Luận văn Thạc sĩ Văn học: Đặc điểm của tùy bút trong Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975
132
942
102
hiện và chọn lọc những nét điển hình, những khâu chủ yếu, đó chính là bí quyết
của sự miêu
tả mà Anh Đức đã sử dụng và thành công.
Theo quan niệm của các nhà văn viết tùy bút, bút kí thời kì này, anh hùng không
hẳn
là người làm những việc trọng đại, anh hùng có khi là những con người với những
việc làm
rất nhỏ nhặt nhưng đầy ý nghĩa, những em bé với hành động, suy nghĩ rất trẻ con,
những bà
già, thậm chí cả bà già điên với những lời nói tưởng chừng như mơ hồ nhưng là
một sự phản
ứng mạnh mẽ với giặc, một lòng yêu nước thiết tha và sự ngưỡng mộ, kính phục
lãnh tụ vô
bờ bến…
Tập bút kí Cửu Long cuộn sóng của Trần Hiếu Minh phản ánh những nét điển hình
của phong trào đồng khởi Bến Tre vào lúc phong trào cách mạng đang cuồn cuộn
dâng cao
theo làn sóng căm thù và tinh thần yêu nước. Tác giả biểu dương nhiều nhân vật
anh hùng từ
chị Mười Lí, cô Thanh Hồng cho đến ông Mai, ông già ấp Bắc, dù hình bóng nhân
vật anh
hùng của ông chưa gây được sức hấp dẫn nhiều nhưng người đọc hẳn sẽ không bao
giờ
quyên được ý chí, khí phách của họ. Như hình ảnh của bà Năm Điên trong Ngọn lửa
Mỏ
Cày, một con người vì căm thù giặc mà điên, điên từ thời kháng chiến chống Pháp,
và cũng
dựa vào bệnh điên của mình để chửi thẳng vào mặt giặc và tìm cách tuyên truyền
để giác ngộ
bà con. Đó là cách yêu nước của người điên và lời phát biểu của bà thì khiến cho
bao người
tỉnh phải nghĩ suy “uống thuốc của tôi phải tưởng nhớ lá quốc kì, không được làm
xấu quốc
kì. Ốm đau mà tư tưởng “cờ sọc dưa” thì bịnh không lành, chỉ có nước
chết”[46/23], và sự
khảng khái của bà khi đáp lại sự chọc ghẹo của bọn lính “Tụi bây sống nhăn đó
nhưng đã
chết rồi. Còn Cụ Hồ thì không bao giờ! Đồng bào còn đánh tây, đánh Mĩ thì Cụ
còn! Người
như Cụ thì lúc nào cũng còn!…”[46/21]. Trần Hiếu Minh đã cho thấy mảnh đất miền
Nam
ấy “ra ngõ gặp anh hùng”, từ cụ già cho tới em bé đều nồng nàn một tình yêu đất
nước, yêu
quê hương và một lòng căm thù giặc sâu sắc.
Ghi lại trung thành một số hình ảnh của Bến Tre đồng khởi, Trần Hiếu Minh đã có
nhiều nhận xét có tính khái quát về tính cách, tinh thần của con người Nam Bộ
“Đấu tranh đã
thành nếp sống hàng ngày và lẽ sống hứng thú nhất của đồng bào ta hiện nay”
[46/268].
Những con người ấy yêu nước một cách hồn nhiên, anh hùng mà không ai ngờ tới.
Tinh thần
lạc quan anh hùng đó như đã sẵn có trong máu trong thịt, trong ánh mắt, hơi thở,
bước đi của
họ. Họ không đắn đo suy nghĩ, cứ vậy mà lao vào công tác, vào chiến đấu, nhẹ
nhõm, tưng
bừng. “Những nét tính cách ấy gắn liền với nội dung của cuộc kháng chiến chống
Mĩ hiện
nay và gắn liền với truyền thống đạo đức của người Nam Bộ, những con người trọng
nhân
nghĩa, ghét áp bức”[68/289].
Nhưng trên tất cả, trong tùy bút và bút kí chống Mĩ, đẹp nhất và nổi bật nhất
vẫn là
hình ảnh những người phụ nữ kiên trung, chung thủy và người anh hùng giải phóng
quân….
Những hình tượng đó đều được khai thác từ những điển hình xã hội tiêu biểu. Đó
là những
nguyên mẫu rất đẹp, giàu tính thẩm mĩ. Mỗi nhân vật, ngoài thành tích và những
đóng góp
lớn cho phong trào cách mạng còn bộc lộ những vẻ đẹp rất đa dạng trong nhiều mối
quan hệ
xã hội.
