùng nhiều kiểu
câu
trong đoạn, chẳng hạn như đoạn tùy bút sau, tác giả đã kết hợp ba kiểu câu – câu
trần thuật,
câu hỏi, câu cảm, kết hợp kiểu câu ngắn – dài, câu đặc biệt và câu đầy đủ thành
phần. Sự kết
hợp này giúp nhà văn bộc lộ được các cung bậc cảm xúc, các sắc thái tình cảm
khác nhau khi
trình bày sự kiện.
“Phụ nữ! Cụ già! Con trẻ! Lần nào cũng vậy! Ôi! Hôm nay tôi bỗng đâm sợ tất cả
cái
gì là sắc trắng, sợ vôi, sợ gió, sợ bụi đường! Thế kỉ 20 yêu mến và đầy tin
tưởng của con
người! Có phải ở thế kỉ hiện đại này, cái chết cũng muốn sắm cho mình một bộ mặt
vô hình
khác, thực là hiện đại?”[92/6].
Nguyễn Trung Thành cũng có cách sử dụng câu giống Chế Lan Viên, “Không biết các
bạn có bao giờ nghĩ vậy không. Riêng tôi cứ mỗi lần nghe vọng lên tiếng hát đậm
đà uyển
chuyển của những bản dân ca Việt Nam, lòng tôi bỗng dưng xao xuyến lạ thường,
tôi bỗng
dừng lại như sửng sốt, như kinh ngạc, và bàng hoàng tự hỏi: đất nước ta, con
người Việt
Nam ta vẫn còn giữ được tiếng hát ấy ư? Kì diệu biết bao nhiêu! Kì diệu biết bao
nhiêu –
tiếng hát và tấm lòng Việt Nam chúng ta!”[73/31]. Cách viết này chúng ta cũng
gặp trong
tùy bút Nguyễn Thi, bút kí Trần Hiếu Minh.
Một nét đặc sắc nữa trong cách sử dụng câu của Nguyễn Trung Thành nữa là việc
ông
thường dùng một câu ngắn để tách hai đoạn văn – hiện tượng rớt câu này được dùng
rất
nhiều trong tùy bút Đường chúng ta đi, Trận đánh bắt đầu từ hôm nay hay bút kí
Chị Thuận.
Trong Đường chúng ta đi, những câu dùng để tách đoạn như “Cuộc ra trận lớn đó
kéo dài đã
mười năm nay”[73/33], “Rồi chúng ta đứng dậy” (2 lần)[73/37]. Còn trong Trận
đánh bắt
đầu từ hôm nay có những câu: “Cho đến sáng nay”[73/136], “Hôm nay là một ngày
như
vậy”[73/137], “Kì diệu thay là cuộc chiến đấu của chúng ta”[73/138], “Đây là
trận đánh để
LÀM NGƯỜI của chúng ta.”[73/147].
Việc sử dụng kiểu câu này có tác dụng nhấn mạnh điều mình đang nói đến, cảm xúc
vì
thế cũng được bộc lộ rõ hơn, tự nhiên hơn đồng thời tạo nên sự chú ý và gây được
ấn tượng
sâu sắc trong lòng người đọc.
3.2.5. Sử dụng nhiều biện pháp tu từ
Khi bàn về ngôn ngữ nghệ thuật, cụ thể ở đây là ngôn ngữ văn chương, chúng ta
không thể không nhắc đến các biện pháp tu từ được sử dụng. Đó là những cách diễn
đạt làm
cho lời văn đẹp, ý văn sâu. Việc sử dụng các biện pháp tu từ như một phương tiện
làm cho
hình tượng nghệ thuật trở nên sinh động và giúp người đọc dễ hình dung hình
tượng hơn.
