Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm của tùy bút trong Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
191
942
102
“Thành công căn bản của Cửu Long cuộn sóng cũng chính là kết quả bước đầu của
Trần
Hiếu Minh trong quá trình ba cùng đầy nhiệt tình cách mạng của anh trên miếng
đất Mỏ Cày,
Thạnh Phú, Bến Tre đỏ máu anh hùng của miền Nam anh dũng, bất khuất. Trên chất
liệu của
cuộc sống phong phú, anh đã cần cù, tìm tòi, chọn lọc, sắp xếp và cố gắng vận
dụng đúng
đắn lập trường quan điểm cách mạng để suy nghĩ, cân nhắc tổng hợp đặng rút ra
cái bản
chất, cái mang tính tư tưởng, cái cần nói với bạn đọc Nam Bắc nhằm làm cho họ
thấy rõ tình
hình hơn và thấy rõ mình phải làm gì để góp phần thúc đẩy sự nghiệp đánh Mĩ cứu
nước,
tiến nhanh đến thắng lợi cuối cùng.”[49]. Nhiệm vụ đi để viết – hòa nhập vào cái
ta là một
yêu cầu cần thiết, tất yếu lúc bấy giờ đối với nhà văn, đặc biệt đối với các nhà
viết kí, đó là
một lẽ tất yếu, phải đến tận nơi, tận mắt nhìn thấy, tai nghe thấy thì tác phẩm
của họ mới tạo
được niềm tin trong lòng bạn đọc. Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi Thép Mới
viết Hiên
Ngang Cu-ba sau chuyến đi thăm Cu-ba về, sẽ không có một Thăm Trung Quốc nếu
không
có chuyến đi Trung Quốc của Chế Lan Viên…
Ta bắt gặp bước chân của các nhà văn trên khắp mọi miền đất nước. Nguyễn Tuân
trước cách mạng lang thang ở khắp nhà ga, khắp con đường vô định thì bây giờ ông
đã đi có
mục đích, ông lên Tây Bắc, sống chung với những con người nơi đây, ngủ chung với
những
người chiến sĩ đồn Tây Trang, làm quen với những người mở đường ở Điện Biên để
sống, để
viết. “Tôi đã gặp cán bộ Than Uyên giữa đất Than Uyên”[86/265] hay “tôi nhìn
cánh đồng
Mường Thanh…” lại có lúc “tôi rời Than Uyên trở ra châu Quỳnh Nhai…”[86/266].
Bước
chân của ông đã đi khắp vùng Tây Bắc và cũng từ những bước chân ấy chúng ta có
được
“Sông Đà là kết quả của cuộc đấu tranh tư tưởng và chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn
Tuân.”[45/25].
Rõ ràng cái thời “Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp” (Thơ Chế Lan Viên) đã
qua rồi, hoàn cảnh đất nước đã tạo cho tâm thức của những nhà văn ý thức bám sát
mà
không chỉ bám sát mà là đi sâu vào đời sống chiến đấu, đời sống lao động sản
xuất của nhân
dân để sáng tác. Vì lẽ đó cái tôi bây giờ là cái ta hòa nhập với nhân dân, với
dân tộc và sự
trải nghiệm đó của các nhà văn thực sự là sự trải nghiệm tích cực.
2.3.2. Cái tôi với nhiều cung bậc cảm xúc
Tùy bút, bút kí được viết ra từ một sự việc, một cái cớ nào đó, nhưng như chúng
ta đã
nói cứu cánh của hai tiểu loại này cuối cùng cũng chỉ là để nhà văn bộc lộ cảm
xúc, suy nghĩ
của mình trước những sự việc, sự kiện ấy. Vì thế trong tùy bút, bút kí giai đoạn
1954 – 1975
chúng ta dễ gặp những dòng cảm xúc của các tác giả được phát biểu một cách trực
tiếp. Đó
là những dòng cảm xúc ngập tràn, mượt mà làm tươi mát những sự kiện xuất hiện
trong tác
phẩm.
Với Nguyễn Trung Thành, đó là cái tôi bồi hồi, xao xuyến, thổn thức trước những
điều diệu kì của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Trong các tùy bút và
bút kí của
ông, ta nghe như cái thổn thức ấy thẫm đẫm trên từng câu văn, từng hình ảnh. Đó
là cái thổn
thức đến ngạc nhiên khi nghe một câu hát cất lên trong đêm trước ngày ra trận.