Hạnh trong bút kí Ước mơ của đất của Nguyễn Thi – một hình tượng phụ nữ rất đẹp
mà Nguyễn Thi xây dựng khá công phu, cụ thể. Cuộc đời con người và cuộc đời cách
mạng
của cô được đặt trong lòng quần chúng, lớn lên từ lòng quần chúng. Đó là một
người cán bộ
quần chúng, bám dân đánh giặc trong phong trào chống âm mưu địch lập ấp chiến
lược ở
một xã trọng điểm của tỉnh Long An. Nguyễn Thi đã xây dựng hình ảnh người cán bộ
quần
chúng từ ngày chị đi tìm cách mạng cho đến ngày chị được biểu dương. “Hạnh gắn
liền với
quần chúng trong đời sống hàng ngày, trong nguyện vọng, ước mơ cũng như trong
từng nhịp
thở”[68/228] nhưng không vì thế mà Hạnh hòa lẫn với mọi người, Hạnh hiện lên
chói sáng
như ngọn đuốc trong đêm đen dẫn mọi người đi tìm ánh bình minh cho cuộc sống. Đó
là một
người phụ nữ thâm trầm nhưng rất dũng cảm. Tác giả rất thành công khi xây dựng
hình
tượng người phụ nữ này dưới nhiều nét khác nhau, mà ở góc độ nào Hạnh cũng rất
đẹp, rất
đáng trân trọng. Từ việc gài mìn, cắt kẽm, bắn súng cho đến việc các em du kích
Mẫn, Khỏe,
Ngọt…, đến cả việc thuyết phục, lấy lòng các ông cụ, bà cụ, đến cả việc chỉ huy
bộ đội.
Không những thế Hạnh còn là người giải quyết cả những rắc rối của mọi người
trong đời
sống thường nhật, như ghen tuông, như trâu lạc đàn…. Hạnh làm được việc đến nỗi
cô cũng
phải ngạc nhiên về chính mình. Đặc biệt Nguyễn Thi đã để cho nhân vật có những
phút giây
suy nghĩ rất đời thường mà ông gọi đó là “duyên thầm”. Như cái giây phút Hạnh
suy nghĩ về
anh Chẩn – chồng chị và chị Tư – người đồng chí, người chị của chị trong phút
giây chờ giặc
đến.
“Cả hai người đều đã để lại trong lòng Hạnh những tình cảm yêu thương kính
trọng,
một người hiền hậu thủy chung, ôm con trong bụng tất tưởi đi diệt bót, giải
phóng xã nhà,
một người là chồng có những kỉ niệm của tinh yêu và những câu chuyện từng trải
lạ lùng về
mặt biển. Nhưng cả hai người đều như còn xa, Hạnh chưa với tới được. Lời thề của
họ để lại
cho chị chính là việc sống chết cũng phải bám lấy bà con, đánh giặc ở nơi đây.
Không bao
giờ Hạnh sai lời thề đó. Nhưng muốn được vậy thì làm sao diệt cho được cái đồn
này, làm
sao cho bộ đội giấu quân đừng lộ, làm sao cho cô bác bớt đi lại, làm sao dời
đống đá và đuổi
con bò kia đi và làm sao cho bọn giặc ngoài thị trấn đừng thình lình vào bắt
mình…một trăm
cái làm sao không tên không tuổi khi bước vào giây phút đợi chờ nổ súng bỗng
hiện ra bề
bộn, sắc sảo canh cánh trong kẽ mắt.”[79/121].
Dù không phải là những trang miêu tả nội tâm sâu sắc vì đặc trưng của bút kí là
ghi
chép nhanh, nhân vật anh hùng, chủ yếu được khai thác ở hành động, ngôn ngữ,
phần nội
tâm nhân vật ít được nói đến, mặt khác, do phẩm chất khiêm tốn và tinh thần tôn
trọng người
khác nên những con người này rất ít muốn phô bày nội tâm. Việc miêu tả nội tâm
nhân vật
anh hùng thường được thực hiện chủ yếu qua phần cảm nghĩ và ngôn luận trực tiếp
của nhân
vật. Tuy nhiên không vì thế mà trong tùy bút, bút kí thiếu đi những dòng cảm
nghĩ ấy. Đó là
những trang văn đẹp đầy cảm xúc. Cũng chính những trang văn này mà nhân vật anh
hùng
hiện lên không khô khan, sống sượng trái lại rất sinh động, chân thật và hấp
dẫn, gần gũi.
Trong bút kí của Bùi Hiển, hình ảnh người phụ nữ đẹp ở tinh thần trách nhiệm,
luôn
lạc quan và tin tưởng, dám vượt lên khó khăn để giữ lấy quyền sống không phải
cho mình
mà cho dân tộc. Bùi Hiển kể về cô gái Nguyễn Thị Minh Sinh – nữ nhân viên bưu
điện hai
mươi tuổi nhỏ nhắn, e thẹn trước khách lạ nhưng những gì cô làm thì không hề nhỏ
một chút
nào “chung quanh bom đạn nổ rền, nền nhà và tổng đài rung chuyển, bụi rơi lả tả
từ trên trần.