Tác giả nào càng sử dụng thành thạo và sáng tạo các biện pháp tu từ thì càng có
nhiều thành
công trong nghệ thuật viết của mình. Trong các tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 –
1975, các
biện pháp tu từ hay được sử dụng nhất là so sánh, ẩn dụ, điệp cấu trúc câu…
Nguyễn Tuân rất hay sử dụng so sánh, đặc biệt là so sánh khác loại, điểm nghệ
thuật
thú vị này đã được rất nhiều người nói đến. Các đối tượng đưa ra để so sánh là
các đối tượng
khác loại nhau và mục đích so sánh là nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm
nào đó của
đối tượng so sánh. Do khác loại nhau nên khi so sánh ít nhiều có sự khập khiễng,
khoa
truơng nhưng đó là cái khập khiễng, khoa trương nghệ thuật, làm nên cái lạ của
nhà văn.
Nguyễn Tuân đã có những hình ảnh so sánh rất đẹp khi miêu tả về con sông Đà.
Dòng sông Đà lúc êm đềm buông trôi thì : “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc
trữ
tình” cũng có khi là “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên
như một nỗi
niểm cổ tích tuổi xưa” hay nhấn mạnh tâm trạng của con người thì tác giả viết
“Trông con
sông, vui như thấy nắng ròn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng.”[86/75]. Đặc biệt hơn là hình ảnh “Trên bản đồ miền Bắc Việt Nam, con
suối Tây
Trang chỉ gợn lên một vết nhỏ mờ như cái tóc mây của ai đó vừa rơi nhẹ xuống tờ
giấy”[86/104].
Giữa cái so sánh và cái được so sánh rõ ràng không có mối liên hệ với nhau nhưng
đặt
bên nhau, lại đặt dưới ngọn bút tài hoa của Nguyễn Tuân chúng trở nên gần gũi,
thân thiết
với nhau hơn bao giờ hết.
Kiểu so sánh này chúng ta cũng gặp trong tùy bút Nguyễn Trung Thành làm dậy lên
cái âm hưởng trữ tình cho tác phẩm của ông “Cho đến ngôi sao xa ngoài khung cửa
cũng
đứng im, lóng lánh như giọt nước mắt vui lặng lẽ của người vợ ở quê ta gặp chồng
sau mười
năm trời gian lao và cách biệt. Gió se lạnh, thoang thoảng hương lúa lên đòng,
thơm như sữa
một người mẹ trẻ.”[73/30].
Để phép tu từ này đạt được hiệu quả nghệ thuật cao, đòi hỏi ở nhà văn khả năng
liên
tưởng, tưởng tượng phong phú cùng với bút lực dồi dào. Qua những dẫn chứng trên,
rõ ràng
chúng ta nhận thấy các nhà văn đã có được khả năng đó và thể hiện rất tốt trong
tác phẩm
của mình.
Điệp từ, điệp cấu trúc câu cũng là biện pháp tu từ được các nhà văn viết tùy
bút, bút kí
giai đoạn này ưa chuộng. Đặc biệt là điệp cấu trúc câu được sử dụng với mật độ
dày đặc tạo
nên một giai điệu dồn dập, gấp gáp trong hơi thở, trong cảm xúc, có khi đó là
cảm xúc trước
sức mạnh bền bỉ của cây tre Việt Nam, mà cũng là của con người Việt Nam. “Tre
xung
phong vào xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng
lúa chín. Tre
hi sinh để bảo vệ con người. Tre, anh hùng lao động! Tre! Anh hùng chiến
đấu”[65/97]. Sử
dụng điệp từ, điệp câu trùng trùng điệp điệp là một thế mạnh của tác phẩm Thép
Mới tạo ra
một dấu ấn rất riêng trong văn phong của nhà văn.
Còn với Khánh Vân, cảm xúc như dồn nén, như chất chứa bấy lâu nay để bây giờ mới
trào ra đầu ngọn bút, những câu hỏi liên tiếp nhau như xoáy sâu vào lòng mọi
người, là sự
khâm phục trước sức mạnh Việt Nam và cũng là lời tố cáo đanh thép đối với giặc
Mĩ dồn
dập, dồn dập… “Đã có ở đâu trên thế giới máy bay Mĩ bị diệt nhiều như khi chúng
đụng đến
bầu trời Việt Nam? Đã có ở đâu trên thế giới lính viễn chinh Mĩ phải chết nhiều
như khi
chúng đặt chân vào mảnh đất Việt Nam? Đã có ở đâu trên thế giới các thứ chiến
lược chiến
thuật tân kì nhất của bọn cá mập Lầu năm góc bị thất bại nhục nhã như khi chúng
đem dùng
vào mục đích cướp nước Việt Nam?”[90/90].