“Tôi nằm đã
lâu, không ngủ. Không sao ngủ được. Có cái gì đấy vừa êm ả, vừa trào sôi đang
dậy trong
lòng tôi, người lính đêm nay” [73/30] và lại nữa “Điều gì đây? Có gì đây đang
trào dậy trong
lòng tôi như một linh cảm mơ hồ, như một hơi men say, một cơn sóng ngầm xao động
ở tận
chỗ sâu kín nhất của tâm hồn.”[73/30] để rồi khi ánh bình minh đã lên, giờ ra
trận đã bắt đầu,
người chiến sĩ ấy phải thốt lên – “Tôi yêu thiết tha cái ngày hôm nay của đất
nước, thiết tha
yêu đội ngũ trùng điệp của chúng ta đang tiến lên trong cuộc hành quân cả nước
sục sôi và
chiến thắng này”[73/32].
Cái bồi hồi, xao xuyến ấy của Nguyễn Trung Thành cũng là cái bồi hồi của Nguyễn
Thi khi gặp lại “dòng kinh quê hương”. Một thoáng bâng khuâng khi gặp lại những
hình ảnh
của tuổi thơ với những giọng hò, những tiếng đưa em, và ngay cả tiếng giã bàng
cũng đều
đọng lại trong tâm thức tác giả. Và bây giờ dù cho dòng kinh ấy đã trắng xóa một
màu thuốc
độc của chiến tranh “nhưng sao tiếng chày giã bàng, giọng hát đưa em, tiếng sào
hái quả,
tiếng ai đang cục tác gọi gà cứ vang mãi bên tai tôi. Càng đi sâu vào cảnh tàn
phá, những âm
thanh ấy càng dâng lên tha thiết, thấm trong từng hơi thở.”[78/48].
Cảm giác ấy chúng ta dễ nhận thấy trong rất nhiều trang tùy bút, bút kí giai
đoạn này,
đó là những cảm xúc rất đẹp, rất nhân văn bởi vì đó không phải là thứ tình cảm
riêng, bi lụy,
trái lại nó là cảm xúc cá nhân nhưng ở tầm vĩ mô, ở cái tình dân tộc, ở niềm tin
tất thắng cho
ngày mai mà không phải ai cũng có được.
Tình cảm đó đôi khi chỉ là cảm xúc ngỡ ngàng đến ngạc nhiên khi bắt gặp cả cánh
rừng cọ bạt ngàn ở đất Cu-ba mà Thép Mới lại liên tưởng đến cả những cây tre
quen thuộc
của Việt Nam. Cũng cái cảm xúc ngỡ ngàng đó, Chế Lan Viên gặp lại những cảnh sắc
nơi
đất khách quê người, khơi gợi lại trong lòng ông những nét văn hóa của thời đã
qua, dù nét
văn hóa đó là của xứ bạn “Thật lạ lùng! Một dân tộc biết yêu hoa đã là đáng quý!
Lại biết
thưởng thức sắc lá, thưởng thức cái bóng chiều, cái thời khắc, cái quang âm,
điều đó mới lạ
sao!”[91/22].
Chế Lan Viên cũng thốt lên khi bắt gặp những con người bình thường mà anh dũng,
khi bắt gặp cuộc sống đã đổi thay, cảm xúc đó dâng lên tuôn trào “Thương yêu
biết bao
những năm tháng ấy, chúng ta phải tự bảo toàn lấy ta. Tự hào biết bao vì mười
năm dựng
xây xã hội chủ nghĩa đã cho ta vóc dạc ngày nay”[92/73].
Cái tôi trong tùy bút, bút kí giai đoạn này còn được thể hiện ở chỗ, trong các
tác phẩm,
các nhà văn đã trực tiếp phát biểu cảm quan, suy nghĩ của mình và đó cũng chính
là chủ đề
của tác phẩm. Đây là một nét để khu biệt giữa kí trữ tình và kí tự sự. Trong tùy
bút, bút kí
(tiêu biểu cho kí trữ tình), cái tôi của nhà văn như là nhân vật trữ tình để từ
đó mọi quan
niệm, mọi ý nghĩ được bộc lộ ra, nhà văn chứ không ai khác là người trực tiếp
phát biểu chủ
đề tác phẩm. Chủ đề đó nằm ngay trong tác phẩm và thường mang tính triết lí sâu
sắc mà
nhà văn muốn gửi gắm, chúng ta thấy nhà văn không còn đứng sau các sự kiện nữa,
mà xuất
hiện cùng sự kiện để bình giá, để lên tiếng.