Cô nhân viên điện thoại chỉ có một suy nghĩ: nghe, cố nghe cho rõ để cắm số thật
nhanh và
không bị nhầm lẫn. Ngay bên dưới chân ghế có sẵn một cái hầm xây lúc cần chỉ
việc mở cái
nắp gỗ tụt xuống. Nhưng cô đã quên cả nghĩ tới hầm.”[28/158]. Để rồi sau đó mọi
liên lạc đã
được thông suốt, việc làm to lớn là vậy nhưng cô lại nghĩ đó là việc rất bình
thường. Rõ ràng
“Tinh thần trách nhiệm đã khiến cho cô gái điện thoại viên trở nên gan dạ lạ
lùng. Một cái
gan dạ rất có ý nghĩa mà cũng rất tự nhiên, gần như đã thấm sâu vào máu
thịt.”[28/158]. Đó
là một trong những gương mặt điển hình trong số rất nhiều, rất nhiều gương mặt
mà tác giả
đã gặp, đã trân trọng, kính phục. “Quả thật, tinh thần trách nhiệm, chủ nghĩa
anh hùng cách
mạng đã thấm vào máu thịt của người dân Việt Nam. Đế quốc Mĩ tưởng những trận
mưa
bom mưa đạn của chúng có thể phá hoại cuộc sống bình thường của nhân dân ta
nhưng
chúng lầm to. Với những con người anh hùng của dân tộc anh hùng, cuộc sống của
chúng ta
vẫn tiến tới.”[60].
Đó còn là những chị Thuận – “người con gái ấy, cũng chính là chân lí của chúng
ta”[73/79]; là chị Hai, chị Ba chị Bảy trong Sóng Cửu Long của Trần Hiếu Minh,
bị bắt giam
hết nhà lao này đến nhà lao khác nhưng vẫn một lòng kiên trung với Đảng, là Nghị
- cô gái
mà trong ngày cưới không có mặt chú rể và khi mang thai mới được một tháng lại
nghe tin
chồng hy sinh nhưng vẫn vẹn toàn bổn phận làm dâu và việc nước…. “Họ nhẹ nhàng
lướt
trên tất cả như những cánh chim kia bay bổng lên trên những tầng mây khói lâng
lâng giữa
trời xanh. Họ cứ vậy mà chiến đấu để giải phóng quê hương, thống nhất đất nước,
bảo vệ
tuổi trẻ và hạnh phúc của họ đang bị đe dọa từng giờ từng phút.
Họ là những lớp sóng mới dấy lên từ chủ nghĩa anh hùng mới, quốc phong mới, thời
đại mới của dân tộc và đang cuồn cuộn kéo theo muôn ngàn lớp khác nối tiếp nhau
qua bao
thế hệ như nước kia, sóng kia không ngừng cuồn cuộn trên dòng Cửu Long”[46/282].
Hình tượng người anh hùng giải phóng quân cũng là hình tượng rất đẹp được các
nhà
văn quan tâm. Trong tùy bút, bút kí chống Mĩ, hình tượng ấy trở nên sinh động và
chân thật
hơn bao giờ hết. Đó là những con người này rất đa dạng, tuổi đời, tuổi quân
không giống
nhau, sinh trưởng trên nhiều vùng đất khác nhau của đất nước, hoàn cảnh sinh
sống cũng như
điều kiện chiến đấu không giống nhau, hình dáng và tính cách mỗi người một vẻ.
“Nhưng họ
đều có một nét nổi bật giống nhau và cũng là nét đẹp tập trung nhất: đó là ý chí
tiêu diệt
địch, lòng tin tuyệt đối vào thắng lợi và quyết tâm sắt đá chiến thắng quân thù.
Ý chí đó,
lòng tin đó, và quyết tâm đó được biểu hiện bằng muôn vàn hành động dũng cảm,
mưu trí,
sáng tạo.”[63]. Nguyễn Thi, Nguyễn Trung Thành, Anh Đức, Khánh Vân … đều dành
những
trang văn đẹp nhất cho hình tượng nhân vật này. Trong đó rất nhiều anh hùng được
nêu tên
như Lê Văn Nghiêu, như Kơ Lơng… trong các tác phẩm như Người dũng sĩ dưới chân
núi
Chư Pông, Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc, Đại hội anh hùng, Những câu
nói
ghi trong đại hội…. Đọc Người dũng sĩ dưới chân núi Chư pông, ta thấy hiện lên
hình ảnh
tuyệt đẹp của Kpa Kơ Lơng – người con của rừng núi Tây Nguyên bạt ngàn, hùng vĩ.