Cảm xúc như trào dâng khi Nguyễn Thi trở lại dòng kinh quê hương, day dứt, băn
khoăn, uất nghẹn khu chứng kiến sự tàn phá của giặc Mĩ lên quê hương mình. Đau
đớn đó
nhưng cũng tin vào sức mạnh của con người Việt Nam, hàng loạt câu khẳng định bắt
đầu
bằng “Đó là…” như chứng minh một điều rằng rồi Việt Nam sẽ chiến thắng bởi vì
sức mạnh
ấy đã có tự bao đời nay, thế hệ này nối tiếp thế hệ kia, bởi vì “khi nhân nghĩa
đã bị xúc phạm
thì nhân nghĩa lại mang sức quật khởi ghê gớm” “Đó là lúc Trưng Trắc nghe tin Tô
Định giết
chồng mình. Đó là lúc Nguyễn Trãi một đêm nào đó đã đem hết trí tuệ và tâm hồn
mình ra
viết “Bình Ngô đại cáo”, đó là lúc những gốc dừa, bờ kinh[…]”[78/53].
Kiểu lặp lại câu tầng tầng lớp lớp là một dụng ý nghệ thuật, phù hợp với thể
loại tùy
bút vì nó phát huy được hiệu quả thẩm mĩ trong việc biểu lộ cảm xúc của tác giả,
qua đó tạo
sức truyền cảm mãnh liệt đến trái tim người đọc, đồng thời cũng nhấn mạnh được
chủ đề
muốn nói tới.
3.3. Giọng điệu đa dạng
Giọng điệu là “Giọng nói, lối nói, biểu thị một thái độ nhất định”[64/403],
trong văn
chương có thể hiểu đây là lối viết, là giọng văn. Giọng văn này thường biểu hiện
thái độ, tình
cảm của tác giả đối với sự kiện, nhân vật đang được nói tới. Mỗi nhà văn, nhà
thơ đều có
một giọng khác nhau tùy thuộc vào vốn sống, sự trải nghiệm cũng như cả vấn đề
tài năng.
Trong tùy bút, bút kí của nhiều tác giả giai đoạn 1954 – 1975 chúng ta bắt gặp
nhiều
giọng điệu khác nhau, nhưng nét chung nhất, dễ nhận thấy nhất đó là giọng bình
luận chính
luận, giọng mỉa mai, giọng trữ tình.
3.3.1. Giọng bình luận chính luận
Giọng điệu này thể hiện rõ trong những bút kí chính luận – những tác phẩm viết
về
những vấn đề chính trị - xã hội quan trọng, thiết yếu được nhiều người quan tâm.
“Với ngôn
ngữ chính luận, người viết bộc lộ trực tiếp và rõ ràng khuynh hướng tư tưởng của
mình,
nhằm mục đích tuyên truyền chiến đấu”[38/439], nên chúng ta “nghe” rất rõ sự lập
luận một
cách chặt chẽ đầy sức thuyết phục của các tác giả. Sở dĩ giọng điệu này là giọng
điệu chủ
đạo trong tùy bút, bút kí 1954 – 1975 bởi vì xuất phát từ thực tế khách quan,
các tác phẩm
giai đoạn này phản ánh những vấn đề nóng hổi của đất nước gắn liền với cuộc
kháng chiến
chống Mĩ cứu nước và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là những sự kiện,
những
vấn đề mang tính vĩ mô. Các nhà văn đã phân tích, bình luận các vấn đề chính trị
xã hội
đương thời bằng một giọng chính luận sắc sảo, sâu sát vấn đề. Các vấn đề được
đưa ra như
Hà Nội giải tù qua phố Hà Nội, chuyện dọn nhà lên vùng kinh tế mới Điện Biên,
những trận
càn của giặc hay những thắng lợi mà nhân dân ta thu được từ những kế hoạch của
Đảng, và
cả những vấn đề quốc tế như: Mĩ gạt Cu-ba ra khỏi hiệp hội các nước châu Mĩ La
tinh…
Trước hết, các nhà văn đã sử dụng giọng phân tích chính luận – đây là một dạng
thức
căn bản của văn chính luận. Phân tích là “Khảo sát vấn đề theo nhiều khía cạnh
cùng mối
liên quan giữa chúng, rồi tổng hợp nâng cao nhằm đi sâu vào bản chất của sự việc
cùng động
hướng phát triển của nó.”[38/444].