Chế Lan Viên, trước sự kiện giặc Mĩ xâm lược, trước sự anh dũng và cả sự hi sinh
của
đồng bào dân tộc, đã viết “Những ngày nổi giận cũng chính là những ngày lòng ta
cháy bỏng
yêu thương”[92/87], “yêu thương cho ta sức mạnh phi thường! Nhưng chính căm thù
càng
cho ta sức mạnh! Con người sống để yêu thương! Nhưng vì có bọn đế quốc, bọn đao
phủ cho
nên con người cũng phải sống để mà trả thù”[92/94], Người lí giải thêm “Thực ra
căm thù
với yêu thương chỉ là một. Căm thù đế quốc Mĩ bao nhiêu chính là bấy nhiêu ta đã
yêu
thương Tổ quốc, nhân dân, dòng họ, xóm làng”[92/94]. Có đôi lúc, ông lại triết
lí về con
đường đi của dân tộc, của những con người đang ngày đêm chiến đấu để giữ gìn
hạnh phúc
cho nhân dân “Đường thẳng nhất là con đường ngắn nhất và gần gụi nhất. Con đường
thẳng
nhất là con đường của mũi tên, của tia sáng mặt trời, của chân lí chẳng cong
queo. Con
đường giữa những người cùng lí tưởng.”[92/42]. Triết lí ấy giản đơn, dễ hiểu, dễ
hiểu như
chính cuộc đời của dân tộc chúng ta, hễ có giặc đến thì bất kì giá nào cũng phải
đứng lên.
“Đọc Chế Lan Viên, ta thấy cái tôi trong bút kí của anh có giá trị khái quát
hóa. Nhà văn cảm
xúc, suy nghĩ với tư cách là một chiến sĩ trong hàng ngũ nhân dân cách mạng.
Đồng thời cái
tôi ấy cũng có giá trị cá tính hóa mang bản sắc riêng của nhà văn. Không phải
lúc nào những
người sáng tác cũng phát hiện được những điều mới lạ, cũng rút ra được những kết
luận độc
đáo, nhưng ít nhất cái cách suy nghĩ của anh phải có sắc thái của riêng anh, có
thế anh mới
kích thích được tâm trí độc giả cùng anh suy nghĩ.”[39].
Suy nghĩ về sức mạnh con người, sức mạnh dân tộc, cả Nguyễn Trung Thành và
Nguyễn Thi cũng đã có những chiêm nghiệm, những nghĩ suy rất đáng trân trọng,
“Chị
Thuận đó là quê hương chúng ta. Đó là nhân dân. Đó cũng là chân lí chiến thắng
vĩ đại của
chúng ta mà giặc Mĩ đến chết không phương gì hiểu được. Đó cũng là điều bí mật
công khai
lớn nhất của chúng ta trong cuộc chiến đấu này.”[73/82]. Còn Nguyễn Thi thì suy
nghĩ về
dân tộc, về thời đại “Sức sống anh hùng của thời đại chúng ta, bình dị và khiêm
tốn, đang
biểu dương tại đây tất cả sức mạnh lớn lao và những sự tích tuyệt đẹp của
mình”[78/192].
Nhà văn Nguyễn Tuân là người ưa phát biểu những triết lí ngay trong tác phẩm của
mình. Có thể nói hầu hết đó là những quan điểm sống đã được đúc kết từ những
chuyến đi,
những lần trải nghiệm và đều được thể hiện rõ trong tác phẩm cả trước và sau
cách mạng.
Nhưng cái triết lí của ông bây giờ gắn với triết lí của dân tộc chứ không còn là
kiểu: Hạnh
phúc có lẽ chỉ ở những nhà ga, hồi trước cách mạng. Ông nghĩ: “Thật vậy, cuộc
sống gian
khổ chúng ta mỗi mùa mỗi năm càng đi mãi tới sự bình thường, đi mãi tới nhiều
triển vọng
cụ thể.”[86/134] khi tưởng rằng việc dọn nhà lên Điện Biên là một việc khó khăn,
hóa ra
việc ấy cũng không nằm ngoài quy luật, bởi vì “Rời ra tách ra lại có nghĩa là
lớn thêm lên.
Rời một chỗ này đứng ra một chỗ khác là một quá trình phát triển.”[86/149].
Chính vì quan
niệm như thế nên trong cách nhìn về cuộc sống, về con người có phần nhẹ nhàng
hơn, thanh
thản hơn. Trong Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, Nguyễn Tuân đã không ít lần chiêm nghiệm
về
cuộc sống và những chiêm nghiệm đó là những chiêm nghiệm rất thú vị, tích cực.