“Mới
mười tám tuổi Kơ Lơng đã đi gần suốt đời của dân tộc mình, của các dân tộc Tây
Nguyên, từ
những ngày tăm tối cho đến những ngày bừng sáng, từ căm uất nghẹn đầy cho đến
rung rung
đứng dậy, từ những ngày tay trắng cho đến những ngày cầm súng và cái cách cầm
súng của
anh cũng rất Tây Nguyên, rất Việt Nam”[73/62]. Con người ấy mang trong mình tất
cả mối
hận thù của cha anh, của cả dân tộc Gia-rai với một trái tim “bằng thép”. Anh
biết đánh giặc
từ năm mười ba tuổi và vào du kích năm mười bốn tuổi, dù nhỏ tuổi nhưng lại luôn
không
bằng lòng với cách đánh mỗi viên đạn, một quân thù, để rồi sau đó anh đã tìm ra
cách đánh
mới, rất Kơ Lơng – bắn xâu táo – mỗi viên đạn bắn được rất nhiều tên giặc. Trong
cuộc đời
ấy cho đến lúc đứng trên bục danh dự anh đã “giết được một trăm hai mươi bốn tên
Mĩ –
Ngụy, phá tan được tám xe cơ giới.”[73/72]. Sức mạnh của con người đó không phải
ngẫu
nhiên mà có, đó là sức mạnh “dồn lại trong những ngày nghiền ngẫm về mối thù của
cha,
mối thù Pắc-dố, về nỗi đau lâu dài ghê gớm của dân tộc.”[73/70]. Vẻ đẹp của anh
còn được
thấy ở sự coi thường cái chết, coi cái chết thật giản đơn, thật nhẹ nhàng “em
rút rồi ai chặn
giặc cho các anh lui. Lúc đó em bị thương rồi, em ở lại em chết cũng được, em
còn nhỏ, làm
được ít việc. Các anh phải sống, các anh là cán bộ, làm được nhiều việc cho dân
tộc
mình.”[73/71].
Với giọng điệu tôn sùng, ngợi ca, các nhà văn đã tạc những bức tượng đẹp về
người
chiến sĩ giải phóng quân. “Nó không chỉ là nguồn cổ vũ của quân và dân miền Nam
mà còn
là những hình tượng cụ thể và sinh động, những tấm gương sáng ngời của chủ nghĩa
anh
hùng cách mạng, có sức rung cảm mãnh liệt và tác dụng giáo dục to lớn đối với
quân và dân
miền Bắc.”[63].
Trong các tác phẩm viết về anh hùng, chiến sĩ trong kháng chiến chống Mĩ, những
tác
phẩm có giá trị văn học thực sự chưa nhiều, tuy nhiên những tùy bút, bút kí của
Anh Đức,
Nguyễn Trung Thành, Nguyễn Thi, Chế Lan Viên, Bùi Hiển chính là những tác phẩm
vừa có
giá trị lịch sử vừa có giá trị văn học và gây nhiều ấn tượng với bạn đọc vì
những ưu điểm khá
cơ bản, vì không chỉ các tác giả đã “chọn lọc được những điển hình xã hội tiêu
biểu, người
viết không rơi vào lối kể thụ động hoặc tình trạng ghi chép tự nhiên chủ nghĩa.
Các tác giả
chủ động trên sườn của sự kiện và cốt truyện đã tái hiện những bức tranh cụ thể
và sinh
động.”[16/217] mà trong đó tác giả còn bộc lộ rất nhiều những cảm xúc chủ quan
của mình,
của nội tâm nhân vật. Họ - những người anh hùng trong chống Mĩ cứu nước có điểm
xuất
phát khác nhau, những biểu hiện tư chất anh hùng cũng khác nhau nhưng đó những
con
người anh dũng, bất khuất, quật cường trong chiến đấu, đều là những tính cách
sinh động và
vẹn toàn về phẩm chất, góp phần cùng cả dân tộc đánh thắng giặc Mĩ xâm lược đem
lại tự do
cho dân tộc, họ rất đáng được ca ngợi, kính phục.
2.2.3. Hình ảnh “chúng nó” trong tùy bút, bút kí viết về chiến tranh
Nếu như viết về con người đặc biệt là người chiến sĩ cách mạng các nhà viết kí
đã viết
bằng tất cả sự yêu thương, kính trọng, khâm phục thì viết về hình ảnh “chúng nó”
là sự hội tụ
biết bao nhiêu sự căm thù, sự khinh bỉ đang cháy lên ngùn ngụt trong lòng những
nhà văn
của chúng ta. Hình ảnh “chúng nó” là hình ảnh đặc biệt trong bức tranh hiện thực
con người
trong tùy bút, bút kí văn học giai đoạn này. Có thể nói các nhà viết kí đã “vẽ”
ra đầy đủ bộ
mặt của những kẻ cướp nước một cách chân thực, sinh động hơn bao giờ hết. Về
điều này
trước hết phải kể đến nhà văn Nguyễn Tuân với tập tùy bút Hà Nội ta đánh Mĩ
giỏi, ông đã
giúp người đọc hình dung ra được chân dung của những tên giặc lái Hoa Kì mà
Nguyễn
Tuân đã trực tiếp tiếp xúc. Dù mỗi “thằng” mỗi vẻ nhưng tựu trung lại điểm chung
nhất của
chúng vẫn là những thằng tai to mặt lớn, lông lá đầy mặt, đầy mình và là những
thằng ngông
nghênh, ngạo mạn và cực kì hèn nhát. “Ông dành tất cả sự khinh bỉ, căm ghét của
mình vào
việc miêu tả kẻ thù.”[1].