Trong tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 -1975 chúng ta thấy giọng điệu này được các
tác
giả sử dụng một cách tối đa và mục đích chủ yếu là làm rõ, làm nổi bật các sự
kiện chính trị
được đề cập đến. Thực ra phân tích chính là sự kết hợp hai dạng thức chứng minh
và giải
thích, điều này sẽ giúp tác giả đi được đến tận cùng của vấn đề. Để làm rõ luận
điểm “Kẻ thù
của ta là một kẻ thù vô cùng nham hiểm.”[92/78], với việc tận dụng năng khiếu
nhận xét và
sở trường phân tích để mổ xẻ, Chế Lan Viên đã phân tích ở nhiều luận cứ, luận
chứng, lập
luận vô cùng chặt chẽ, các luận cứ được đưa ra như:
- Nó luôn luôn sơ kết […] hắn đều tìm cách mới phá hoại ta.
- Hiểu rằng chỗ dựa của cách mạng là nhân dân […] nó liền chui vào dân, nấp
dưới danh nghĩa dân để hoạt động.
- Ở bờ Nam chúng bắt đồng bào kẻ khẩu hiệu hoan hô chúng …
[92/78]
Ông đã phanh phui được mọi tội ác cùng âm mưu quỷ quyệt, gian xảo của bọn giặc
Mĩ
và tay sai. Trong bút kí của mình, để giúp cho việc phân tích được đi đến tận
cùng, ông đã
“thu lượm và suy nghĩ trên những con số, những mẩu tin […]. Đây là những dẫn
chứng hoàn
toàn chính xác, có thể khô khan nhưng rất phổ biến mà giặc Mĩ không sao chối cãi
được.”[7/143]. Chính vì thế, tác phẩm của ông, một mặt đánh thẳng vào bộ mặt kẻ
thù, mặt
khác tạo được niềm tin trong lòng bạn đọc, đặc biệt là bạn đọc quốc tế thấy được
bản chất
đích thực của giặc Mĩ. Tính chiến đấu của những bài bút kí cũng là từ đó.
Giọng phân tích đó, tất yếu dẫn đến giọng bình luận. Và giọng bình luận chính
luận
trở thành giọng chủ đạo của tùy bút, bút kí giai đoạn này. Bình luận là “Đánh
giá xem xét cái
đúng, cái sai mặt hay mặt dở của một hiện tượng, một sự vật, một quan niệm… đồng
thời
đào sâu mở rộng thêm nhằm phát huy những mặt tích cực và ngăn ngừa những mặt
tiêu cực,
sai trái.”[38/444]. Bình luận trong tác phẩm tùy bút, bút kí giai đoạn này không
mang sắc
thái trung hòa nữa mà là giọng bình thể hiện phản ứng, thái độ của các nhà văn
một cách rõ
rệt, thông qua những nhận xét, đánh giá hết sức chính xác. Ca ngợi là ca ngợi
hết mình, phê
phán là phê phán gay gắt. Chúng ta có thể bắt gặp giọng điệu này trong tùy bút
của Nguyễn
Tuân, Nguyễn Trung Thành hay bút kí của Thép Mới, Chế Lan Viên.
Về những tên giặc lái gặp thất bại trên “tọa độ lửa” Hà Nội, bị dẫn đi qua các
phố
phường Hà Nội, Nguyễn Tuân đánh giá: “Và giữa lòng sông khô trục chính của Hà
Nội đang
lừ đừ trôi đi những rơm rác Hoa Kì. Từ lòng đường xông lên mùi của thần chết,
một cái thứ
khắm thối Hoa Kì mà không thứ nước huê đế quốc nào tẩy tan được”[84/37,38]. Ông
bình
luận: “Trên thế giới có lẽ chưa đám bộ hành nào buồn ỉu bằng cái đám đi chân
này.”[84/39].