Qua những cảm xúc đó của các nhà văn, “chúng ta có thể thấy bóng dáng tinh thần
của
một thời kì lịch sử in đậm trong hệ thống những hình tượng nghệ thuật, đã từng
lay động, cổ
vũ hàng vạn thanh niên ra mặt trận. Đó chính là nét đặc trưng của sức truyền cảm
lớn, sức
lay động thẩm mỹ… của văn học viết về đề tài chiến tranh cách mạng suốt mấy chục
năm
qua.”[59].
*** Bức tranh hiện thực trong tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 rất phong
phú, sinh
động, được nhìn ở nhiều góc nhìn khác nhau. Ở góc nhìn nào, hiện thực cũng được
miêu tả
sâu sắc, cụ thể, toàn vẹn, điều đó cho thấy ý thức bám sát, phản ánh hiện thực
của các tác giả
rất đáng được ghi nhận. Để bức tranh hiện thực đó đến với người đọc một cách dễ
dàng, ấn
tượng, những nhà văn viết tùy bút, bút kí đã sử dụng rất nhiều những đặc sắc
nghệ thuật mà
Luận văn sẽ trình bày ở chương sau.
Chương 3
BÚT PHÁP ĐA DẠNG, LINH HOẠT
Văn học cách mạng Việt Nam nói chung, giai đoạn văn học 1954 – 1975 nói riêng,
“Xét trong tổng thể và qua các tác phẩm, tác giả ưu tú, là một hiện tượng nghệ
thuật độc đáo,
không lặp lại của văn học dân tộc, không chỉ có sức sống mãnh liệt trong những
năm tháng
đấu tranh gian khổ cho độc lập, tự do, thống nhất đất nước mà còn tạo thành một
giai đoạn
mới trong tiến trình văn học dân tộc của thế kỉ XX”[71/292], nhận xét đó không
chỉ đúng
cho văn học cách mạng nói chung mà còn đúng cho thể kí nói riêng, đặc biệt là
tùy bút, bút
kí 1954 – 1975 – một “hiện tượng nghệ thuật độc đáo”, thú vị.
Với nhiệm vụ phản ánh chân thực hiện thực đất nước, đội ngũ sáng tác – các tác
giả
vừa là nhà văn, vừa là nhà báo, vừa là nhà chính trị, vừa là chiến sĩ … họ bị
chi phối bởi
quan điểm chính trị viết cho chân thật, cho hùng hồn nên đặc điểm nghệ thuật
cũng mang
những nét đặc trưng riêng biệt. Qua nghiên cứu các tác phẩm tùy bút, bút kí giai
đoạn 1954 –
1975 chúng tôi nhận thấy có những đặc điểm nghệ thuật đặc sắc như: tư liệu phong
phú,
ngôn ngữ sống động, giọng điệu đa dạng, kết cấu linh hoạt.
3.1. Tư liệu phong phú
Hiện thực của đất nước giai đoạn 1954 – 1975 được các nhà viết tuỳ bút, bút kí
khai
thác một cách triệt để dưới nhiều góc cạnh khác nhau. Ngòi bút của các tác giả
hướng vào
đâu là ở đó hiện thực được rõ nét, giúp người đọc hình dung ra bức tranh xã hội
lúc bấy giờ.
Để làm được điều đó, các nhà văn đã dựa vào nguồn tư liệu cực kì phong phú, đa
dạng.
Có nhà văn khai thác hiện thực một cách trực tiếp bằng cách có mặt hay chứng
kiến sự
kiện xảy ra. Trường hợp này được xem như là cách khai thác chủ yếu của các tác
giả. Anh
Đức miêu tả các sự kiện đấu tranh với vị trí đứng là người trong cuộc – nguời
chiến sĩ.
Nguyễn Tuân có mặt tại đồn Tây Trang, có mặt ở Sơn La, Lào Cai,…cùng ăn, cùng ở
với
các chiến sĩ biên phòng nơi đây, cùng gặp những người làm đường, cùng tâm sự với
những
gia đình chuyển nhà lên Điện Biên và viết về họ, trực tiếp nghe họ nói về cuộc
sống hay bộc
lộ cảm xúc, cũng như Chế Lan Viên trực tiếp đến Trung Quốc, thăm quê huơng Mao
Trạch
Đông và viết về Người. Bùi Hiển trực tiếp ra khơi với đồng chí thuyền trưởng Lễ
để chứng
kiến toàn bộ cảnh lao động của con người ấy và những anh em khác. Chính vì thế
hiện thực
được miêu tả hết sức cặn kẽ, kĩ càng, được nhìn nhận ở mọi khía cạnh, mọi ngóc
ngách nhờ
vào nguồn tư liệu trực tiếp, dồi dào, sống động và cũng rất nóng hổi.