Đó là thằng Nin Giôn dù “Nó đã cúi gục xuống, nhưng người nó vẫn còn cao lêu
nghêu với một cái đầu húi cua lối bàn chải. Môi nó rề hẳn ra không phải vì dè
bỉu ai đây[…]
nhưng vì là cái mặt nó sinh ra với cái tật môi như thế” và “cả người thằng cướp,
còn nồng
khét mùi cháy nhà và nóng hổi cái mùi thời sự trong ngày”[84/11]. Cả cái dáng
đứng của nó
“nó đứng thộn ra ở một góc phòng họp” cũng đã khác người. Con người đó toát lên
cái
“mùi” của một tên tướng cướp, của một con thú dữ. Một kẻ chuyên đi ăn cướp, một
kẻ đã
gieo rắc bao nhiêu cái chết lên mảnh đất nhỏ bé Việt nam, thế nhưng vẫn đang mơ
mộng cái
gọi là “hòa bình”: “Noen cuối năm nay tất cả chúng tôi trong các trại giam Bắc
Việt Nam
đều mong chịu lễ của mục sư Hà Nội, và xin cầu nguyện để chấm dứt chiến tranh,
xin cầu
nguyện để cho hòa bình được trở lại.”[84/25]. Có khi những tên giặc Mĩ lại được
nhà văn
“soi kĩ” trong “bầy đàn” của chúng và dù ở đâu – một mình hay giữa bầy đàn,
chúng cũng
hiện rõ bộ mặt thật của mình, cao ngạo đấy mà trống rỗng thế giới tinh thần.
“Đoàn sĩ quan
phi công Mĩ kia ập đến quê hương ta bằng con đường trời mây thì chiều nay cả bọn
giặc trời
của không lực Hoa Kì ấy hiện nguyên hình là một đám bộ binh đang bước những cái
bước
của kẻ bại binh.”[84/38]. Sự thất bại thảm hại đó được Nguyễn Tuân miêu tả một
cách kĩ
lưỡng, từ những hành động cho đến những cử chỉ nhỏ nhặt nhất với những lời lẽ
chua cay
mà nếu bất kì một thằng Mĩ nào đọc được, hiểu được đều phải cúi mặt ,“Có thằng
thấy đèn
pha điện ảnh hắt vào vụt nhớ đến một thứ thể diện gì đấy của Mĩ, vội ngẩng cao
đầu lên, ưỡn
ngực, thẳng lưng, thẳng cẳng. Nó điệu, nó định làm hiên ngang chưa mất tự tin
nhưng qua
khỏi quầng sáng đèn đường, cả người nó lại thỉu xuống.”[84/39]. Và cả những cử
chỉ biểu
hiện cho sự thất bại hèn hạ “nhiều thằng đã tụt dép ra cầm tay lại lồng dép vào
chân mà lệt
xệt bước tiếp”[84/42] và mặt chúng “dại điếc hẳn đi”[84/42].
Đó còn là “Ba phi công Mĩ đi bộ trong chợ hoa sơ tán”, thật bi hài cho những kẻ
“đã
không nhiều thì ít, đã ném bom xuống phố xá làng mạc, cầu đường, các bến và các
chợ miền
Bắc mình. Cũng có thể có người trong bọn họ đã từng ném thuốc độc xuống rừng
miền Nam
để làm một cái việc mà chỉ có sự táo bạo ngu xuẩn Hoa Kì mới dám thực hiện một
cách vô
vọng và điên cuồng: diệt hủy chất diệp lục của rừng núi, làm cho rừng núi miền
Nam, hết
hẳn cây tươi và lá xanh”[84/113], thì bây giờ đây giữa lòng chợ hoa Hà Nội chúng
đang cuốc
bộ như những “sinh vật lạ” để cho những người dân đất Việt ngày hôm ấy “chiêm
ngưỡng”
và không ít một số người đã muốn “tống cổ mẹ nó ra khỏi chợ hoa đi”[84/131].
Chúng trở
nên lạc lõng và dù bi hài, lố bịch nhưng chúng vẫn không tỏ ra ngạo mạn như
thằng Nin
Giôn mà “vẫn lặng lẽ đi giữa cái tấp nập của hoa chiều” và “thằng quan tư, thằng
quan hai,
thằng quan ba cả ba đều buồn buồn. Hình như cả thủ đô có mặt tại chợ hoa, chỉ
riêng ba
người Hoa Kì lạc lõng đó là buồn thôi”[84/130]. Nhưng càng lặng lẽ, càng thể
hiện nét buồn
lại càng thấy chúng lố bịch đến thảm hại khi đặt trong sự tương phản đến tuyệt
đối nơi không
gian chợ hoa ấy.