Giọng bình luận này trải đều khắp các trang văn của Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, thể
hiện được
thái độ khinh bỉ, căm thù cũng như sự phản ứng gay gắt của tác giả đối với những
tên “giặc
lái” Hoa Kì.
Cũng với giọng điệu đó, Chế Lan Viên bình luận về bản chất của giặc Mĩ “Đế quốc
Mĩ không hổ danh là những kẻ dã man, những con thú mới không phải trong rừng sâu
tiền sử
mà ở giữa xã hội loài người thế kỉ 20.”[92/90], ông cũng bình luận rất triết lí
“Kinh nghiệm
về sau cho thấy: lần đấu tranh nào nhân dân không chùn bước, lần ấy lại càng ít
đổ máu, hi
sinh. Và lần đấu tranh nào lính tàn sát nhiều thì lính càng phải khóc nhiều!
Người Mĩ không
bao giờ hiểu được chỗ đó.”[92/24].
Giọng phân tích, bình luận là giọng chủ đạo của bút kí Chế Lan Viên, biểu hiện
chất
trí tuệ của các tác phẩm. “Dựa vào vốn hiểu biết, sự sắc bén trong tư duy luôn
vận động,
cách nhìn không lười biếng, dám tìm vào ngóc ngách cuộc sống, nhà bút kí Chế Lan
Viên đã
từ những sự việc tản mạn, con người bình thường biết rút ra cái lõi thực chất,
nâng lên ý
nghĩa tượng trưng. Anh biết cắm chân trên miếng đất hiện thực nhưng cũng biết
bay lên với
trí suy tưởng.”[7/145].
Thép Mới cũng viết Hiên ngang Cu-ba và Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam với
giọng điệu chủ đạo là phân tích, bình luận. Những vấn đề đặt ra được tác giả sử
dụng ngôn
ngữ chính luận đặc sắc, cách lập luận chặt chẽ, sắc bén, tác giả đã giúp người
đọc không chỉ
hiểu một cách tường tận các vấn đề đặt ra mà còn khơi gợi được những suy nghĩ
sâu sắc về
những vấn đề đó. Chẳng hạn việc nhìn nhận về con người Phi-đen Ca-xtơ-rô, Thép
Mới cho
rằng vị lãnh tụ này là “Một Gia-rô-sích của thời đại mới, nhân vật nổi bật hiện
nay của phong
trào giải phóng dân tộc và chống đế quốc Mĩ đang như vũ bão gầm thét khắp quả
địa cầu
này”[51/38]. Và từ cuộc đời hoạt động cách mạng của con người này, Thép Mới nhận
định:
“Bất cứ ai là người có lòng và có lửa, bất cứ tâm hồn trung thực nào trong thế
giới ngày nay
cũng đều đi đến với chủ nghĩa cộng sản”[51/39]. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn
là một
“tay” bình luận những vấn đề quốc tế rất sắc bén, ông cho rằng việc đế quốc Mĩ
cùng các
nước châu Mĩ khác âm mưu gạt Cu-ba ra khỏi tổ chức các nước châu Mĩ chính là “Tổ
chức
các nước châu Mĩ đã tự mình chôn mình” bởi một lẽ “Tổ chức các nước châu Mĩ đã a
dua
theo tên trùm hiến binh quốc tế, chống lại một nước tự do ở châu Mĩ thì còn có
đâu là một tổ
chức liên minh tự nguyện, bình đẳng của các nước châu Mĩ nữa.”[51/50].
Kết quả tất yếu của giọng điệu bình luận chính luận chính là giọng điệu mỉa mai.