Đôi khi hiện thực cũng được khai thác một cách gián tiếp, tuy nhiên gián tiếp ở
đây
không phải là các nhà văn ở một nơi mà viết về một nơi khác, gián tiếp được hiểu
là nhà văn
không trực tiếp chứng kiến những sự kiện xảy ra nhưng trực tiếp nghe người trong
cuộc kể
lại sự kiện ấy. Trường hợp này có thể kể đến những bài bút kí của Nguyễn Trung
Thành viết
về Kơ Lơng, về chị Thuận hay về Lê Văn Nghiêu, Nguyễn Thi viết về chị Nguyễn Thị
Hạnh,
hay Nguyễn Tuân viết về Đèo Văn Long, hoặc như Bùi Hiển viết về những em bé bị
bom Mĩ
giết chết ở Hương Phúc – Hà Tĩnh…. Cách khai thác này không làm mất đi tính thời
sự nóng
hổi cũng như tính xác thực của sự kiện. Trái lại sẽ giúp cho nhà văn có thời
gian để sắp xếp
dữ liệu, sự kiện, và lựa chọn những chi tiết, tình tiết… phù hợp và sâu sắc để
thể hiện.
Xuất phát từ hai cách khai thác tiếp cận hiện thực trên, cho nên trong tuỳ bút,
bút kí
1954 – 1975 hiện thực hiện lên rất đa dạng, phong phú. Chúng ta gặp nhiều con
người ở
nhiều vùng đất khác nhau: có thể đó là em bé, là những người phụ nữ, cả những cụ
già cũng
biết đánh giặc ở Bến Tre. Có thể đó là một thanh niên ở núi rừng Tây Nguyên có
cách đánh
giặc đặc biệt hay một tên ác ôn xuất hiện từ thời chống Pháp như Đèo văn Long.
Xa hơn nữa
là vị lãnh tụ vĩ đại của người dân Cu-ba, hay Lưu Thiếu Kì của Trung Quốc… Các
sự kiện
được đề cập đến cũng vô vàn, với hai sự kiện chính của đất nước là chống Mĩ cứu
nước và
xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng trong đó có rất nhiều sự kiện nhỏ đuợc các nhà
văn khai
thác đến tận cùng, đó là tình yêu lứa đôi, là tình cảm vợ chồng, đó là tình cảm
với quê
hương, làng xóm thân thuộc, đó cũng có thể là chuyện nuôi vịt ở một nông trường
hay
chuyện đi làm đường, chuyện ở một mỏ than,… tất cả đó đều được lồng vào trong
một tình
cảm chung đó là tình cảm đất nước, vào hai chuyện chung, lớn nhất mà chúng ta đã
nói ở
trên. Bức tranh hiện thực càng phong phú bao nhiêu càng chứng tỏ nguồn tư liệu
mà các nhà
văn sử dụng cũng đa dạng bấy nhiêu.
Có trường hợp, tác giả khai thác tư liệu thông qua hệ thống số liệu. Một điều
đặc biệt
rất dễ nhận thấy trong tuỳ bút, bút kí giai đoạn này chính là các tác giả sử
dụng ngồn ngộn hệ
thống số liệu. Rõ thấy nhất là trong bút kí của Chế Lan Viên và Thép Mới, Nguyễn
Tuân,
Chế Lan Viên sử dụng số liệu một cách dày đặc đặc biệt nhất là trong tập Những
ngày nổi
giận. Có thể thấy cụ thể qua những ví dụ sau:
“Mĩ đã liên tiếp trong 12 ngày liền rải chất độc […]. 5000 nhân dân đã bị nhiễm
độc.
Riêng một xã […] đã có 1700 người”[92/6].
Hay
“Trong năm qua người ta đã đào được 230 cây số kênh ngòi. […] 50 vạn học sinh
tiểu
học đến các nhà trường cách mạng. […]. Mặt trận đã cấp 11000 mẫu đất cho nông
dân
nghèo. […] 23 đội ca vũ thiếu nhi, 6 đoàn văn nghệ nhân dân, 13 hội thể
thao.”[92/11].