Với sự tiếp xúc trực tiếp với những tên giặc lái Mĩ, chúng ta thấy Nguyễn Tuân
đã
“phanh phui mọi ngóc ngách của tâm hồn chúng để ta thấy chúng không những tàn ác
tham
lam mà còn ngu xuẩn […], không những hèn hạ sợ chết mà còn ngây thơ tự huyễn
hoặc
mình.”[45/308]. Đọc những trang văn trong Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi, người đọc có
cảm giác
hả hê khi những tên giặc lái vừa mới đây thôi còn ngông cuồng gây tội ác, nhưng
bây giờ
đang có một người đứng cao hơn để bóc trần một cách không thương tiếc cái thú
tính đó của
chúng, cái tầm thường, cái giả nhân giả nghĩa của Hoa Kì. Cũng từ đó cũng làm
dấy lên
trong lòng người đọc “một sự khinh bỉ, ghê tởm, sau khi nhếch một nụ cười chua
chát, mỉa
mai” và chúng ta biết “đó là phần thành công của ông, là đóng góp xứng đáng của
ông vào
việc đánh giặc bằng tiếng nói nghệ thuật.”[45/309].
Hình ảnh những tên giặc khốn nạn ấy cũng hiện lên rõ mồn một trong bút kí của
Anh
Đức, có thể nói Anh Đức đã dựng lên hình ảnh những tên giặc Mĩ chân thật hơn bất
kì một
cuốn sách ghi chép lịch sử nào. Đó là một thái độ huyênh hoang khi bước “Vào mùa
nắng”
bởi vì chúng tin rằng “mùa thuận lợi của chúng đã đến.”[12/52], và cái “thở dài
nhẹ nhõm”
của chúng giúp chúng càng tin tưởng rằng chúng sẽ thắng. Nhưng rồi mùa nắng
không phải
là mùa mong đợi của chúng bởi vì kết thúc mùa nắng ấy chúng đã “bị thiêu đốt tới
mấy chục
vạn tên” và “mùi xú uế của tử thi Mĩ hãy còn xông lên nồng nặc khắp miền
Nam.”[12/56].
Huyênh hoang là thế, tự tin là thế nhưng hễ gặp du kích của chúng ta thì con đỉa
hút máu ấy
lại vội co vòi mình lại, đó là biểu hiện cho sự hèn nhát, lo sợ và dường như đó
là nét tính
cách chung cho bất kì một tên lính Mĩ nào. Anh Đức không ngần ngại phơi bày cho
bạn đọc
thấy rõ cái hèn hạ đó trong hầu hết các bài bút kí. Chúng “hãi hùng”, chúng
“khiếp sợ” đến
“kinh ngạc” không hiểu “Tại sao chúng cho máy bay B52 giập nhiều bom đến thế mà
du
kích vẫn còn nguyên hết cả”[12/84], vì thế lúc nào chúng cũng phập phồng, bất an
“tâm
trạng của chúng hệt như tâm trạng tên thợ săn quèn đi trong rừng nghe có mùi cọp
nhưng
chưa thấy cọp xuất hiện đâm hoang mang nghi ngại cọp rình sát bên mình và không
biết lúc
nào nó sẽ vồ lấy mình.” [12/84]. Từ chỗ chủ động “đi tìm chủ lực quân giải phóng
để diệt”
thì cuối cùng lại chuốc lấy sự thất bại thảm hại. Nhưng những tên lính Mĩ ở miền
Nam Việt
Nam không chỉ có thế, chúng tàn ác một cách bệnh hoạn, qua cách miêu tả của Anh
Đức
chúng ta nhận thấy đó là những con thú đúng nghĩa. Chúng “ăn uống và hãm hiếp
thì nhiều
mà đánh chác chẳng được bao nhiêu.”[12/38]. Điều này được nhắc đi nhắc lại trong
nhiều
bút kí, cho thấy sự thảm hại, bất lực của chúng trong cuộc chiến tranh này “Quân
đội Mỹ
thiệt là thứ quân đội quái gỡ nhất thế giới, vũ khí có mười mà tinh thần không
có lấy một.