Nếu
bình luận với sắc thái gay gắt thì giọng mỉa mai là mỉa mai đến mức chua cay. Kẻ
thù đọc
hẳn sẽ phải xấu hổ, phải lấy tay mà che mặt. Đó là sự giễu cợt bằng cách nói
cạnh, nói khóe,
nói ngược lại những điều mình nghĩ nhưng đối tượng vẫn hiểu ra. Như việc Thép
Mới giễu
cợt cảnh Đờ cát nhận lon tướng của mình bằng việc đón chờ máy bay thả dù xuống
“lon
thiếu tướng và rượu ăn mừng”, nhưng vì cả hai thứ đó đã rơi xuống trận địa của
ta nên Đờ
cát đành “Phải sai xưởng lính thợ lê dương gò nguội cho hắn mấy ngôi sao dính
vào lon
tướng “tự trang tự chế” của hắn vậy”[52/39]. Còn tên quan tư Lănggơla được thăng
một cấp
thì mượn lon quan năm của Đờ cát cũ rồi bôi mực tàu đen lên nền lon đỏ cho hợp
với binh
chủng của mình.”[52/39]. Thật bi hài và nực cười cho những tên hám danh mà bất
lực.
Giọng điệu này cũng được Nguyễn Tuân sử dụng một cách triệt để trong Hà Nội ta
đánh Mĩ giỏi để chế nhạo, giễu cợt, mỉa mai đối với những thằng giặc lái Hoa Kì.
Và cái
cuời này là cái cuời là một cách trực tiếp, như chửi thẳng vào mặt kẻ thù. Nhà
văn đã tuởng
tuợng ra cái chết của “nguời đô đốc bố” và cái cảnh để tang của “thằng con thiếu
tá tội phạm
Mích Kên” mà nực cuời “thật là một điều khá tội nghiệp cho một người đô đốc bố,
khi mà
trên cái kì hạm đô đốc kéo cờ đám ma to lại treo thêm mũ rơm, gậy tre lên đầu
đòn trục cần
tàu Hoa Kì để thay cho thằng con bất hiếu là Mích Kên đang năm uờn ra trên
giường trắng
kia kìa!”[84/75]. Cái mỉa mai đó được nhận xét là “Ông đã đóng đinh những tên
giặc lái trên
cây thập ác văn xuôi” hay là “tiếng cuời của ông như có chất axit làm huỷ hoại
bộ mặt đối
tượng đả kích của ông.”[1].
3.3.2. Giọng điệu trữ tình
Bên cạnh giọng bình luận chính luận, tuỳ bút, bút kí giai đoạn này còn thấm đẫm
chất
trữ tình, đặc biệt là trong các tuỳ bút vì giọng điệu trữ tình đây là giọng chủ
đạo của thể loại
này. Đó là việc “Phản ánh hiện thực bằng cách biểu hiện những ý nghĩ, xúc cảm,
tâm trạng
riêng của con người, kể cả bản thân người nghệ sĩ trước cuộc sống.”[64/1054]. Do
đó, trong
tác phẩm không chỉ có việc ngập tràn sự kiện mà còn có những dòng cảm xúc, suy
tuởng của
thế giới nội tâm con nguời chính vì thế giọng điệu trở nên tha thiết, sâu lắng
hơn bất kì lúc
nào. Với giọng điệu trữ tình này, không chỉ làm “sống dậy cái thế giới chủ thể
của hiện thực
khách quan” mà còn “giúp ta đi sâu vào thế giới của những suy tư, tâm trạng –
nỗi niềm –
một phương diện rất năng động, hấp dẫn của hiện thực”[38/358]. Giọng điệu trữ
tình trong
các tác phẩm đuợc bộc lộ ở những khía cạnh sau:
Truớc hết đó là giọng trữ tình công dân – giọng điệu của tác phẩm được nảy sinh
trên
từ mối liên hệ giữa cảm xúc của nhà văn và xã hội. Các nhà văn đã đứng trên tư
cách công
dân cổ vũ và ca ngợi sự nghiệp của nhân dân, lên án kẻ thù chung, cái tôi hoà
nhập vào cái ta
rộng lớn, vì thế giọng điệu có sự phức hợp giữa giọng điệu của cái tôi và giọng
điệu của cái
ta. Các nhà văn đã thể hiện những suy tưởng của thế giới nội tâm đầy cung bậc
cảm xúc về
đất nước, về dân tộc. Cái hay ở đây chính là “qua sự bộc lộ những cảm xúc, nhận
xét, suy