Có được những số liệu đó, nhà văn có thể dựa vào nguồn tài liệu lịch sử hoặc
trực tiếp
khai thác. Tuy nhiên, dù bằng cách nào thì những số liệu đó cũng đã tạo được sự
chú ý và
thuyết minh cho những sự kiện được đề cập đến nhưng quan trọng hơn là tạo được
niềm tin
trong lòng bạn đọc.
Yếu tố thời gian cũng được sử dụng nhiều, các tác phẩm viết về sự kiện lịch sử
được
ghi chép ngày, tháng, năm rõ ràng và rất chính xác. Điều này cho thấy các nhà
văn đã thật sự
sống cùng sự kiện, hòa nhập với sự kiện, con người.
Sử dụng các tư liệu khác phục vụ cho tác phẩm mình được xem như một phương tiện,
một cách thức để các nhà văn khai thác hiện thực. Tư liệu được Nguyễn Tuân tận
dụng một
cách triệt để, với tính cách cẩn thận, tỉ mỉ, kĩ càng, những nguồn tư liệu ấy có
thể được nhà
văn lấy từ sách báo, từ đài, từ những người dân bản địa kể lại hay từ bất kì một
nguồn tư liệu
nào khác được tin cậy. Vì thế chúng ta nhận ra sự đa dạng, phong phú trong nguồn
tư liệu mà
Nguyễn Tuân đã sử dụng. Đó có thể là những thông tin lấy từ cuốn sách của nhà
báo Mĩ trứ
danh Gôn Rit với tựa đề “Mười ngày rung chuyển thế giới” [84/116] để nói về tình
hình
chính trị nước Mĩ, hoặc có khi ông trích dẫn lời của phóng viên nước ngoài khi
nói về tình
hình Việt Nam “Phóng viên báo Thế giới […] Jacques Ducorrnoy (trong số báo
18-10-1966)
có viết bài Trong vịnh Bắc Bộ”[84/62], có khi ông lấy nguồn tư liệu ở ngay chính
những
người dân bản địa cùng với những nghiên cứu tìm hiểu của mình để có được “một tí
về lịch
sử và một bản lí lịch” của tên Đèo Văn Long rất cụ thể, chi tiết và hấp dẫn.
Viết về đồn Tây
Trang, khi nhắc đến tình hữu nghị Việt – Lào, hai đất nước gần nhau chỉ với con
suối “gầy
nhom và nông choèn” ở đồn Tây Trang làm ranh giới, tác giả nghĩ về đất nước anh
em ấy và
“thoáng hiện về trong trí nhớ một số tài liệu gần đây về tình hình Lào”: “Mỹ
trong ba năm
gần đây đã viện trợ cho Lào 133 triệu đô la, thì dùng 100 triệu vào quân sự. Đối
với một
nước Lào dân số chỉ hai triệu thì con số viện trợ một năm gần 45 triệu như vậy
là một con số
lớn nhất so với tất cả những nước Âu lẫn Á nhận làm con nợ của chủ thầu
Mĩ…”[86/104].
Với việc sử dụng nguồn tư liệu đó trong các tuỳ bút của mình, người đọc nhận ra
sự
uyên bác, tinh thông của nhà văn họ Nguyễn và cũng chính từ đó tạo nên chất trí
tuệ cho tác
phẩm, làm cho tác phẩm không chỉ hấp dẫn, sinh động mà đặc biệt hơn còn khơi gợi
niềm tin
và sự kính phục đối với tác giả.
Thép Mới khi viết Điện Biên Phủ, một danh từ Việt Nam cũng sử dụng rất nhiều
nguồn tư liệu khác nhau. Chẳng hạn việc ông sử dụng từ điển Laruxơ – 1963 của
người
Pháp, tạp chí Mũ bêrê đỏ (Pháp) số tháng 5 – 1962 hay tạp chí Học viện chiến
thuật của hải
quân Mĩ,… tất cả chỉ để giải thích “Điện Biên Phủ là gì?”[52/43] đã cho thấy sự
tìm tòi kĩ
lưỡng, sự hiểu biết rộng rãi của tác giả trong sáng tạo nghệ thuật.
Như vậy chúng ta có thể thấy, để phản ánh hiện thực, các tác giả đã sử dụng một
số
lượng lớn tư liệu trong các tác phẩm của mình. Số lượng tư liệu ấy được các tác
giả khai thác
bằng nhiều cách khác nhau, nhiều nguồn khác nhau, ở nhiều thời điểm và phạm vi
rộng….