Chúng đánh chác không ra sao, nhưng sự ăn uống, sự chơi bời thì quá
đáng”[12/41]. Nhưng
đáng sợ hơn hết, những con thú ấy là những con thú cuồng dâm, khát máu “Nó đã
hiếp chết
nhiều cô gái, trong cơn cuồng dâm đã có thằng bóp siết cổ con gái ngủ với nó đến
chết”[12/41]; Chúng trở nên bệnh hoạn, trở nên đồi bại trong những buổi chiều
sau những
trận càn “Giặc Mĩ đóng quân trên trảng thấy gái đĩ thì chúng kêu ré lên như
những con thú
chạy xổ tới. Anh thấy bốn tên Mĩ bế xốc ngay một gái điếm mặc áo dài đỏ xuống
trước tiên,
tha chạy như tha một miếng mồi” [12/90,91]. Sự khát máu đó ở đỉnh điểm là cái
tham vọng
“ăn thịt người” với đầy đủ nghĩa đen của nó. “Bọn ăn thịt người tới mức độ đã
biết ngon, biết
chế biến ra cách xào nấu, biết lỗ tai người và bàn tay người là ngon nhất. Giành
nhau một cái
mật người, chúng có thể đâm nhau, bắn nhau…”[13].
Đọc những câu đối thoại trong bút kí Chế Lan Viên hẳn bất kì một người đọc – là
Con
Người đều phải rùng mình,
- Anh nghĩ thế nào về việc trong quân đội anh có kẻ ăn thịt người?
Hắn trả lời không khiêu khích, không khoe khoang:
- Ăn thịt người à? Thì có gì lạ! thịt người, tôi chưa ăn. Nhưng gan người thì ở
trường sĩ
quan, ai mà không được nếm vài lần?”[92/16].
Đó là những hình ảnh hết sức chân thực về những tên giặc trên đất nước chúng ta
mà
cả Nguyễn Tuân, cả Anh Đức cũng như Chế Lan Viên đều chung một trực cảm rằng,
chỉ
không lâu nữa với những con thú đồi bại như thế thì giặc Mĩ sẽ chuốc lấy thất
bại đau
thương ngay trên mảnh đất nhỏ bé này.
Khắc họa những tên “giặc trời” hay những tên lính bộ binh, các nhà văn đều tỏ rõ
sự
khinh bỉ, sự ghê tởm, đồng thời qua đó cũng khơi gợi ở người đọc có chung cảm
xúc đó với
mình. Có một điều dễ thấy là dù ở đâu, những tên giặc Mĩ đó với cách thể hiện
khác nhau
nhưng cùng chung một bản chất: tàn ác và khát máu.
Viết về mảnh đất Cu-ba anh em, Thép Mới ngoài việc giới thiệu cùng bạn đọc sự
lớn
mạnh của đất nước, con người Cu-ba, lồng vào đó, ông cũng phác họa được chân
dung của
những kẻ đã từng muốn thôn tính đất nước đầy nắng ấy. Những tội ác trước đây
cũng như
bây giờ của giặc Mĩ đối với Cu-ba đã được Thép Mới miêu tả rất kĩ hầu hết trong
các bút kí
trong tập Hiên ngang Cu-ba. Đó là một lũ tham tiền và khát máu, chúng đánh vào
kinh tế với
hai đòn rất ác “bắt Cu-ba độc canh trồng mía, và nắm hết mối ngoại thương của
Cu-ba.
Đường Cu-ba phục vụ nhu cầu của Mĩ và dạ dày người Cu-ba chứa lương thực thừa
cho
Mĩ”[51/14,15]. Chúng đánh cả vào chính trị bằng đòn rất nham hiểm, chúng đã dụ
dỗ các
nước Châu Mĩ để “thông qua nghị quyết gạt Cu-ba ra khỏi tổ chức các nước châu
Mĩ, dọn
đường cho những cuộc can thiệp trắng trợn hơn nữa vào Cu-ba sau này”[51/50]. Về
văn hóa,
chúng đã đưa sang nơi đây lối sống “xa hoa, hỗn loạn, đàng điếm” và cả những
điệu nhảy
“hu-la-hup” – lối nhảy ấy làm cho con người ta “ưỡn ẹo một cách cuồng dại.
Hu-la-húp, lối
nhảy chỉ động đụng có hạ bộ con người, đỉnh cao nhất của văn hóa Mĩ”[51/98]. Thế
nhưng,
dù bằng bất kì con đường xâm lược nào thì Mĩ cũng phải trả giá cho sự ngông
cuồng của
mình để kết cục là sự thất bại thảm hại trên đất nước Cu-ba.
2.3. Sự hiện diện của cái tôi trần thuật
2.3.1. Cái tôi trải nghiệm của nhà văn
Khác với các thể loại khác, ký luôn đòi hỏi sự có mặt trực tiếp của tác giả
trong tác
phẩm.
Trong kí tự sự, người đọc không chấp nhận cách khai thác gián tiếp. Người kể
chuyện
là người trong cuộc, chứng kiến, quan sát, lắng nghe và tham dự trực tiếp một
phần vào công
việc.