Nhưng dù khai thác ở góc cạnh nào thì đó vẫn là nguồn tư liệu đáng tin cậy và
rất phù hợp
với nội dung phản ánh tác phẩm, làm cho các tùy bút, bút kí không trở nên tản
mạn mà đi
vào vấn đề trọng tâm sâu sắc và chính xác.
3.2. Ngôn ngữ sống động
Bước vào tác phẩm văn học nói chung và tùy bút, bút kí nói riêng là bước vào thế
giới
của ngôn ngữ. “Mọi ấn tượng thẩm mĩ mà người đọc có được về tác phẩm đều do ngôn
từ
gợi nên. Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học mọc lên từ ngôn từ. Do đó
lấy văn bản
ngôn từ làm cơ sở, làm điểm xuất phát chính là con đường mà tác giả văn học đã
lát sẵn cho
người đọc. Bỏ qua, coi nhẹ ngôn từ thì chẳng có gì mà nói về tác phẩm văn học
nữa.”[71/113], vì thế vai trò ý nghĩa của ngôn từ đối với văn học là một vấn đề
lí luận lớn.
Đối với tùy bút, bút kí 1954 – 1975 chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ có một nét rất
riêng, trở
thành một nét đặc trưng so với tùy bút giai đoạn trước cách mạng và tùy bút giai
đoạn sau
1975. Nét riêng đó được biểu hiện ở những khía cạnh như:
3.2.1. Sự phong phú của lớp từ ngữ chính trị - xã hội
Với nhiệm vụ đi sâu và phản ánh những vấn đề chính trị - xã hội lớn lao của đất
nước
nên trong các tùy bút, bút kí xuất hiện lớp từ ngữ chính trị - xã hội với tần số
cao, đặc biệt là
trong các tùy bút, bút kí chính luận của những tác giả như Thép Mới, Chế Lan
Viên và bút kí
Bùi Hiển... Sắc thái, ý nghĩa chung của lớp từ ngữ này là trang trọng, phù hợp
với việc thể
hiện các vấn đề xã hội ở cấp độ rộng lớn nên các nhà văn trình bày được các sự
kiện lớn của
đất nước một cách dễ dàng, rõ ràng. Bút kí của Thép Mới có thể nói là sử dụng
nhiều nhất,
với mật độ dày đặc. Theo dõi một đoạn văn chúng ta thấy rõ được điều đó.
“Hội nghị lần thứ 4 của Trung ương Đảng họp đầu năm 1953 đã đề ra phương hướng
chiến lược tìm chỗ yếu của địch mà đánh, bắt địch phải phân tán lực lượng mà đối
phó với
ta. Hội nghị Bộ chính trị tháng 8 năm 1953 đã phân tích sâu sắc mâu thuẫn cơ bản
của địch
giữa tập trung lực lượng và chiếm đóng đất đai, nhấn mạnh phải khoét sâu mâu
thuẫn đó, tìm
hướng chiến lược đánh vào chỗ sơ hở của địch. Lòng tin của chúng ta – tin ở Đảng
là tin ở
mình và tin ở thắng lợi – qua bảy, tám thu đông, mạnh hơn bao giờ hết.”[52/6].
Khảo sát một đoạn văn trong rất nhiều những đoạn văn của bút kí Thép Mới, hầu
hết
ông sử dụng lớp từ ngữ chính trị - xã hội là chủ yếu (không kể những từ mang
tính chất
lưỡng tính). Với số lượng, cách dùng những từ ngữ đó, người đọc dễ hình dung ra
vấn đề
thời sự nóng hổi đang được nói đến với lượng thông tin chính xác và sắc thái, ý
nghĩa trang
trọng.
Chế Lan Viên cũng có những bài bút kí chính luận rất nổi bật đề cập đến những sự
kiện tiêu biểu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước cũng như sự kiện trong
công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong tập bút kí Những ngày nổi giận và Thăm Trung
Quốc, là
những tập bút kí chính luận được đánh giá cao. Ông sử dụng nhiều những từ, cụm
từ như:
chế độ, xã hội chủ nghĩa, đơn vị, cơ quan làng mạc, khu phố, Tổ quốc, phong
trào, cách
mạng thế giới, tinh thần, quốc tế vô sản, ý thức, đồng chí… [92/48]. Những từ
ngữ đó dùng
với tần số cao cho thấy tác giả đã ghi lại được những sự kiện quan trọng trong
cuộc chống
Mĩ cứu nước của dân tộc, gợi cho người đọc cảm giác rằng tác giả có cảm quan
chính trị
nhạy bén và luôn trực diện đối với các vấn đề chính trị đang diễn ra.
Trong bút kí của Bùi Hiển, khi viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, ông
hay
dùng đến các từ ngữ mà một thời trở thành từ cửa miệng của nhân dân ta như: ban
quản trị,
hợp tác xã, vụ lúa thu, năng suất, bình quân…
Xuất hiện không chỉ ở các tùy bút, bút kí chính luận, ngay cả ở những tác phẩm
trữ
tình nhất như Đường chúng ta đi (Nguyễn Trung Thành) hay Dòng kinh quê hương
(Nguyễn
Thi), lớp từ ngữ này cũng đã chiếm một số lượng đáng kể với vị trí phù hợp đã
góp phần thể
hiện được ý nghĩa, chủ đề của tác phẩm.
Rõ ràng để phản ánh những sự kiện trọng đại của đất nước, việc lựa chọn những từ
ngữ chính trị - xã hội trong tác phẩm là một lựa chọn đầu tiên và rất phù hợp.
Lớp từ ngữ này
đặc trưng cho tùy bút, bút kí giai đoạn 1954 – 1975 vì những tác phẩm cùng thể
loại ở giai
đoạn trước cách mạng và sau 1975 đều ít sử dụng hơn. Chính vì sự lựa chọn phù
hợp đó nên
đã giúp lớp từ ấy đã phát huy hết hiệu quả của mình. Tính thông tin, thời sự
được đảm bảo,
nhà văn đi đúng quan điểm, đường lối của Đảng về văn nghệ cũng như thành công
trong việc
thể hiện thái độ, tư tưởng, cảm xúc của bản thân.
3.2.2. Lớp từ ngữ xưng hô đậm tính biểu cảm
Lớp từ này được dùng chủ yếu trong những tùy bút, bút kí viết về chiến tranh,
đặc biệt
là để gọi tên giặc Mĩ. Với thao tác khảo sát đơn giản, chúng ta có thể có được
một số lượng
đáng kể mà các nhà văn dùng để gọi tên giặc Mĩ khi chúng đặt chân lên đất nước
Việt Nam
cũng như xâm lược ở bất kì một nước nào khác. Đó là những từ, cụm từ rất giàu ý
nghĩa,
giàu giá trị biểu hiện và đặc biệt nó thể hiện được thái độ của nhà văn đối với
kẻ thù.
Chế Lan Viên thường gọi tên kẻ thù bằng những đại từ nhân xưng và các đại từ
nhân
xưng kết hợp với các tính từ bổ nghĩa, làm rõ cho đại từ ấy
Khảo sát trong bút kí 1965, mở đầu một năm vĩ đại, chúng ta thấy ông dùng các
từ,
cụm từ gọi tên rất đa dạng như: sử dụng các các đại từ nhân xưng:
- Chúng, chúng mày
- Hắn
- Bọn: Dùng riêng và dùng kết hợp – bọn đế quốc, bọn tay sai, bọn Việt gian, bọn
ngụy quân, bọn xâm lược Mĩ, bọn Mĩ, bọn quan thầy, bọn chúng, bọn giết người,
bọn ngu
ngốc, bọn ấy, …
- Thằng: thằng sĩ quan, thằng đại úy, thằng Mĩ…
- Nó
Có khi ông gọi tên bằng những cụm từ thay thế, chủ yếu sử dụng công thức: đại từ
cộng với
phần phụ chú – có chức năng giải thích, thuyết minh thêm cho đại từ đưa ra, có ý
nghĩa nghệ
thuật và giá trị biểu hiện cao:
- Bè lũ
- Những cái cặn bã thối tha nhất (Những cái cặn bã thối tha nhất mà nhân loại
cần
phải tống khứ ra khỏi cơ thể mình càng sớm càng hay.)
- Những tên tướng tá Mĩ (những tên tướng tá Mĩ cũng chết ở đây như bất cứ bọn
giết
người chó chết nào)
- Cái bọn đi đến đâu thì thở ra bom nguyên tử
- Cái bọn từng quất roi lên lưng người…
- Tên thực dân mới.
- Con ác thú Mĩ
- Con thú mới…
Khảo sát bút kí của Anh Đức, chúng tôi nhận thấy tác giả cũng sử dụng dày đặc
những
đại từ nhân xưng như Thằng, chúng, tên, bọn chúng, bọn hắn, bè lũ…để gọi tên
giặc Mĩ như