Trong kí trữ tình “cái tôi nhiều khi trở thành một trong những trung tâm tác
động qua
lại với những điển hình về người thật việc thật trong cuộc sống. Ở đây cái tôi
hiện hình như
một nhân vật trữ tình để thu về những ấn tượng mạnh mẽ của cuộc đời và phát biểu
ra những
cảm xúc, suy nghĩ”[16/47].
Nếu như trong kí giai đoạn 1945 – 1954, các nhà văn cũng đã bắt đầu có ý thức
trải
nghiệm, đi để viết, viết rồi lại đi. Các nhà văn đã đi theo những đoàn quân,
tham gia các
chiến dịch, Tuy nhiên, thể hiện trong tác phẩm, sự trải nghiệm đó đôi khi còn
mang màu sắc
chủ quan. Nhưng sang giai đoạn 1954 – 1975, cái tôi chủ quan của nhà văn đã thực
sự hòa
vào cái ta, hòa vào dân tộc và cái tôi bây giờ thực sự là cái tôi công dân, cái
tôi trải nghiệm.
Sự hòa mình đó không chỉ diễn ra đối với những nhà văn trưởng thành trong kháng
chiến mà
ngay cả đối với những nhà văn từng thành công trong văn học giai đoạn trước cách
mạng
nay bắt đầu “lột xác” như Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên. Trong mỗi tùy bút, bút kí,
chúng ta
luôn thấy cái tôi công dân ấy hiện hữu trên từng trang văn, từng câu chữ với tư
cách là những
chứng nhân lịch sử. Họ hăng hái đi thực tế sản xuất và chiến đấu cùng với công
nông binh để
lấy tư liệu, để thấy, để nghe, để viết nên những trang văn nóng hổi tính thời
sự, nóng hổi tính
chân thật. Điều này lí giải cho việc các tác giả sử dụng đại từ nhân xưng ngôi
thứ nhất – Tôi
để báo hiệu sự có mặt của mình, đó chính là sự trải nghiệm cùng sự kiện, cùng
nhân vật.
Trong các tác phẩm xuất hiện không ít những cụm từ như “Tôi thấy…”, “Tôi nghe…”,
hay
“Tôi đã gặp…” để chúng ta hiểu rằng các nhà văn viết tùy bút, bút kí của chúng
ta đã trực
tiếp đi vào cuộc kháng chiến, đi vào đời sống của nhân dân mà sống, mà viết.
“Trong chiến tranh, khi cầm bút viết về cuộc chiến đấu đang diễn ra, trong đó
những
nhà văn của chúng ta đồng thời là người tham dự, người trong cuộc, người chiến
sĩ, bản thân
họ tự nguyện coi mình là người cổ vũ, nhà tuyên truyền nhiệt huyết cho cuộc
chiến đấu
đó.”[10/157]. Vì thế ta nhận ra dấu chân của các nhà văn lúc thì ở “tọa độ lửa”
Hà Nội nóng
bỏng, lúc lại về khu Bốn đầy nắng gió, lúc lại ở giữa rừng đước vi vu nơi đất
mũi Cà Mau.
Dù ở nơi đâu thì họ cũng làm nhiệm vụ của người thư kí trung thành của thời đại.
Anh Đức
đã lăn lộn với đồng bào đang chiến đấu gian khổ và anh dũng ở miền Nam, trong
các bút kí
của anh ta luôn bắt gặp hình ảnh một nhà văn – một người chiến sĩ lúc thì “tham
dự trận tiêu
diệt chi khu Cái Nước”[13], lúc lại “mấy hôm nay tôi đến Sài Gòn”[12/31) hay là
“Tôi có
mặt ở Tây Ninh từ khi giặc Mĩ mở màn mùa nắng của chúng với trận càn
At-tơn-bo-rơ, cho
nên tôi ngó thấy cái không khí giặc Mĩ rậm rịch mở màn trận càn Gian-xơn-xi-ty
rõ
lắm.”[12/71]. Rõ ràng, chúng ta nhận thấy “Anh Đức đã bước vào đúng cái quỹ đạo
mà mỗi
nghệ sĩ cách mạng cần phải bước vào: anh đã và đang đứng ở mũi nhọn của cuộc
sống, đã và
đang sống chiến đấu cùng với những con người tiền tuyến, những con người anh
hùng nhất
của thời đại. Điều ấy như một cái giấy phép mà cách mạng đã trao để anh có quyền
nói to lên
một cách không ngượng ngùng mà là lòng đầy tự hào kiêu hãnh về những kỳ công,
những
niềm yêu nỗi ghét, những ước mơ táo bạo của nhân dân mà cũng là của chính
anh.”[89].
Không chỉ với Anh Đức mà điều đó cũng diễn ra với hầu hết nhà văn cách mạng. Nếu
không trực tiếp đi xuống vùng Mỏ Cày – Bến Tre thì Trần Hiếu Minh không thể có
những
trang bút kí ngồn ngộn chất liệu hiện thực, nóng hổi tính thời sự như Cửu Long
cuộn sóng.